Quản lý nguồn nhân lực trong khu vực công tại Cộng hòa Liên bang Đức

Cộng hòa Liên bang Đức có tổng diện tích là 357.021 km² nằm giữa trung tâm châu Âu và được bao bọc bởi 9 nước láng giềng: Pháp, Thụy Sĩ, Áo, Séc, Ba Lan, Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ và Lúcxămbua. Nước Đức có vị trí chiến lược ở đồng bằng Bắc Âu và lối vào biển Bantích. Dâm số của quốc gia này ước tính khoảng 83,3 triệu người.

Đức là thành viên của các tổ chức như: Liên hợp quốc, Liên minh châu Âu, khối Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, khối G7, là nền kinh tế quốc dân lớn nhất Liên minh châu Âu (EU) và là cường quốc công nghiệp thứ tư trên thế giới sau Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản với GDP ở mức 3.600 tỷ USD (năm 2013). Đây là quốc gia xuất khẩu lớn thứ hai trên thế giới và luôn giữ vai trò nòng cốt trong quá trình toàn cầu hóa kể từ sự ra đời của ngành công nghiệp tư bản.

Đức có một mạng lưới hệ thông an sinh xã hội (bảo hiểm y tế, hưu trí, chăm sóc người già, bảo hiểm thất nghiệp…) rất phát triển do người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng. Hầu hết người dân ở Đức được bảo hiểm y tế. Với mức chi ngân sách cho y tế chiếm 10,4% (tính trên GDP) thì Đức có mức chi trên mức trung bình của các nước OECD là 8,9%

docx 65 trang Minh Tâm 29/03/2025 160
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Quản lý nguồn nhân lực trong khu vực công tại Cộng hòa Liên bang Đức", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quản lý nguồn nhân lực trong khu vực công tại Cộng hòa Liên bang Đức

Quản lý nguồn nhân lực trong khu vực công tại Cộng hòa Liên bang Đức
 I .CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC
1. Giới thiệu khái quát về Cộng hòa Liên bang Đức
 Cộng hòa Liên bang Đức có tổng diện tích là 357.021 km² nằm giữa trung tâm 
châu Âu và được bao bọc bởi 9 nước láng giềng: Pháp, Thụy Sĩ, Áo, Séc, Ba Lan, 
Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ và Lúcxămbua. Nước Đức có vị trí chiến lược ở đồng bằng 
Bắc Âu và lối vào biển Bantích. Dâm số của quốc gia này ước tính khoảng 83,3 triệu 
người.
 Đức là thành viên của các tổ chức như: Liên hợp quốc, Liên minh châu Âu, khối 
Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, khối G7, là nền kinh tế quốc dân lớn nhất Liên minh 
châu Âu (EU) và là cường quốc công nghiệp thứ tư trên thế giới sau Hoa Kỳ, Trung 
Quốc, Nhật Bản với GDP ở mức 3.600 tỷ USD (năm 2013). Đây là quốc gia xuất 
khẩu lớn thứ hai trên thế giới và luôn giữ vai trò nòng cốt trong quá trình toàn cầu 
hóa kể từ sự ra đời của ngành công nghiệp tư bản.
 Đức có một mạng lưới hệ thông an sinh xã hội (bảo hiểm y tế, hưu trí, chăm sóc 
người già, bảo hiểm thất nghiệp ) rất phát triển do người lao động và người sử dụng 
lao động cùng đóng. Hầu hết người dân ở Đức được bảo hiểm y tế. Với mức chi ngân 
sách cho y tế chiếm 10,4% (tính trên GDP) thì Đức có mức chi trên mức trung bình 
của các nước OECD là 8,9%
2. Bộ máy quản lý hành chính ở Cộng hòa Liên bang Đức
 Lãnh thổ Đức bao gồm 16 bang, trong đó có 5 bang được chia thành 22 vùng 
hành chính. Mỗi bang có một bộ máy chính quyền với chủ quyền riêng, Hiến pháp 
riêng, có cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp riêng. Đứng đầu mỗi bang là Thủ 
hiến bang.
 Đơn vị hành chính địa phương được Hiến pháp bang quy định: dưới bang là 
huyện, tổng, thành phố không thuộc huyện; tiếp đó là cấp xã, công xã. Các cơ quan 
chính quyền địa phương đều do người dân trực tiếp bầu ra, người đứng đầu bộ máy 
hành chính là Chủ tịch hội đồng cũng do người dân trực tiếp bầu. Riêng cấp vùng 
không có cơ quan chính quyền mà do chính phủ bang đảm nhiệm. Thẩm quyền liên 
bang, bang và chính quyền địa phương được phân định rõ ràng.
 Quyền hành pháp thuộc vầ Chính phủ Liên bang với tư các là nguyên thủ quốc 
gia. Tổng thông thay mặt nhà nước Liên bang trong việc đối nội, đối ngoại, kiểm tra, 
ký và công bố các dự án luật, tuyên bố tình trạng khẩn cấp, đề nghị bổ nhiệm, miễn 
nhiệm chức vụ Thủ tướng; bổ nhiệm, miễn nhiệm các bộ trưởng theo đề nghị của 
Thủ tướng; bổ nhiệm, miễn nhiệm các phẩm phán liên bang. Tổng thống có quyền 
ban lệnh ân xá, có thể tuyển bố tình trạng khẩn cấp theo đề nghị của Thủ tướng và 
chấp nhận của Hội đồng Liên ban. Tổng thống phải từ bỏ đảng phái, không được 
tham gia các cơ quan nhà nước khi đang tại chức. Thượng viện và Hạ viện có quyền kiện Tổng thống ra Tòa án Hiến pháp Liên bang và có quyền phế truất Tổng thống. 
Tổng thống do Hội nghị Liên bang gồm các thành viên của Quốc hội 16 bang (số 
lượng tương đương Quốc hội Liên bang) bầu ra, có nhiệm kỳ 5 năm và có thể tái cử 
thêm một nhiệm kỳ.
 Đứng đầu chính phủ là Thủ tướng Liên bang, người có thẩm quyền quyết định 
đường lối chính trị của Chính phủ Liên bang, giữ vai trò lãnh đạo Nội các. Thủ tướng 
có quyền lựa chọn các thành viên chính phủ để Tổng thống bổ nhiệm, có quyền quyết 
định những phương hướng cơ bản trong lĩnh vực chính trị, điều hành hoạt động cơ 
bản của chính phủ, lãnh đạo, chủ tọa các phiên họp của chính phủ và đề nghị Tổng 
thống bổ nhiệm, cách chức các bộ trưởng. Thủ tướng do Quốc hội Liên bang bầu ra 
với đa số phiếu tuyệt đối tán thành và có nhiệm kỳ 4 năm.
3. Đội ngũ công chức ở Cộng hòa Liên bang Đức
 Luật cơ bản của Đức quy định nguyên tức vè địa vị của công chức phục vụ trong 
chính quyền liên bang, bang hay địa phương. Công chức liên bang chịu sự điều chỉnh 
của Luật công vụ. Cấp liên bang có thẩm quyền xây dựng khung pháp lý liên quan 
đến tất cả công chức, áp dụng đồng nhất giữa các ngạch khác nhau.
 Công chức hành chính được phân thành hai loại: công chức thuộc hệ thống chức 
nghiệp hay theo nghĩa rộng đều giữ các chức vụ trong nền hành chính truyền thống 
(quản lý, cảnh sát và giáo dục). Công chức theo nghĩa hẹp nhất có số lượng rất ít so 
với các nhóm nhân sự khác trong khu vực công mặc dù điều kiện làm việc và quy 
định pháp lý được áp dụng giống nhau và thực tế là các công chức này tạo nên nhóm 
hành chính tinh hoa. Nhân sự công khác làm việc theo điều khoản quy định trong 
hợp đồng tuyển dụng nhưng trên thực tế họ có vị trí được bảo đảm ổn định như công 
chức. Chỉ có một tỷ lệ nhỏ công chức làm việc ở cấp liên bang và hầu hết công chức 
địa phương thuộc trách nhiệm quản lý của chính quyền hành chính bang.
 Ở Đức, công tác quản lý nguồn nhân lực và việc tuyển dụng công được phân cáp 
rõ ràng, các bộ chịu trách nhiệm trong việc tuyển dụng, đào tạo và quản lý nhân sự 
của mình một các độc lập.
 Công chức của Cộng hòa Liên bang Đức được chia thành ba cấp bậc như sau:
 - Công chức phổ thông và công chức sơ cấp đảm nhiệm công việc tuyên truyền;
 - Công chức trung cấp đảm nhiệm công việc xử lý hành chính;
 - Công chức ca cấp đảm nhiệm công việc về chủ trương, chính sách.
 Công chức phổ thông yêu cầu thấp nhất là tốt nghiệp phổ thông trung học hoặc 
 tương đương. Công chức sơ cấp yêu cầu thấp nhất là tốt nghiệp trung học khoa học 
 thực hành hoặc tốt nghiệp trung học có thành tích cao, đã qua lớp huấn luyện nghiệp 
 vụ. Công chức trước khi đảm nhận công việc được giao phải qua kiến tập một năm 
 và thi để kiểm tra kết quả. Công chức trung cấp phải tốt nghiệp phổ thông trung học, trước khi bổ nhiệm đã 
 trải qua kiên tập 3 năm và thi tuyển qua kiểm tra chuyên môn. Trong thời gian 3 
 năm kiến tập sẽ được chọn vào hệ cao đẳng chuyên nghiệp hoặc được đào tạo chính 
 quy. Sau thời gian học phải nắm được kiến thức chuyên môn khoa học và phương 
 pháp công tác. Thời gian học tập về nội dung chuyên môn nghiệp vụ không dưới 18 
 tháng. Trước khi đảm nhiệm công việc vẫn phải thi đánh giá kết quả.
 Công chức cao cấp tối thiểu phải tốt nghiệp đại học. Đối với công chức loại này, 
 trước khi được bổ nhiệm phải có thời gian kiến tập tối thiếu 2 năm và phải vượt qua 
 kỳ thi đánh giá về khả năng, trình độ chuyên môn.
 Công chức lãnh đạo, theo quy định của Hiến pháp, phải là người có quốc tịch 
 Cộng hòa Liên bang Đức, bất kỳ trường hợp nào cũng phải làm việc theo Hiến pháp 
 để bảo vệ và giữ vững chế độ tự do, dân chủ. Công chức lãnh đạo phải được thẩm 
 tra, xác định là đạt tiêu chuẩn về lòng trung thành và không phải đảng viên của đảng 
 phái hay là một tổ chức nào mới được tuyển dụng.
4. Quản lý nguồn nhân lực trong khu vực công tại Cộng hòa Liên bang Đức
4.1. Mô hình quản lý nguồn nhân lực
 Nhìn chung, nền công vụ của Cộng hòa Liên bang Đức được tổ chức theo mô 
hình chức nghiệp và chia thành các nghạch, bậc công chức cụ thể. Các bậc thấp từ 
A2 đến A6 (không phổ biến). Các bậc trung từ A6 đến A9 và AZ, các bậc cao từ A9 
đến A16, trong đó: các bậc cảnh sát cao cấp từ A9 đến A13, công vụ cao cấp từ A13 
đến A16 (công chức), B1 đến B11 (Quốc vụ khanh là công chức); nhóm không là 
công chức: 11/3xB11 (Bộ trưởng Liên bang), 12/3xB11 (Thủ tướng Liên bang), 
15/6xB11 (Tổng thống Liên bang), W1 (giáo sư đại học), W3 (hiệu trưởng hay viện 
trưởng), C1-C4 (giáo viên), R1-R10 (không là công chức).
4.2. Một số nội dung quản lý nguồn nhân lực
 a. Tuyển dụng
 Tuyển dụng công chức là một khâu quan trọng kiểm soát chất lượng đầu vào 
nguồn nhân lực cho nền công vụ của các quốc gia. Việc luật hóa khâu tuyển dụng 
công chức luôn được nhiều nước coi trọng và hoàn thiện. Cộng hòa Liên bang Đức 
là quốc gia có nền công vụ theo chế độ chức nghiệp nên áp dụng nguyên tắc thông 
nhất là mọi công chức phải qua thi tuyển nhằm chọn người ưu tú để bổ nhiệm. Việc 
tuyển dụng các ứng viên phải được tiến hành theo nguyên tắc công khai. Chính phủ 
có thể ban hành nghị định quy định về các trường hợp ngoại lệ dựa trên tiêu chuẩn 
công chức đã quy định trong Luật công chức liên bang. Các thức thi tuyển do cơ 
quan công vụ cao nhát quy định trên cơ sở Điều 6 Luật bình đẳng giới của liên bang.
 Việc lựa chọn các ứng viên căn cứ vào năng lực, khả năng và trình độ chuyên 
môn, không phân biệt giới tính, thành phần, sắc tộc hay dân tộc, tàn tật, tôn giáo, thế giới quan, quan điểm chính trị, quê quán, quan heek Việc tuyển chọn cũng được dựa 
trên cơ sở các quy định về cơ cấu trong khi kiểm tra các hồ sơ cụ thể, đồng thời thực 
hiện hiện chính sách hỗ trợ người tàn tật.
 Công chức đươc tuyển dụng không phải để làm một công việc nhất định ở một 
vị trí công tác duy nhất, mà được tiếp nhận vào nền công vụ để làm việc trong một 
ngạch và có thể đảm nhận nhiều nhiệm vụ công tác khác nhua. Một nghạch bao gồm 
tất cả các chức trách của một ngành chuyên môn đòi hỏi có cùng mức độ đào tạo 
hoặc khả năng tương ứng với các điều kiện đó.
- Điều kiện bằng cấp tối thiếu đối với ngạch, bậc đơn giản là: tốt nghiệp trung học 
cơ sở hoặc trình độ tương đương.
- Điều kiện tối thiểu đối với ngạch bậc trung:
+ Điều kiện về học vấn: tốt nghiệp trung học phổ thông, đủ điều kiện học đại học 
hoặt một trình độ học vấn tương đương.
+ Các điều kiện khác phải có: một đợt công tác thực tập gắn liền với kỳ thi ngạch, 
bậc, hoặc trình độ tương đương với địa học đại cương hoặc trình độ tương đương, 
hoặc tốt nghiệp cử nhân đại cương và có một nghề nghiệp chính.
- Điều kiện tối thiểu đối với ngạch cao cấp:
+ Điều kiện học vấn: tốt nghiệp cử nhân hoặc tốt nghiệp một trình độ tương đương.
+ Các điều kiện khác: một đợt công tác thực tập gắn liền với kỳ thi nghạch, bậc 
hoặc một nghề nghiệp chính.
 Bên cạnh các quy định của pháp luật về công chức, Bộ Tư pháp xây dựng riêng 
một bản phác họa những yêu cầu khung đối với các vị trí công việc, trong đó đưa ra 
các tiêu chuẩn về năng lực phương pháp, bao gồm: khả năng tổ chức công việc, tư 
duy phân tích, khả năng giao tiếp, khả năng giải quyết, khả năng hòa nhập tập thể, 
cộng tác, khả năng giao tiếp, khả năng giải quyết mâu thuẫn và phê bình; năng lực cá 
nhân, bao gồm: khả năng chịu đựng tước áp lực công việc, cường độ công việc, tính 
kiên trì, tính trách nhiệm và sáng tạo. Tuyển dụng ở Đức ít sử dụng hình thức thi lý 
thuyết, vì họ cho rằng các ứng cử viên đã có đủ bằng cấp chứng minh khả năng chuyên 
môn, do đó chỉ chú trọng kiểm tra những kiến thức, kỹ năng ngoài chuyên môn như: 
các ứng xử, kỹ năng giao tiếp, các khả năng về tâm lý.
 b. Luân chuyển, thuyên chuyển
 Công chức trong trường hợp đồng ý có thể tạm thời được chuyển hoàn toàn sang 
làm một phần công việc phù hợp với chuyên môn tại một cơ quan công sở không sử 
dụng công chức theo công vụ hoặc vì lợi ích công hoặc tại cơ quan khác theo yêu cầu 
của lợi ích công công. Quyết định do cấp lãnh đạo cao nhất cơ quan hoặc do người 
được ủy quyền ban hành. Công chức được phân công đảm nhận một phần hoặc toàn bộ công vụ tại một cơ 
quan theo luật công không quản lý công chức tại một cơ quan thuộc nhà nước thành 
lập theo luật tư có thể được phân công công việc phù hợp với yêu cầu công vụ ngay 
cả trong trường hợp không có sự đồng ý của công chức nếu việc phân công đó là do 
yêu cầu của lợi ích cộng đồng chung. Trong trường hợp này, địa vị pháp lyscuar công 
chức là không thay đổi.
 c. Đào tạo, phát triển
 Cộng hòa Liên bang Đức coi việc đào tạo, bồi dưỡng công chức là rất cần thiết. 
Công chức sơ cấp được bồi dưỡng 6 tháng; công chức trung cấp thì đào tạo 2 năm; 
công chức cao cấp thì đào tạo 3 năm. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng rất thiết thực, gắn 
liền với thực tiễn điều hành nền hành chính. Việc bồi dưỡng tập trung vào kỹ năng 
thực thành. Đội ngũ giảng viên phần lớn là những nhà hoạt động thực tiễn có kinh 
nghiệm chứ không phải là những giảng viên chuyên nghiệp của các trường hành 
chính.
 Nghị định về ngạch Liên bang quy định việc khuyến khích bồi dưỡng chuyên 
môn nghiệp vụ công chức. Học viện Liên bang về hành chính công thành lập theo 
quyết định của chính phủ đươc xây dựng thành trung tâm bồi dưỡng nhằm mục đích 
này. Học viện theo đuổi các mục tiêu như: cập nhật hóa sự hiểu biết chuyên môn; 
khuyến khích sự hợp tác quốc tế của ngành; truyền đạt các kỹ thuật mới về kế hoạch 
hóa và quyết định; truyền đạt các phương pháp lãnh đạo hiện đại; khuyến khích đào 
tạo chính trị trên cơ sở những hiểu biết chung về chuyên môn.
 Công chức có nghĩa vụ tham gia khóa bồi dưỡng để nâng cao năng lực đảm nhiệm 
vị trí, chức trách của mình hoặc các hoạt động nghiệp vụ tương tự. Ngoài ra, công 
chức phải tự mình bổ túc nâng cao trình độ đáp ứng các yêu cầu của ngạch.
 Việc đào tạo đội ngũ công chức lãnh đạo nguồn có ba mô hình đào tạo được áp 
dụng ở ba trung tâm: khóa đào tạo công chức lãnh đạo hành chính ở Bang Bayern, 
Viện Công chức lãnh đạo ở Bang Baden Wuerttemberg và Viện Đào tạo lãnh đạo 
thuộc Đại học Hành chính Đức tại Speyer. Các mô hình đào tạo này có những nội 
dung, hình thức, đối tượng và thời gian đào tạo khác nhau, nhưng đều có điểm chung 
cơ bản sau:
- Các chương trình đều hướng tới việc cung cấp các kiến thức và kỹ năng liên 
ngành, đa dạng và tổng hợp cho các học viên.
- Nội dung đào tạo, bồi dưỡng rất thiết thực, gắn liền với thực tiễn điều hành nền 
hành chính. Việc bồi dưỡng tập trung vào các kỹ năng thực hành.
- Đội ngũ giảng viên phần lớn là những nhà hoạt động thực tiễn có kinh nghiệm 
chứ không phải là giảng viên chuyên nghiệp của các trường hành chính. - Hình thức và phương pháp đào tạo rất đa dạng, nhằm khuyến khích học viên tự 
tham gia một cách tích cực vào quá trình đào tạo, hướng tới việc tạo ra khả năng hoạt 
động độc lập, đồng thời huấn luyện các kỹ năng làm việc theo nhóm.
- Vai trò thực tập được đánh giá cao: tất cả các chương trình đào tạo đều đặt ra 
nhiệm vụ thực tế như một nhiệm vụ bắt buộc. Việc tiến hành thực tế ở nước ngoài tạo 
ra khả năng mở rộng tầm nhìn và suy nghĩ cho cán bộ lãnh đạo sau này.
- Trong quá trình học, học viên được trang bị các kiến thức và kỹ năng lãnh đạo 
cần thiết cho công tác lãnh đạo hành chính. Điều đó tạo ra khả năng thăng tiến lớn 
cho mỗi học viên nhưng không có sự bố trí, sắp xếp trước vị trí công tác cao hơn cho 
học viên theo kết quả của khóa học.
 d. Đánh giá
 Việc đánh giá công chức được quy định tối thiểu 5 năm một lần phải kiểm tra lại 
năng lực và thành tích của công chức. Việc đánh gá có thể thực hiện bất kể khi nào, 
không phụ thuộc vào quy định về thời gian trên nếu có yêu cầu về công vụ hoặc nhân 
sự. Các nội dung đánh giá là: tình trang tinh thần, tính cách cá nhân, trình độ được 
đào tạo, thành tích công tác, thái độ xã hội và khả năng chịu đựng. Kết quả là một 
bản nhận xét chung kèm theo các đề nghị đối với việc tiếp tục sử dụng công chức. 
Toàn bộ nội dung sẽ được thông báo cho công chức và lưu vào hồ so nhân sự, Đối 
với các vị trí thấp hơn như vụ trưởng, việc đánh giá được thực hiện theo quy chế 
chung. Các vị trí cao hơn đôi khi được miễn đánh giá định kỳ.
 e. Tiền lương và chê độ phú lợi
 Tiền lương:
 Việc trả lương công chức do Luật trả lương công chức liên bang quy định. Luật 
này áp dụng cho tất cả những người hưởng lương công chức của liên bang, các bang, 
các xã, liên xã, cơ quan công quản, theo luật công. Luật trả lương công chức được 
quy định thống nhất trong toàn liên bang, những yếu tố đặc biệt về pháp luật của bang 
cũng chỉ được xem xét khi đạo luật này của liên bang cho phép có ngoại lệ.
 Nguyên tắc của việc trả lương là tiền lương tương xứng và phù hợp với chức 
trách được giao. Nó phải bảo đảm để người công chức toàn tâm cống hiến cho nghề 
nghiệp của mình. Chỉ có một ngành công chức độc lập về kinh tế mới có thể thực 
viên được nhiệm vụ mà Luật cơ bản giao phó.
 Chế độ tiền lương công chức, viên chức bao gồm:
 - Lương cơ bản.
 - Phụ cấp lương cơ bản đối với giao sư các trường đại học.
 - Phụ cấp khu vực.
 - Phụ cấp ngành, nghề. - Lương viên chức.
 - Sinh hoạt phí khi thực hiện công vụ ở nước ngoài.
 Ngoài ra, chế độ lương còn có: lương thử việc, tiền thưởng đặc biệt hàng năm ( 
thưởng nhân dịp Lễ Giáng sinh, các khoản thưởng thành tích, tiền phép năm, ).
 Lương cơ bản bao gồm các nhóm lương, trong đso các bậc lương từ A1 đến A6 
và từ C1 đến C4 (dành cho giảng viên đại học) gồm các mức lương cơ bản và tịnh 
tiến. Các bậc lương từ B1 đến B11 là lương cơ bản cố định. Khác với bậc lương cơ 
bản cố định, lương cơ bản tịnh tiến được chia thành các mưc theo tuổi tác và thâm 
viên công tác và cứ 2 năm nâng bậc 1 lần cho đên khi kết thúc bậc lương cơ bản đó. 
Ở thang lương dnafh cho các chức trách cao và cao nhất thì bậc lương cơ bản cuối 
cùng có thể đạt được sớm vì ít quy định về tuổi hơn.
 Từng ngạch cụ thể có các bậc lương sau:
 - Ngạch sơ cấp: các bâc lương từ A2 (ví dụ, người giúp việc) đến A6 (ví dụ, tổ 
trưởng tổ giúp việc).
 - Ngạch trung cấp: các bậc lương từ A6 (ví dụ, trợ lý chính phủ) đến A9 (ví dụ, 
thanh tra công sở).
 - Ngạch cao cấp: các bậc lương từ A9 (ví dụ, thanh tra chính phủ) đến A13 (ví 
dụ, chuyên viên cao cấp)
 - Ngạch cao nhất: các bậc lương từ A13 (ví dụ, chuyên viên chính phủ) đến A16 
(ví dụ, vụ trưởng của các bộ)
 Bảng lương B áp dụng chủ yếu cho các công chức có vị trí quan trọng (Quốc vụ 
khanh, thứ trưởng, lãnh đạo bộ, vụ trưởng, chủ tịch các cơ quan công quyền Liên 
bang ).
 Chế độ đãi ngộ:
 - Phụ cấp: Công chức chỉ được hưởng phụ cấp theo pháp luật quy định. Phụ cấp 
là một phần của lương và khác với khu vực kinh doanh, ai cũng có thể biết được. Có 
các nhóm phụ cấp sau:
 + Phụ cấp đối với ngành đặc biệt (ví dụ: phụ cấp ngành cảnh sát, cứu hỏa, an 
ninh, phi công)
 + Phụ cấp khó khăn.
 + Phụ cấp để cân bằng trong việc bảo lưu khi bị giáng bậc do sự thay đổi tổ chức 
hoặc tổn hại sức khỏe
 - Chế độ nghỉ phép và nghỉ hưu: Chế độ nghỉ phép được quy định trong Luật 
công chức hay nghị định của Chính phủ Liên bang. Chế độ nghỉ phép gồm nghỉ phép 
thông thường và nghỉ phép đặc biệt. + Nghỉ phép thông thường: thời gian nghỉ tính theo tuổi. Đối với công chức ở lứa 
tuổi từ 30 đến 40 còn tính theo mức lương. Một số trường hợp còn được hưởng thêm 
phép. Ví dụ, đối với công việc thường xuyên theo ca đêm được thêm 1-4 ngày lao 
động (đối với công chức chính sách từ 50 tuổi trở lên)
 + Nghỉ phép đặc biệt nhằm thực hiện các mục đích và công việc như: thực hiện 
quyền và nghĩa vụ công dân, thực hiện các nhiệm vụ xã hội tự nguyện, đào tạo thành 
ý tá, các mục đích quân sự hoặc dân sự, 
 - Lương hưu: Công chức được hưởng lương huuw khi có thâm niên công tác ít 
nhất 5 năm, hoặc không có khả năng làm việc do ốm đau, tai nạn hay tổn thất thể chất 
khác do công vụ mà không phải do lỗi của mình. Đối với công chức chính trị còn 
được lĩnh lương hưu khi bị cho về nghỉ tạm thời.
 Tiền lương hưu căn cứ vào tiền lương cơ bản cuối cùng tước khi nghỉ và các phụ 
cấp khác. Tiền lương hưu tính theo năm công tác đã thực hiện và theo đó nâng dần 
lên.
 Công chức về hưu trước thời hạn khi không có khả năng công tác, thời gian từ 
lúc về hưu đến khi đủ 60 tuổi được tính thêm hai phần ba. Thời gian tính thêm này 
càng cao khi về nghỉ trước thời hạn càng sớm. Mức lương về nghỉ hưu trước thời hạn 
tối thiểu được tính bằng 35% thu nhập để tính lương hoặc bằng 65% của bậc cuối 
cùng trong nhóm lương A4.
 Trường hợp công chức về hưu khi chưa đủ 5 năm công tác, cơ quan chủ quản sẽ 
tái bảo hiểm cho họ theo bảo hiểm hưu trí do pháp luật quy định.
5. Cải cách quản lý nguồn nhân lực trong khu vực công tại Cộng hòa Liên bang 
 Đức
 Tiềm năng về nguồn nhân lực chính là yếu tố quyết định động lực của nền hành 
chính công. Nhận thức được tính cần thiết của yếu tố này, Chính phủ Liên bang Đức 
đã và đang tiến hành nhiều bước cải cách quan trong. Cộng hòa Liên bang Đức tiến 
hành cải cách theo hướng tăng cường trung lập và hiệu quả của các ngành công vụ 
lựa chọn và thúc đẩy khách quan các năng lực mà không nhìn nhận theo khía cạnh 
chính trị. Cơ sở của tính trung lập là hành chính được coi như một công cụ phục vụ 
công dân, hoàn thành các nhiệm vụ mang quyền lợi chung và phục vụ công, vừa thực 
hiện các chính sách nhà nước do chính phủ quyết định. Bên cạnh đó, chú trọng giảm 
bớt chi phí nền công vụ thông qua áp dụng các biện pháp kinh doanh truyền thống 
như: giảm biên chế trong những ngành nhất định, hay giảm bớt chất lượng dịch vụ, 
hoặc kéo dài số tuần làm việc hay số năm phục vụ của công chức.
 Ở Đức tiếp tục thực hiện cải cách hệ thống pháp luật công vụ theo hướng xây 
dựng một số văn bản pháp lý nhằm giảm bớt gánh nặng của các khoản chi từ chính 
sách đãi ngộ như thành lập Quỹ đại ngộ từ các khoản đóng góp của công chức với mục đích đảm bảo chắc chắn hơn cho hệ thông bảo hiểm hưu trí độc lập của công 
chức, nâng tuổi nghỉ hưu đồng thời áp dụng giới hạn tuổi nghỉ hưu đặc biệt.
 Áp dụng quy chế “Khả năng phụ vụ từng phần” với tính chất là một quy chế đặc 
biệt của công chức nhằm vận dụng tối đa nguồn nhân lực. Giảm bớt và quy định lại 
các chế độ phụ cấp, trong đó một số loại phụ cấp sẽ được xóa bỏ như phụ cấp vị trí 
việc làm. Cải tiến công tác quản lý nhân lực thông qua việc chuyển từ quản lý nhân 
sự hành chính sang quản lý nhân lực nhằm xây dựng một chính sách phát triển nhân 
lực hợp lý, sử dụng vốn tối ưu nhận lực vốn có.
 Việc cải tiến công tác quản lý nhân lực bao gồm một số nội dung:
 - Xây dựng đề án phát triển nguồn nhân lực hợp lý.
 - Cải thiện quan hệ nội bộ, phổ biến hình thức đối thoại với nhân viên, thực hiện 
thỏa thuận giữa lãnh đạo và nhân viên về mục tiêu thực hiện công việc.
 - Tăng cường công tác bồi dưỡng theo yêu cầu, có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng 
phù hợp.
 - Nâng cao trách nhiệm của cấp lãnh đạo, quản lý trong tiến trình cải cách.
 - Lựa chọn, tuyển dụng đúng người.
 - Thực hiện quy trình đánh giá công chức mới với sự tham gia của nhân viên.
 Trong cải cách tiền lương, Cộng hòa Liên bang Đức đã áp dụng các phương án 
khích lệ, động viên thông qua việc sửa đổi nguyên tắc trả lương theo thâm niên. Kết 
quả thực thi của nhân viên có ảnh hưởng đến việc nâng bậ lương của họ. Mức khuyến 
khích đối với các trường hợp thực tài hay kết quả công tác tốt giới hạn trong 10% 
của tổng số chi hoặc 7% tổng lương của từng ngạch. Hình thưc động viên, khích lệ 
gồm: các bước theo kết quả thực thi: trả cao hơn mức lương hiện hưởng (giới hạn 
trong 15% tổng số nhân viên của một đơn vị), thưởng chi kết quả xuất sắc (không 
lặp lại trong vòng 3 tháng). Phụ cấp thực thi: khoản hỗ trợ thêm trong một giai đoạn 
ngắn, được xác định khi đánh giá công việc; khoản chi theo kết quả công tác trong 
một giai đoạn từ 3 tháng đến 1 năm (tới tối đa 7% lương); khoản chi theo khối lượng 
công việc thưởng cho trách nhiệm công tác trong một giai đoạn từ 7 tháng đên 5 
năm. II. NHẬT BẢN
1. Giới thiệu khái quát về Nhật Bản
 Nhật Bản là quốc gia hải đảo, bao gồm hơn 3.900 đảo, có diện tích tổng cộng là 
37.835 km² nằm xoải theo bên sườn phía đông lục địa châu Á. Nhật Bản là nước có 
dân số lớn thứ 10 thế giới với ước tính khoảng 12 triệu người.
 Đơn vị phân vùng hành chính cấp 1 của Nhật Bản là đô, đạo, phủ, huyện và được 
chia thành 1 đô, 1 đạo, 2 phủ, 43 huyện. Các đô thị lớn tùy theo số dân và ảnh hưởng 
mà được chỉ định làm thành phố chính lệnh chỉ định, thành phố trung tâm, thành phố 
đặc biệt. Phân vùng hành chính dưới đô, đạo, phủ, huyện là thị định thôn, ngoài ra 
còn có các đơn vị như quận, chi sảnh, khu, đặc biệt khu, Căn cứ vào địa lý và 
nhân văn, đặc trưng kinh tế, Nhật Bản thường được chia thành 9 khu vực lớn, bao 
gồm: vùng Hokkaido, vùng Tohoku, vùng Kanto, vùng Chubu, vùng Kinki (còn gọi 
là vùng Kansai), vùng Chugoku, vùng Shikoku, vùng Kyushu và vùng Okinawa. 
Vùng đô thị Tokyo, bao gồm thủ đô Tokyo và một vài quận xung quanh là vùng đô 
thị lớn nhất thế giới với khoảng 35 triệu người sinh sống.
 Nhật Bản theo chế độ quân chủ lập hiến kiểu Anh, trong đó Thiên hoàng là biểu 
tượng của đất nước và sự thống nhất của dân tộc, là nguyên thủ tượng trung về mặt 
đối ngoại. Nhà nước được tổ chức theo chế độ tam quyền phân lập. Ba cơ quan quyền 
lực độc lập và kiểm soát, hỗ trợ lẫn nhau là: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
 Hiện nay, Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ 3 trên thế giới tính theo GDP sau Hoa 
Kỳ và Trung Quốc, thành viên của tổ chức Liên hiệp quốc, G9, G4 và APEC; và 
nước đứng thứ 5 trên thế giới trong lĩnh vực đầu tư cho quốc phòng. Đây là đất nước 
xuất khẩu lớn thứ 4 thế giới và là nước nhập khẩu đứng thứ 6 thế giới 
2. Bộ máy quản lý hành chính nhà nước ở Nhật Bản.
 Bộ máy quản lý hành chính nhà nước ở Nhật Bản được phân chia thành hai cấp: 
chính phủ (cấp trung ương) và chính quyền địa phương.
 Cấp trung ương bao gồm: Nội các chính phủ (gồm Thủ tướng Chính phủ và không 
quá 20 bộ trưởng chịu trách nhiệm tập thể nước Nghị Viện), Cơ quan Nhân sự quốc 
gia (NPA), Ban Kiểm tra và các bộ: Bộ Ngoại giao; Bộ Tư pháp; Bộ Tổng hợp; Bộ 
Tài chính; Bộ Môi trường; Bộ Quốc phòng; Bộ Nông – Lâm – Ngư nghiệp; Bộ Giáo 
dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ; Bộ Y tế; Lao động và Phúc lợi xã 
hội; Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp; Bộ Đất đai, Cơ sở hạ tầng, Giao thông 
vận tải và Du lịch.
 Trực thuộc Văn phòng Nội các có: Ủy ban Điều phối tranh chấp môi trường, Cục 
Khai thác và Phát triển Okinawa, Cục Khai thác và Phát triển Hokkaido, Hội đồng 
An ninh quốc gia, Bạn Hội chợ thương mại, Cục Thổ nhưỡng, Ban Lễ tân Hoàng 

File đính kèm:

  • docxquan_ly_nguon_nhan_luc_trong_khu_vuc_cong_tai_cong_hoa_lien.docx