Chuyên đề Triết học Hy Lạp, La Mã cổ đại
I. TÍNH QUY LUẬT TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG
TRIẾT HỌC
1. Triết học – tinh hoa tinh thần của thời đại
Lịch sử tư tưởng triết học là sự phản ánh lịch sử hiện thực thông qua các
phạm trù, khái niệm đặc trưng của mình. Sự phản ánh đó thể hiện ở nhiều bình
diện khác nhau.3
Trước khi triết học ra đời, hình thức triết lý xưa nhất của nhân loại là
huyền thoại, mà thần thoại là hạt nhân thế giới quan của nó. Thần thoại ngự trị
trong ý thức đại chúng cùng với thuyết nhân hình xã hội nguyên thuỷ, vật linh
thuyết, vật hoạt luận. Người nguyên thủy bị vây bọc trong quyền lực của xúc
cảm và trí tưởng tượng, những quan niệm của họ còn rời rạc, mơ hồ, phi lôgíc.
Các yếu tố tư tưởng và tình cảm, tri thức và nghệ thuật, tinh thần và vật chất,
khách quan và chủ quan, hiện thực và suy tưởng, tự nhiên và siêu nhiên ở thần
thoại còn chưa bị phân đôi. Đỉnh cao phát triển của thần thoại cũng đồng thời
báo hiệu sự cáo chung tất yếu của nó. Triết học – hình thức tư duy lý luận đầu
tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại – ra đời, thay thế cho tư duy huyền thoại và
tôn giáo nguyên thuỷ. Thuật ngữ “triết học” do người Hy Lạp nêu ra1
(philosophia) theo nghĩa hẹp là “yêu mến sự thông thái”, còn theo nghĩa rộng, là
khát vọng vươn đến tri thức; nói khác đi, là “quá trình tìm kiếm chân lý”; nhà
triết học là người yêu mến sự thông thái, khác với nhà bác học (sophos), người
nắm vững chân lý. Tuy nhiên với thời gian triết học được hiểu theo nghĩa rộng:
đó là thứ tri thức phổ quát, tìm hiểu các vấn đề chung nhất của tồn tại và tư duy.
Ở buổi đầu lịch sử tri thức triết học là tri thức bao trùm, là “khoa học của các
khoa học”. Nói như thế không có nghĩa là tư tưởng đạo đức, chính trị, thẩm mỹ,
nghệ thuật chưa xuất hiện. Vấn đề là ở chỗ các tư tưởng đó đã được xem là một
phần của triết học. Trong thời Trung cổ thần học Kytô giáo chiếm vị trí thống trị
trong sinh hoạt tư tưởng. Nhà nước phong kiến và nhà thơ Thiên chúa giáo chỉ
lấy “những cái phù hợp” trong triết học Arixtốt (Aristoteles, Aristotle), trường
phái Platôn (Platon, Plato) để làm chỗ dựa tư tưởng của mình. Triết học trở
thành nô lệ của thần học, của cái gọi là tư duy chuẩn mực, nhà thờ trở thành
“nền chuyên chính tinh thần”, lịch sử các vị thánh quan trọng hơn lịch sử các
danh nhân. Thế kỷ XV – XVI được xem là thời kỳ chuyển tiếp từ chế độ phong
kiến sang xã hội tư sản. Tư tưởng nhân văn trở thành trào lưu chủ đạo và xuyên
suốt, thể hiện ở hầu khắp các lĩnh vực nhận thức và hoạt động thực tiễn, với
thông điệp con người là trung tâm. Từ thế kỷ XVII – XVIII trở đi tư tưởng triết
học, khoa học, đạo đức, thẩm mỹ, chính trị mang tính thế tục và duy lý thay thế
dần thần học vạn năng. Khi trung tâm tri thức chuyển từ Anh và Pháp sang Đức
từ nửa sau thế kỷ XVIII truyền thống “cổ điển” phương Tây, bắt đầu từ Hy Lạp
– La Mã, đạt đến đỉnh cao hoàn thiện nhất, mà điển hình là hệ thống Hêghen
(Hegel).
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyên đề Triết học Hy Lạp, La Mã cổ đại
1 CHUYÊN ĐỀ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC TRIẾT HỌC TRIẾT HỌC HY LẠP , LA Mà CỔ ĐẠI 2 Chuyên đề 1 KHÁI QUÁT TRIẾT HỌC HY LẠP , LA Mà CỔ ĐẠI YÊU CẦU VỀ KIẾN THỨC CƠ BẢN Học viên cần ôn lại kiến thức cơ bản về triết học Hy Lạp, La Mã trước khi đào sâu nội dung chính của chuyên đề SĐH: * Về tính quy luật trong sự phát triển của triết học phương Tây (tính chế định lịch sử - xã hội, tính tất yếu nội tại của sự xuất hiện và diệt vong của các học thuyết triết học, tính kế thừa, con đường vận động từ trừu tượng đến cụ thể, tính thời đại của triết học) * Khái quát sự ra đời, phân kỳ, các chủ đề của triết học Hy lạp, La Mã (sơ khai, hay thời khai nguyên; cực thịnh, hay thời “cổ điển”, khủng hoảng và suy tàn, hay thời kỳ Hy – La) * Khái quát các đặc trưng cơ bản của triết học Hy Lạp, La Mã (tính sơ khai, tính bao trùm về lý luận, tính đa dạng, muôn vẻ, tính biện chứng tự phát, bẩm sinh, tính nhân văn) Tài liệu: Đinh Ngọc Thạch: Triết học Hy Lạp cổ đại; Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999, và một số công trình, bài viết về triết học phương Tây cổ đại của các nhà nghiên cứu như GS, TS. Nguyễn Hữu Vui (Lịch sử triết học, Nxb. CTQG, HN, 1998, đã tái bản năm 2008) PGS. Hà Thúc Minh, PGS, TS. Nguyễn Tiến Dũng, TS. Hà Thiên Sơn, các tác phẩm “Triết học nhân sinh” (Sách dịch, Nxb. Lao động, HN, 2004), “Plato chuyên khảo” (Sách biên dịch, Nxb. Văn hóa – Thông tin, HN, 2008) v.v.. I. TÍNH QUY LUẬT TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC 1. Triết học – tinh hoa tinh thần của thời đại Lịch sử tư tưởng triết học là sự phản ánh lịch sử hiện thực thông qua các phạm trù, khái niệm đặc trưng của mình. Sự phản ánh đó thể hiện ở nhiều bình diện khác nhau. 3 Trước khi triết học ra đời, hình thức triết lý xưa nhất của nhân loại là huyền thoại, mà thần thoại là hạt nhân thế giới quan của nó. Thần thoại ngự trị trong ý thức đại chúng cùng với thuyết nhân hình xã hội nguyên thuỷ, vật linh thuyết, vật hoạt luận. Người nguyên thủy bị vây bọc trong quyền lực của xúc cảm và trí tưởng tượng, những quan niệm của họ còn rời rạc, mơ hồ, phi lôgíc. Các yếu tố tư tưởng và tình cảm, tri thức và nghệ thuật, tinh thần và vật chất, khách quan và chủ quan, hiện thực và suy tưởng, tự nhiên và siêu nhiên ở thần thoại còn chưa bị phân đôi. Đỉnh cao phát triển của thần thoại cũng đồng thời báo hiệu sự cáo chung tất yếu của nó. Triết học – hình thức tư duy lý luận đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại – ra đời, thay thế cho tư duy huyền thoại và tôn giáo nguyên thuỷ. Thuật ngữ “triết học” do người Hy Lạp nêu ra1 (philosophia) theo nghĩa hẹp là “yêu mến sự thông thái”, còn theo nghĩa rộng, là khát vọng vươn đến tri thức; nói khác đi, là “quá trình tìm kiếm chân lý”; nhà triết học là người yêu mến sự thông thái, khác với nhà bác học (sophos), người nắm vững chân lý. Tuy nhiên với thời gian triết học được hiểu theo nghĩa rộng: đó là thứ tri thức phổ quát, tìm hiểu các vấn đề chung nhất của tồn tại và tư duy. Ở buổi đầu lịch sử tri thức triết học là tri thức bao trùm, là “khoa học của các khoa học”. Nói như thế không có nghĩa là tư tưởng đạo đức, chính trị, thẩm mỹ, nghệ thuật chưa xuất hiện. Vấn đề là ở chỗ các tư tưởng đó đã được xem là một phần của triết học. Trong thời Trung cổ thần học Kytô giáo chiếm vị trí thống trị trong sinh hoạt tư tưởng. Nhà nước phong kiến và nhà thơ Thiên chúa giáo chỉ lấy “những cái phù hợp” trong triết học Arixtốt (Aristoteles, Aristotle), trường phái Platôn (Platon, Plato) để làm chỗ dựa tư tưởng của mình. Triết học trở thành nô lệ của thần học, của cái gọi là tư duy chuẩn mực, nhà thờ trở thành “nền chuyên chính tinh thần”, lịch sử các vị thánh quan trọng hơn lịch sử các danh nhân. Thế kỷ XV – XVI được xem là thời kỳ chuyển tiếp từ chế độ phong kiến sang xã hội tư sản. Tư tưởng nhân văn trở thành trào lưu chủ đạo và xuyên suốt, thể hiện ở hầu khắp các lĩnh vực nhận thức và hoạt động thực tiễn, với thông điệp con người là trung tâm. Từ thế kỷ XVII – XVIII trở đi tư tưởng triết học, khoa học, đạo đức, thẩm mỹ, chính trị mang tính thế tục và duy lý thay thế dần thần học vạn năng. Khi trung tâm tri thức chuyển từ Anh và Pháp sang Đức từ nửa sau thế kỷ XVIII truyền thống “cổ điển” phương Tây, bắt đầu từ Hy Lạp – La Mã, đạt đến đỉnh cao hoàn thiện nhất, mà điển hình là hệ thống Hêghen 1 Một số nhà nghiên cứu cho rằng Pythagoras là người đầu tiên tự gọi là philosophos (φιλοσοφος), tức “kẻ yêu mến sự thông thái”, nhưng chính Heraklitus mới là người đầu tiên sử dụng từ này trong một đoạn tản văn của ông. 4 (Hegel). Trong những năm 20 – 40 của thế kỷ XIX đã diễn ra quá trình phi cổ điển hóa các lĩnh vực tri thức, thể hiện ở văn hóa, khoa học, triết học. Bước ngoặt lớn này gắn liền với những biến đổi kinh tế, chính rị, xã hội và chịu sự sự chi phối của những biến đổi ấy. Ngày nay xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa đưa các dân tộc xích lại gần nhau hơn, tăng cường giao lưu, đối thoại, hướng đến lợi ích chung – hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển bền vững. Song bên cạnh đó xung đột về lợi ích vẫn chưa chấm dứt, mà ngày càng diễn biến phức tạp. Đấu tranh tư tưởng và đối thoại tư tưởng đan xen nhau, làm nên bức tranh tư tưởng đa dạng và phức tạp và đầy mâu thuẫn. Các chủ đề của tư tưởng triết học trở nên phong phú, với khá nhiều trào lưu, khuynh hướng lần lượt ra đời và bị thay thế, kể cả những trào lưu, khuynh hướng từng được xem là tuyên ngôn bán chính thức về lối sống của một xã hội. Tìm hiểu sự phát triển của tư tưởng triết học qua các thời đại, C.Mác nhận định: “ mọi triết học chân chính đều là tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại mình”2, và rằng “các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất; họ là sản phẩm của thời đại mình, của dân tộc mình”3. Tính quy luật của sự ra đời, phát triển tư tưởng triết học thể hiện ở những điểm sau: 1) Mỗi hệ thống, trào lưu tư tưởng triết học đều xuất hiện một cách tất yếu, và với tính tất yếu ấy nó chịu sự sàng lọc của lịch sử, bị thay thế bởi những tư tưởng phù hợp với điều kiện lịch sử mới.Quá trình phát sinh, phát triển của tư tưởng triết học chịu sự quy định của những điều kiện lịch sử – xã hội cụ thể. Chính thực tiễn xã hội với toàn bộ tính sinh động và phức tạp của nó chi phối nội dung và thực chất các khuynh hướng, trường phái triết học, vị trí, vai trò của triết học trong đời sống xã hội. Sự thay thế nhau của các học thuyết triết học không tách rời nhu cầu khách quan, hiện thực của con người; 2) Tư tưởng của quá khứ không biến mất hoàn toàn, mà thường để lại di sản của mình; một số nội dung của nó tiếp tục được tìm hiểu, nghiên cứu như những bài học kinh nghiệm của lịch sử, một số khác tiếp tục gia nhập vào cái toàn thể sống động tiến về phía trước; 3) Sự vận động của tư tưởng triết học theo quá trình từ trừu tượng đến cụ thể. Theo đó triết học càng lùi về phía sau càng trừu tượng, càng gần với chúng 2 C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 157. 3 C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 156. 5 ta càng giàu nội dung, càng cụ thể. Mối quan hệ giữa triết học với các lĩnh vực tri thức cũng thay đổi theo thời gian. Vào thời cổ đại, khi trình độ nhận thức chung còn thấp, tri thức khoa học còn ở trong tình trạng tản mạn, sơ khai, thì triết học đóng vai trò là dạng nhận thức lý luận duy nhất, giải quyết các vấn đề lý luận chung về tự nhiên, xã hội, tư duy. Triết học được xem như “khoa học của các khoa học”, còn các triết gia được tôn vinh thành những bộ óc bách khoa, am tường mọi thứ. Tuy nhiên khi các khoa học chuyên biệt với hệ thống lý luận riêng có của mình lần lượt ra đời, thì mọi tham vọng về triết học toàn năng trở nên vô nghĩa. Ph.Ăngghen viết: “Chủ nghĩa duy vật hiện đại không còn là một triết học nữa, mà là một thế giới quan” và “Chủ nghĩa duy vật hiện về bản chất là biện chứng, và nó không cần đến bất cứ một triết học nào đứng trên các khoa học khác”4; 4) Tư tưởng triết học là sản phẩm của thời đại, được sinh ra, nuôi dưỡng, thẩm định bởi thời đại; không có chân lý bất biến, tuyệt đích cho mọi thời đại, do đó không có thứ tư tưởng triết học xuyên qua nhiều thời đại, được thần thánh hóa như những tín điều bất di bất dịch. 2. Tính tất yếu của sự thay đổi các chủ đề tư tưởng triết học Trong sự phát triển tư tưởng triết học, các chủ đề thường xuyên trải qua thay đổi, bổ sung, mở rộng nhằm lý giải một cách kịp thời các quá trình thực tiễn xã hội. Có những chủ đề tư tưởng hôm qua là chủ đạo, hôm nay chỉ còn đóng vai trò thứ yếu; ngược lại, cái mà hôm qua ở dạng phôi thai, thì hôm nay trở thành trung tâm, thành điểm nóng của sự tranh luận. Trong điều kiện chủ nghĩa phổ quát Kytô giáo thống trị vào thời trung cổ vấn đề con người hầu như không được quan tâm, bị hòa tan vào cái phổ quát bao trùm là sự tồn tại của Đấng tối cao. Cuộc tranh luận giữa duy danh luận và duy thực luận chỉ đơn giản xoay quanh tính xác thực của khái niệm “đơn nhất” và “phổ quát”. Song đến thời Phục hưng chủ đề tranh luận đã vượt qua khuôn khổ của hệ chuẩn tư duy trung cổ, mang đậm ý nghĩa của cuộc đấu tranh vì giá trị người, vì sự giải phóng con người cá nhân, thay thế từng bước thuyết thần là trung tâm (theocentrism) bằng thuyết con người là trung tâm (homocentrism, hay anthropocentrism), thay sự thống trị của Thượng đế (regnum Dei) bằng sự thống trị của con người (regnum hominis). Phục hưng là bước chuẩn bị cho thế kỷ XVII – XVIII, tức thời đại của khám phá và phát minh, của “tư duy thiết kế” sáng tạo (chứ không 4 C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập; t.20, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 197 và 42. 6 phải tư duy minh họa, chủ giải cho những chân lý đã có sẵn) Tương tự, nếu trào lưu chủ đạo trong thời Phục hưng là tư tưởng nhân văn với sự tôn vinh hình ảnh con người vươn đến tự do, thì tư tưởng chính trong thế kỷ XVII – XVIII là triết học, chính trị, khoa học. Về triết học chủ nghĩa duy vật chiếm vị thế áp đảo trước chủ nghĩa duy tâm. Về chính trị tư tưởng chính trị thế tục, quan điểm “xã hội công dân” và nhà nước pháp quyền, có mầm mống từ thời Phục hưng, tiếp tục phát triển, làm giàu và sâu sắc thêm thông qua quan điểm của những nhà lý luận kiệt xuất, từ Lốccơ (Locke), Hốpxơ (Hobbes), đến Môngtéxkiơ (Montesquieu), Vônte (Voltaire), Rútxô (Rousseau) Về khoa học thế kỷ ấy chứng kiến nhiều khám phá, phát minh khoa học được ứng dụng vào thực tiễn, lý trí trở thành lý trí có định hướng thực tiễn, với sự thống trị của cơ học. Các nguyên lý của nó tác động đến cả tư duy triết học và chính trị, đưa đến chủ nghĩa máy móc và phương pháp tư duy siêu hình. Các nhà tư tưởng Đức (nửa sau thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX) không chỉ đem đến sự kết thúc đầy ý nghĩa của truyền thống cổ điển trong tư tưởng, mà còn khắc phục những hạn chế trong nhận thức luận thế kỷ trước. Và chính họ, đặc biệt các nhà triết học cổ điển Đức, đi ... là sự lý tưởng hóa dân chủ tư sản. “Thi đua tự do” của các nhóm xã hội, sự tham gia “bình đẳng” của họ vào các cơ quan quyền lực nhà nước – đó là trò bịp. Bản chất giai cấp của nhà nước tư bản hoàn toàn không thay đổi. Đó đã và đang là chuyên chính tư sản, còn CN đa nguyên là một trong những hình thức ngụy trang của nó. Tiếp theo Sh.rov nhấn mạnh tính ưu việt của tập trung dân chủ. Theo Sh.rov tập trung dân chủ dù trong điều kiện hệ thống một đảng hay nhiều đảng (lưu ý rằng vào thời kỳ này ở Việt Nam ngoài Đảng cộng sản còn có Đảng dân chủ và Đảng xã hội tập trung trong Mặt trận tổ quốc) trong các nước 402 Mondo Operaio, Ott.1975, Nel O, p.42. 388 XHCN, đòi hỏi nhất thiết tính đến không chỉ các nhu cầu và quyền lợi chung, thống nhất mà cả các quyền lợi đa dạng khác nhau, các điều kiện lịch sử riêng biệt. Điều này đã hòa hợp một cách hữu cơ vào hệ thống chính trị của CNXH. Song khác với dân chủ tư sản, tiêu chuẩn thông qua các quyết sách, được nền dân chủ XHCN áp dụng, không đưa đến sự gia tăng mâu thuẫn của các lực lượng xã hội mà ngược lại đưa đến việc củng cố sự thống nhất xã hội mà điều này chỉ có thể khi không còn những đối kháng giai cấp và dân tộc, và khi có sự nhất trí các quyền lợi cơ bản của tất cả các tầng lớp dân cư (278). (NT: sặc mùi hô khẩu hiệu!) Câu hỏi 3: Tính đa dạng hay sự thống nhất? *Các nhà lý luận phương Tây, như chúng ta thấy, đã nâng khái niệm “CN đa nguyên” lên trình độ khuynh hướng thế giới quan phổ quát. CN đa nguyên thể hiện như khuynh hướng thế giới quan duy lý và dân chủ, đối lập với cái mà nó gọi là CN nhất nguyên mác xít phi duy lý và cực quyền. Lời khẳng định của nhà triết học Đức K.Bosl: “CN đa nguyên của những quan điểm thế giới quan và tôn giáo, CN đa nguyên trong kinh tế, chính trị, khoa học, nghệ thuật và văn hóa là hình thức tự nhiên của sự thể hiện tồn tại người và hoạt động của con người”. Lập tức nhà chính trị học người Pháp Giăngpôn Belluên viết cho Bosl: “Quy khái niệm CN đa nguyên chỉ về cái nhu cầu và tiêu chuẩn của hệ tư tưởng và chính trị có nghĩa là làm nghèo về căn bản khái niệm này. CN đa nguyên được hiểu rộng hơn nhiều: đó là sự đoạn tuyệt với một thứ triết học hay hệ tư tưởng chính thống (với nghệ thuật hay thẩm mỹ chính thống), đó cũng là đoạn tuyệt với sự hòa lẫn các chức năng của các tổ chức tự nguyện, liên kết với nhau trên cơ sở thỏa thuận tự do, T.e. các đảng chính trị và các chức năng của nhà nước và rộng hơn – các thiết chế và các tổ chức phục vụ toàn thể công dân”403. Phản bác quan điểm của CN đa nguyên chính trị, nhà mác xít lấy ví dụ về các phong trào tôn giáo đã chứng minh rằng trong lịch sử, chẳng hạn, Kytô giáo hay Hồi giáo, Phật giáo – mỗi tôn giáo đều có khá nhiều biến thái khác nhau, hình thành trong những khoảng thời gian nhất định, song chúng không hề xa rời về nguyên tắc những tư tưởng gốc, cơ bản. Chúng vẫn thống nhất xung quanh tín điều từ lúc mới thành lập. Luận cứ này nói lên điều gì? 403 France Nouvlle, P., 3/5, 1977, p.39. 389 Rằng: Mọi sự thống nhất đều hàm chứa trong mình tính đa dạng, trong mọi tính đa dạng đều hàm chứa sự thống nhất. Nếu như chúng ta trở lại với những lời vừa dẫn của Bosl, đặt vào vị trí của từ “CN đa nguyên” bằng từ “sự thống nhất”, chắc hẳn nó sẽ không gây nên sự ngộ nhận ở người đọc, bởi lẽ ở trường hợp này lẫn trường hợp kia luận điểm đều tỏ ra đúng, nhưng đúng từng phần. Chân lý hoàn toàn thể hiện ở chỗ hình thức biểu hiện tự nhiên của tồn tại người và hoạt động người “là thống nhất và đa dạng” trong kinh tế, chính trị, nghệ thuật, văn hóa. Các nhà tư tưởng phương Tây đó không thể hoặc không muốn hiểu biện chứng khách quan này. Thử xem một lần nữa công thức gượng ép mà họ trưng ra như một thứ đồ thức logic tất yếu: tính đa dạng = triết học duy lý = CNTB = dân chủ = CN cá nhân = tự do. Sự thống nhất = CN Marx = CN Lenin = CNXH = CN cực quyền = CN tập thể = bình đẳng . Một sự xuyên tạc đối với những nguyên tắc của CN Marx. NT: lẽ cố nhiên không loại trừ thực tế là CNXH theo mô hình cũ (đã bị sụp đổ) cũng là sự xuyên tạc CN Marx phần nào, sự bê tông hóa những tư tưởng nền tảng đã hình thành từ thế kỷ XIX. SỰ KHỦNG HOẢNG VÀ SỤP ĐỔ MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA Xà HỘI TẠI LIÊN XÔ (VÀ CÁC NƯỚC ĐÔNG ÂU) 1. Mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô là gì? Cần nói thẳng rằng mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô chỉ được bàn đến sau khi nó bị khủng hoảng và đi tới sụp đổ (ngày cáo chung của Liên bang Xô Viết 25/12/1991 cũng là ngày chấm dứt một mô hình). Trước đó không ai, trừ các nhà Mác học phương Tây và những nước ngoài khối SEV (Soviet Economicheskix Vzaimopomos), dám nghĩ đến cái chết của chủ nghĩa xã hội hiện thực, mà theo các nhà lãnh đạo Liên Xô những năm 60 của thế kỷ XX, đang đứng trước ngưỡng cửa của chủ nghĩa cộng sản, hay khiêm tốn hơn thì cho rằng đang xây dựng cơ sở vật chất cho CNCS. Từ “mô hình Liên Xô” được giải thích như một bài học đau đớn của lịch sử, cần được rút kinh nghiệm, nhất là đối với những nước lựa chọn con đường phát triển XHCN như Trung Quốc và Việt Nam hiện nay. Cuba và Bắc Triều Tiên, do những điều kiện đặc thù của mình, vẫn chưa thể vươn đến cách tiếp cận Chủ nghĩa xã hội + kinh tế thị trường. 390 Chủ nghĩa xã hội hiện thực là kết quả cuộc đấu tranh bền bỉ với những hy sinh to lớn của giai cấp công nhân và các tầng lớp quần chúng nhân dân. Nó được khẳng định tại Liên Xô và phát triển rộng khắp sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, trở thành một thực thể chính trị trong thế giới hiện đại, làm cân bằng tương quan lực lượng, ngăn chặn sự bành trướng của các thế lực đế quốc, đống thời là niềm kiêu hãnh của toàn thể nhân loại tiến bộ. Sự phát triển của CNXH hiện thực cũng đặt ra khả năng vận động của lịch sử theo hướng tích cực và tiến bộ, vì mục tiêu dân chủ, công bằng, văn minh. Thế nhưng vì sao chủ nghĩa xã hội hiện thực tại nơi mà nó sinh ra bị sụp đổ một cách bất ngờ (vì ngay Nixon cũng chỉ dám “tiên đoán” cái chết của nó vào năm 1999!)? Để tìm hiểu điều này cần làm rõ quá trình hình thành, tồn tại, phát triển và những mâu thuẫn bên trong hệ thống của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Một khi người ta nói đến “mô hình Liên Xô”, thì người ta cũng có thể nói đến mô hình châu Phi, mô hình Trung Quốc, mô hình Ai cập, mô hình Nam Tư v.v.. Tranh luận xung quanh khái niệm này, có thể thấy rằng “mô hình Liên Xô” chỉ được phân tích như một bài học lịch sử, chứ hoàn toàn không phải để nuối tiếc, mong muốn khôi phục lại nó. Đây là nguyên tắc phương pháp luận cần nắm vững. Tài liệu : công trình NCKH của ĐNT. Ngoài ra có thể đọc thêm “Những bóng ma của Marx” (J.Derrida), trong đó chú ý đến nhận định của nhà tương lai học người Pháp, rằng sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô xuất phát từ nguyên nhân bên trong, ở chỗ người ta đã “nhân danh Marx chống lại Marx, vô hiệu hóa một sức mạnh tiềm tàng”, và rằng đây là sự sụp đổ của một mô hình, chứ không phải một lý tưởng. Derrida tiên đóan chủ nghĩa Marx sẽ trở lại, nhưng không phải dưới dạng bị xuyên tạc, mà dưới dạng đã cải biến sau những bài học đau đớn. Cũng cần chống cả hai thái cực – chủ nghĩa bảo thủ nhân danh kiên định lập trường và chủ nghĩa phiêu lưu chính trị nhân danh đổi mới. Một đàng ngại đổi mới vì thiếu bản lĩnh và nhạy bén khoa học, không đủ khả năng nắm bắt cái mới; đằng khác chủ trương đứng núi này trông núi nọ, học tập cái mới một cách vô nguyên tắc, thấy bên ngoài làm gì mình cũng làm theo – một căn bệnh vong bản. Chúng ta cần mô hình nào? Chúng ta tự mình tạo ra một mô hình thể hiện được biện chứng cái phổ biến – cái đặc thù, phù hợp với điều kiện Việt Nam, chứ không cần đến bất kỳ mô hình sẵn có nào. Nhưng chắc chắn không phải là 391 mô hình bất biến, mà là mô hình mở, theo nguyên tắc thế giới quan sau đây: đồ thức luận của tư duy cần được thay đổi phù hợp với nhu cầu thực tiễn, chứ không ngược lại. Trước đây đã có thời người ta xem đồ thức luận tư duy là một thứ chân lý sẵn có, cứ thế mà áp dụng trong thực tiễn, không cần biết đó là thực tiễn Việt Nam hay thực tiễn Liên Xô! Và mỉa mai thay; Liên Xô có Hội đồng bộ trường, ta “đổi mới” theo ngay, Liên Xô có nông trang rộng bát ngát, ta cũng làm vài hợp tác xã bậc cao theo kiểu lắp ghép cho ra dáng “sản xuất lớn XHCN”để mà nhìn ngắm! 2. Quá trình, nguyên nhân khủng hoảng và sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Liên Xô (và Đông Âu) – từ một góc nhìn khác 1. Đánh giá của các nhà lý luận Liên Xô 2. Đánh giá của một số nhà lý luận phương Tây 3.Những bài học gì cần rút ra cho Việt Nam - Bài học về “biện chứng của nhận thức lịch sử và hành động lịch sử”. Đừng rơi vào tình thế sám hối theo kiểu “mình tưởng là biện chứng, nhưng hóa ra siêu hình, mình tưởng là duy vật, mà thực sự là nhà duy tâm”. Các thế hệ lãnh đạo tại Liên Xô từng xem mô hình chủ nghĩa xã hội quan liêu bao cấp là duy nhất đúng, vì thề phê phán những tìm tòi của Trung Quốc, Anbani, Rumani, Nam Tư. Như thế là họ không tuân theo quan điểm phát triển. Họ nghĩ đến chủ nghĩa cộng sản trong khi những điều kiện cơ bản của chủ nghĩa xã hội còn chưa đạt được trọn vẹn. Như thế là duy tâm, duy ý chí. - Bài học về sự thống nhất lý luận và thực tiễn. Lý luận tỏ ra lạc hậu và không tưởng – đó là một trong những nguyên nhân sụp đổ mô hình Liên Xô. - Bài học về đổi mới. Thứ nhất là thời cơ đổi mới (Liên xô bỏ qua mấy lần?), thứ hai là phương thức đổi mới. - Bài học về cách đọc, hiểu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác. Sai lầm lớn nhất là biến chủ nghĩa Marx thành thành một thứ Thánh kinh, chỉ nhắm mắt niệm chú theo, mà không phát triển. Hồ Chí Minh nói gì về “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác? Stalin có làm biến dạng chủ nghĩa Mác hay không? Thế nào là “chủ nghĩa Mác của Mác” và “chủ nghĩa Mác không có Mác”? Cái áo quá rộng khoác lên một cơ thể chưa phát triển đầy đủ, nếu không nói là còn lắm khuyết tật. 392 - Bài học về bản lĩnh chính trị. Nhưng thế nào là bản lĩnh chính trị? Đừng hiểu nhầm bản lĩnh theo nghĩa cố chấp. Dũng cảm từ bỏ cái sai cũng được xem là có bản lĩnh chính trị. Nhưng mấy ai đủ dũng cảm thừa nhận mình sai? Thậm chí có cả chuyện người dũng cảm bị quy thành kẻ phản bội, còn kẻ cơ hội thì được tôn vinh thành người khôn ngoan. Đánh giá một vấn đề chính trị không nên chỉ dựa trên cảm tính và nhiệt tình cách mạng, hay thói quen ý thức, mà cần nhìn thẳng vào sự thật. Trở lại thuyết Hội tụ, một học thuyết đã có thời bị xem là âm mưu của chủ nghĩa đế quốc nhằm thôn tính hệ thống XHCN về mặt chính trị thông qua con bài kinh tế. Thực ra ẩn chứa bên trong là sự dự báo về khả năng chung sống hòa bình, hội nhập và liên kết kinh tế quốc tế, từ đó tìm kiếm sự đối thoại và giao lưu, hợp tác văn hóa, căn cứ trên “những nét chung” về lịch sử, về giá trị người. Bài học như sau: cần xem xét sự vật một cách đa chiều, đa diện, để nhận thức đúng đắn bản chất đích thực của nó. (tài liệu cho phần này: đề tài NCKH của ĐNT)
File đính kèm:
- chuyen_de_triet_hoc_hy_lap_la_ma_co_dai.pdf