Chuyên đề Tốt nghiệp Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước (Nghiên cứu vận dụng tại Nhà máy len Hà Đông)

Chương 1: Lý luận chung về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà

nước

1.1. Sự cần thiết quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước

1.1.1. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường

Trên thế giới hiện có rất nhiều quan niệm khác nhau về doanh nghiệp nhà

nước. Có người cho rằng doanh nghiệp nhà nước là các xí nghiệp công làm nhiệm

vụ sự nghiệp (cảnh sát, cứu hoả, y tế, giáo dục.). Khi giảng về doanh nghiệp nhà

nước, giáo sư Michel Rambolt đã đưa ra ba tiêu chí xác định doanh nghiệp nhà

nước: doanh nghiệp nhà nước trực tiếp chịu sự kiểm soát của ai? Sản xuất ra sản

phẩm đem bán hay không đem bán? Hoạt động gắn với lợi ích chung hay lợi ích

cá nhân? Từ đó, ông quan niệm rằng: Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp

chịu sự kiểm soát trực tiếp của nhà nước, được phân làm hai loại: Loại một là các

xí nghiệp, tổ chức sản xuất những sản phẩm không dùng để bán, nó làm việc vì lợi

ích chung và được gọi là các cơ quan hành chính; Loại hai là các xí nghiệp công

cộng, loại này lại được chia thành hai nhóm: Nhóm thứ nhất là các doanh nghiệp

sản xuất mặt hàng để bán, trao đổi, hoạt động vì lợi ích chung, sản phẩm của nó

thường là các dịch vụ công cộng. Nhóm hai là các doanh nghiệp hoạt động trong

môi trường phải cạnh tranh, thường hoạt động vì lợi ích riêng nào đó.

ở nước ta, theo Luật doanh nghiệp nhà nước được Quốc hội thông qua ngày

20/4/1995: doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước thành lập, đầu

tư vốn và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm

thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước

có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ

hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh

nghiệp nhà nước có tên gọi, con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt

Nam.

Doanh nghiệp nhà nước mang các đặc điểm chung với các loại hình doanh

nghiệp khác như:

Thứ nhất, chức năng kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước bao gồm: sản

xuất-cung ứng trao đổi, hợp tác và tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá dịch vụ.

Hai là, doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân. Tư cách pháp nhân của

doanh nghiệp nhà nước là điều kiện cơ bản quyết định sự atồn tại của doanh

nghiệp nhà nước trong hệ thống kinh tế quốc dân. Tư cách pháp nhân của doanh

nghiệp nhà nước đòi hỏi doanh nghiệp nhà nước phải tự chịu trách nhiệm về quản

lý, về nghĩa vụ tài chính trong việc thanh toán những khoản công nợ khi doanh

nghiệp phá sản hay giải thể. Với tư cách là một pháp nhân độc lập, doanh nghiệp

nhà nước có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt

động sản xuất kinh doanh. Tư cách này tạo cho doanh nghiệp nhà nước địa vị

pháp lý để đảm bảo độc lập tự chủ.

Ba là, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước cũng chịu sự

chi phối và tác động của môi trường kinh tế.

Bên cạnh đó, doanh nghiệp nhà nước có thể được phân biệt với các loại hình

doanh nghiệp khác bởi các đặc điểm sau đây:

Một là, doanh nghiệp nhà nước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền trực tiếp ra

quyết định thành lập nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao.

Như vậy doanh nghiệp nhà nước không chỉ được thành lập để thực hiện các hoạt

động kinh doanh (nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế) mà còn để thực hiện các

hoạt động công ích (nhằm thực hiện các mục tiêu xã hội). Các loại hình doanh

nghiệp khác không phải do nhà nước thành lập mà chỉ được nhà nước cho phép

thành lập trên cơ sở đơn xin thành lập của các chủ thể kinh doanh.

Hai là, doanh nghiệp nhà nước do nhà nước tổ chức quản lý. Nhà nước tổ chức

bộ máy quản lý các doanh nghiệp nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng; nhà

nước bổ nhiệm các cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp, phê duyệt chiến lược, quy

hoạch, kế hoạch dài hạn hay trung hạn của doanh nghiệp.

Ba là, tài sản của doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận tài sản của nhà nước.

Doanh nghiệp nhà nước do nhà nước đầu tư vốn thành lập nên nó thuộc sở hữu

nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước là một chủ thể kinh doanh không có quyền sở

hữu đối với tài sản mà chỉ là chủ quản lý và tiến hành hoạt động kinh doanh trên

số tài sản của nhà nước. Trong khi đó, các chủ thể kinh doanh khác đều là chủ sở

hữu với tài sản kinh doanh của họ

pdf 75 trang chauphong 20/08/2022 11580
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chuyên đề Tốt nghiệp Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước (Nghiên cứu vận dụng tại Nhà máy len Hà Đông)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyên đề Tốt nghiệp Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước (Nghiên cứu vận dụng tại Nhà máy len Hà Đông)

Chuyên đề Tốt nghiệp Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước (Nghiên cứu vận dụng tại Nhà máy len Hà Đông)
NguyÔn Hång Th¾ng-TCC41A Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP 
KHOA 
KINH TẾ - TÀI CHÍNH 
Đề tài: Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước 
(Nghiên cứu vận dụng tại Nhà máy len Hà Đông) 
NguyÔn Hång Th¾ng-TCC41A Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Mở đầu 
 Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, thành phần kinh tế nhà nước (mà trong đó 
doanh nghiệp nhà nước là nòng cốt) giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước thực hiện giao 
vốn cho doanh nghiệp nhà nước để doanh nghiệp nhà nước hoàn thành nhiệm vụ 
nhà nước giao. Việc Nhà nước giao vốn cho doanh nghiệp nhà nước đặt ra yêu cầu 
phải quản lý số vốn đó. Đồng thời, việc thay đổi phương thức quản lý hiện vật 
sang phương thức quản lý bằng giá trị là chủ yếu đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa 
vai trò của nhà nước trong công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Song 
thực tế cho thấy, công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà 
nước còn có những bất cập trong chế độ chính sách quản lý, trong tổ chức bộ máy 
quản lý và trong tổ chức thực hiện. Điều đó khiến vốn nhà nước tại nhiều doanh 
nghiệp đang bị ăn mòn và việc thực hiện vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế 
nhà nước bị hạn chế. Do vậy, việc hoàn thiện công tác quản lý vốn nhà nước tại 
doanh nghiệp nhà nước trở thành yêu cầu cấp bách hiện nay. Trong điều kiện ngân 
sách nhà nước còn hạn hẹp, công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà 
nước càng cần được thực hiện tốt hơn. 
 Trong thời gian thực tập tại Nhà máy len Hà Đông, em đã nghiên cứu tìm hiểu 
về công tác quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy và thấy rằng bên cạnh những thành 
tựu Nhà máy gặt hái được trong những năm gần đây còn tồn tại nhiều hạn chế 
trong công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại Nhà máy (cả khi giao vốn và 
trong quá trình sử dụng vốn). Do đó, để thực hiện nhiệm vụ bảo toàn và phát triển 
vốn nhà nước giao, công tác quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy cần sớm được 
hoàn thiện. 
 Em chọn đề tài: “Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước 
 (Nghiên cứu vận dụng tại Nhà máy len Hà Đông)” 
với mục đích qua nghiên cứu phát hiện những hạn chế trong công tác quản lý đối 
với phần vốn tại Nhà máy len Hà Đông, tìm ra nguyên nhân của những hạn chế 
đó, từ đó đưa ra những đề xuất nhằm hoàn thiện công tác quản lý vốn nhà nước tại 
Nhà máy len Hà Đông. 
 Nội dung đề tài gồm ba chương: 
NguyÔn Hång Th¾ng-TCC41A Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
 Chương 1: Lý luận chung về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước 
 Chương 2: Thực trạng công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại Nhà 
máy 
 len Hà Đông 
 Chương 3: Đề xuất hoàn thiện công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại 
 Nhà máy len Hà Đông 
Nội dung 
NguyÔn Hång Th¾ng-TCC41A Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Chương 1: Lý luận chung về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà 
nước 
1.1. Sự cần thiết quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước 
1.1.1. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường 
 Trên thế giới hiện có rất nhiều quan niệm khác nhau về doanh nghiệp nhà 
nước. Có người cho rằng doanh nghiệp nhà nước là các xí nghiệp công làm nhiệm 
vụ sự nghiệp (cảnh sát, cứu hoả, y tế, giáo dục...). Khi giảng về doanh nghiệp nhà 
nước, giáo sư Michel Rambolt đã đưa ra ba tiêu chí xác định doanh nghiệp nhà 
nước: doanh nghiệp nhà nước trực tiếp chịu sự kiểm soát của ai? Sản xuất ra sản 
phẩm đem bán hay không đem bán? Hoạt động gắn với lợi ích chung hay lợi ích 
cá nhân? Từ đó, ông quan niệm rằng: Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp 
chịu sự kiểm soát trực tiếp của nhà nước, được phân làm hai loại: Loại một là các 
xí nghiệp, tổ chức sản xuất những sản phẩm không dùng để bán, nó làm việc vì lợi 
ích chung và được gọi là các cơ quan hành chính; Loại hai là các xí nghiệp công 
cộng, loại này lại được chia thành hai nhóm: Nhóm thứ nhất là các doanh nghiệp 
sản xuất mặt hàng để bán, trao đổi, hoạt động vì lợi ích chung, sản phẩm của nó 
thường là các dịch vụ công cộng. Nhóm hai là các doanh nghiệp hoạt động trong 
môi trường phải cạnh tranh, thường hoạt động vì lợi ích riêng nào đó. 
 ở nước ta, theo Luật doanh nghiệp nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 
20/4/1995: doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước thành lập, đầu 
tư vốn và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm 
thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước 
có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ 
hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh 
nghiệp nhà nước có tên gọi, con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt 
Nam. 
 Doanh nghiệp nhà nước mang các đặc điểm chung với các loại hình doanh 
nghiệp khác như: 
 Thứ nhất, chức năng kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước bao gồm: sản 
xuất-cung ứng trao đổi, hợp tác và tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá dịch vụ. 
NguyÔn Hång Th¾ng-TCC41A Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
 Hai là, doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân. Tư cách pháp nhân của 
doanh nghiệp nhà nước là điều kiện cơ bản quyết định sự atồn tại của doanh 
nghiệp nhà nước trong hệ thống kinh tế quốc dân. Tư cách pháp nhân của doanh 
nghiệp nhà nước đòi hỏi doanh nghiệp nhà nước phải tự chịu trách nhiệm về quản 
lý, về nghĩa vụ tài chính trong việc thanh toán những khoản công nợ khi doanh 
nghiệp phá sản hay giải thể. Với tư cách là một pháp nhân độc lập, doanh nghiệp 
nhà nước có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt 
động sản xuất kinh doanh. Tư cách này tạo cho doanh nghiệp nhà nước địa vị 
pháp lý để đảm bảo độc lập tự chủ. 
 Ba là, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước cũng chịu sự 
chi phối và tác động của môi trường kinh tế. 
 Bên cạnh đó, doanh nghiệp nhà nước có thể được phân biệt với các loại hình 
doanh nghiệp khác bởi các đặc điểm sau đây: 
 Một là, doanh nghiệp nhà nước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền trực tiếp ra 
quyết định thành lập nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. 
Như vậy doanh nghiệp nhà nước không chỉ được thành lập để thực hiện các hoạt 
động kinh doanh (nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế) mà còn để thực hiện các 
hoạt động công ích (nhằm thực hiện các mục tiêu xã hội). Các loại hình doanh 
nghiệp khác không phải do nhà nước thành lập mà chỉ được nhà nước cho phép 
thành lập trên cơ sở đơn xin thành lập của các chủ thể kinh doanh. 
 Hai là, doanh nghiệp nhà nước do nhà nước tổ chức quản lý. Nhà nước tổ chức 
bộ máy quản lý các doanh nghiệp nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng; nhà 
nước bổ nhiệm các cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp, phê duyệt chiến lược, quy 
hoạch, kế hoạch dài hạn hay trung hạn của doanh nghiệp... 
 Ba là, tài sản của doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận tài sản của nhà nước. 
Doanh nghiệp nhà nước do nhà nước đầu tư vốn thành lập nên nó thuộc sở hữu 
nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước là một chủ thể kinh doanh không có quyền sở 
hữu đối với tài sản mà chỉ là chủ quản lý và tiến hành hoạt động kinh doanh trên 
số tài sản của nhà nước. Trong khi đó, các chủ thể kinh doanh khác đều là chủ sở 
hữu với tài sản kinh doanh của họ. 
NguyÔn Hång Th¾ng-TCC41A Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
 Có thể phân loại doanh nghiệp nhà nước thành hai loại căn cứ vào chức năng 
hoạt động của doanh nghiệp là: doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh 
(hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận) và doanh nghiệp nhà nước hoạt 
động công ích (hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính 
sách của Nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh...) 
 Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phát triển trong mối quan hệ 
kinh tế đa dạng về hình thức sở hữu, về vốn và tài sản, về cơ chế tổ chức quản lý. 
Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường không chỉ tồn tại đơn nhất trong khu 
vực kinh tế quốc doanh (doanh nghiệp nhà nước) như trong nền kinh tế kế hoạch 
hoá mà còn tồn tại dưới nhiều hình thức sở hữu bao gồm các loại hình tổ chức 
doanh nghiệp khác nhau như: Doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu 
hạn, công ty cổ phần, công ty liên doanh... Nhưng doanh nghiệp nhà nước có vị trí 
đặc biệt quan trọng, nó là bộ phận nòng cốt của thành phần kinh tế nhà nước, 
thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Vai trò của doanh nghiệp 
nhà nước được thể hiện qua những chức năng cụ thể sau: 
 Thứ nhất, chức năng định hướng sự phát triển của nền kinh tế. Chức năng này 
thể hiện ở chỗ doanh nghiệp nhà nước phải đi tiên phong trong các lĩnh vực chiến 
lược theo đường lối phát triển của nhà nước tạo điều kiện cho các thành phần kinh 
tế khác tham gia; doanh nghiệp nhà nước phải là mẫu mực về trình độ quản lý, về 
hiệu quả kinh doanh để các doanh nghiệp khác noi theo; 
 Thứ hai, chức năng hỗ trợ và phục vụ. Sự khác biệt giữa doanh nghiệp nhà 
nước và các loại hình doanh nghiệp khác là sự phát triển của doanh nghiệp nhà 
nước không phải đơn thuần vì bản thân nó mà quan trọng hơn cả là tạo điều kiện 
cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Bởi vậy, doanh nghiệp nhà 
nước được bố trí xây dựng ở những khu vực ngành nghề cần thiết tạo điều kiện 
cho nền kinh tế phát triển đồng đều giữa các vùng của đất nước; 
 Thứ ba, chức năng đảm bảo sức mạnh vật chất để nhà nước điều tiết và hướng 
dẫn nền kinh tế thị trường. Chức năng này được hiểu là các doanh nghiệp nhà 
nước phải có đóng góp thích đáng cho sự phát triển kinh tế bằng việc kinh doanh 
có hiệu quả; doanh nghiệp nhà nước phải bảo đảm vai trò quyết định này để Chính 
phủ có đủ nguồn lực chỉ đạo và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo mục tiêu đề 
ra. 
NguyÔn Hång Th¾ng-TCC41A Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
1.1.2. Tính tất yếu của việc quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước 
1.1.2.1. Vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước 
 Vốn Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý và sử dụng là vốn được cấp từ 
ngân sách, vốn có nguồn gốc ngân sách và vốn của doanh nghiệp nhà nước tự tích 
luỹ. 
 Từ khái niệm trên có thể thấy vốn nhà nước được cấu thành bởi ba bộ phận: 
 Một là, vốn được cấp từ ngân sách, là vốn doanh nghiệp nhà nước được cấp 
phát lần đầu khi mới hoạt động (xác định từ thời điểm giao nhận vốn), vốn được 
cấp bổ sung trong quá trình hoạt động; vốn được tiếp quản từ chế độ cũ để lại. 
 Hai là, vốn có nguồn gốc ngân sách, là các khoản vốn tăng thêm do được miễn, 
giảm thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc được cấp lại các khoản phải nộp ngân sách 
theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; chênh lệch giá tài sản cố 
định, vật tư, hàng hoá tồn kho qua các lần kiểm kê, điều chỉnh giá; các nguồn vốn 
viện trợ: viện trợ nhân dân, viện trợ của các nước và các tổ chức quốc tế, quà tặng 
theo qui định phải ghi tăng vốn ngân sách cấp; 
 Ba là, vốn của doanh nghiệp nhà nước tự tích luỹ, chính là phần thu nhập sau 
thuế doanh nghiệp nhà nước giữ lại để tái đầu tư. 
 Hình thức thực hiện đầu tư của Chính phủ vào các doanh nghiệp nhà nước cụ 
thể như sau: 
 Một là, giá trị quyền sử dụng đất, Chính phủ giao đất cho doanh nghi ... ự án khả thi khai thác sử dụng diện 
tích đất thừa, chẳng hạn: xây nhà xưởng, nhà kho để cho thuê... 
 Ba là, Công ty len Việt Nam nên xác định lại giá trị phần vốn nhà nước tại Nhà 
máy, đây là việc làm có ý nghĩa quan trọng giúp xác định hiệu quả sử dụng vốn của 
doanh nghiệp (vì vốn nhà nước làm mẫu số trong nhiều chỉ tiêu đánh giá hiệu quả 
sử dụng vốn nhà nước giao của doanh nghiệp nhà nước), đồng thời giúp nhà quản 
lý tạo cho nhà máy một cơ cấu vốn (nợ-vốn chủ sở hữu) phù hợp. 
 Bốn là, đơn giản hoá và đẩy nhanh việc xử lý những doanh nghiệp kinh doanh 
yếu kém, thua lỗ kéo dài, tập trung vốn cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả 
nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước. Công ty 
nên tập trung vốn cho các Nhà máy làm ăn có hiệu quả như Nhà máy len Hà 
Đông, không nên dùng các nguồn lực của Công ty để duy trì sự tồn tại của các 
Nhà 
 máy làm ăn kém, sắp phá sản. Như vậy chẳng những không cứu được các nhà 
máy “què quặt” mà ngay những Nhà máy đang làm ăn tốt cũng bị ảnh hưởng 
không nhỏ. 
 Năm là, chính sách, cơ chế quản lý vốn trong giai đoạn tới phải tạo dựng được 
môi trường tài chính bình đẳng, lành mạnh, thông thoáng, ổn định cho doanh 
nghiệp, thúc đẩy sự cạnh tranh và phát triển của doanh nghiệp ngang tầm doanh 
NguyÔn Hång Th¾ng-TCC41A Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
nghiệp các nước trong khu vực, tạo cơ sở vững chắc cho nền tài chính quốc gia. 
Cơ chế tài chính tạo điều kiện cho doanh nghiệp đánh giá đúng tình hình thực 
trạng tài chính của doanh nghiệp theo thông lệ quốc tế, tạo điều kiện cho doanh 
nghiệp khắc phục những khó khăn về tài chính nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động 
kinh doanh. Trong quá trình vận dụng các chính sách, chế độ phát hiện những 
điểm bất cập, Nhà máy cần kiến nghị lên cấp trên điều chỉnh cho phù hợp, chẳng 
hạn như những quy định về giới hạn số dư tiền gửi, về mức tín dụng thương mại 
tối đa trong Quy chế tài chính Công ty len Việt Nam như đã nêu trên... Phía Công 
ty len Việt Nam cần nghiên cứu để điều chỉnh lại một số quy định không hợp lý 
trong Quy chế tài chính Công ty. Các cơ quan quản lý cấp trên cũng cần hoàn 
thiện chế độ, chính sách quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước theo 
hướng mở rộng hơn nữa quyền tự chủ về quản lý vốn cho doanh nghiệp, giảm 
thiểu sự can thiệp của các đơn vị quản lý cấp trên vào hoạt động kinh doanh, công 
tác quản lý vốn tại doanh nghiệp. Đồng thời phải quy định đầy đủ rõ ràng trách 
nhiệm của người quản lý doanh nghiệp (mở rộng quyền tự chủ của doanh nghiệp 
phải đi đôi với xác định cụ thể trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp), cần 
có chế tài nghiêm khắc đối với trường hợp người quản lý doanh nghiệp có quyết 
định đầu tư không hiệu quả, quản lý và sử dụng tài sản không đúng quy định gây 
thất thoát vốn. Bên cạnh đó, một số nội dung giữa các điều trong Luật và Nghị 
định, Nghị định và Thông tư hướng dẫn còn chưa nhất quán cũng cần được điều 
chỉnh: 
Luật Nghị định 
 Cầm cố, thế chấp, cho thuê, nhượng 
bán thiết bị, nhà xưởng quan trọng phải 
được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền 
cho phép (khoản 2-điều 6) 
 Cầm cố, thế chấp, cho thuê, nhượng 
bán, thanh lý toàn bộ dây chuyền sản 
xuất chính phải có ý kiến bằng văn bản 
của cơ quan quyết định thành lập doanh 
nghiệp (điều 17, 18, 19- Sửa đổi) 
 Doanh nghiệp phải lập quỹ khấu hao 
cơ bản (khoản 1-điều 8) 
 Không quy định việc lập quỹ khấu 
hao cơ bản 
 Chia lợi nhuận theo cổ phần (khoản 
1-điều 8) 
 Không quy định chia lợi nhuận theo 
cổ phần 
NguyÔn Hång Th¾ng-TCC41A Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Nghị định Thông tư 
 Chỉ quy định: khi thanh lý các loại 
tài sản quan trọng phải có sự đồng ý của 
cơ quan quyết định thành lập doanh 
nghiệp và cơ quan tài chính 
 Ngoài quy định có sự đồng ý của cơ 
quan quyết định thành lập doanh nghiệp 
và cơ quan tài chính còn quy định khi 
thanh lý phải có đại diện của hai cơ 
quan này 
 Không quy định các khoản chi sai về 
tiền lương, hội họp, tiếp khách phải thu 
hồi nộp ngân sách 
 Quy định phải thu hồi nộp ngân sách 
các khoản chi sai này. Nguồn chi sai 
phải bồi thường 
 Sáu là, thực hiện cơ chế kiểm toán đối với các doanh nghiệp. Thực hiện triệt để 
cơ chế công khai hoá tài chính doanh nghiệp và vấn đề dân chủ hoá trong doanh 
nghiệp nhà nước. Qua đó xác định xem doanh nghiệp có nghiêm túc thực hiện các 
quy định quản lý hay không, kịp thời phát hiện sai phạm để có biện pháp xử lý. 
 Bảy là, đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý của cán bộ quản lý các cấp 
để họ có thêm điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. 
 Tám là, nghiên cứu tổ chức hệ thống thông tin về hoạt động kinh doanh, tình 
hình tài chính của doanh nghiệp nhằm nắm bắt, phát hiện kịp thời những khó khăn 
về công tác quản lý vốn của doanh nghiệp, dự báo đúng đắn khả năng phát triển 
của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Đồng thời tăng cường 
biện pháp và công cụ kiểm tra giám sát hoạt động kinh doanh, tình hình quản lý 
vốn tại các doanh nghiệp nhằm hướng các doanh nghiệp phát triển đúng đắn, ngăn 
chặn các hoạt động tiêu cực. 
 Chín là, nên thực hiện cổ phần hoá Nhà máy nhằm mục tiêu: 
 + Tạo điều kiện cơ cấu lại Nhà máy len Hà Đông, nâng cao hiệu quả kinh 
doanh và sức cạnh tranh của Nhà máy; 
 + Bảo đảm việc làm cho người lao động; thay đổi phương thức quản lý doanh 
nghiệp, tạo động lực để phát huy quyền làm chủ của người lao động; sử dụng có 
hiệu quả hơn số tài sản đã đầu tư, khai thác mọi tiềm năng để đầu tư phát tríển sản 
xuất - kinh doanh; 
NguyÔn Hång Th¾ng-TCC41A Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
 + Giảm bớt chi phí và trách nhiệm điều hành kinh doanh của Nhà nước; đảm 
bảo lợi ích chung của cả Nhà nước và người lao động. 
 Công ty len Việt Nam lúc đó có thể trở thành một cổ đông của Nhà máy và 
quản lý phần vốn nhà nước đầu tư vào Nhà máy với tư cách của một cổ đông. 
Điều này sẽ đảm bảo cho Nhà máy thực sự có quyền chủ động kinh doanh, tự chủ 
và tự chịu trách nhiệm về tài chính trong cơ chế thị trường. 
kết luận 
 Bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới cũng duy trì cho mình một hệ thống các 
doanh nghiệp nhà nước. Sự khác nhau giữa các nước chỉ là doanh nghiệp nhà 
nước tồn tại dưới hình thức nào và ảnh hưởng của nó tới nền kinh tế ra sao. ở Việt 
Nam hiện nay, doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong thành phần kinh 
tế nhà nước, thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, song trên 
thực tế các doanh nghiệp nhà nước chưa thực hiện tốt vai trò của chúng. Một trong 
những biểu hiện minh chứng cho điều này là hiệu quả sản xuất kinh doanh của 
doanh nghiệp nhà nước nhìn chung chưa cao (nhiều doanh nghiệp nhà nước làm 
ăn thua lỗ kéo dài), nhiệm vụ bảo toàn và phát triển vốn nhà nước giao chưa được 
thực hiện tốt ở nhiều doanh nghiệp. 
NguyÔn Hång Th¾ng-TCC41A Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
 Xuất phát từ việc nghiên cứu những lý luận cơ bản về vốn nhà nước và những 
nội dung chung nhất về công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, 
những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp 
nhà nước, chuyên đề đã đi sâu nghiên cứu thực trạng công tác quản lý đối với 
phần vốn nhà nước tại Nhà máy len Hà Đông. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong 
thời gian qua, công tác quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy len Hà Đông tuy đã đạt 
được những thành quả nhất định song còn tồn tại không ít hạn chế cả từ phía Nhà 
máy và phía các cơ quan quản lý cấp trên. Kết quả nghiên cứu này cho thấy công 
tác quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy len Hà Đông cần phải được hoàn thiện. 
 Để thực hiện thành công chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước trong 
việc xây dựng một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì 
việc củng cố lại hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước mà trước hết là đổi mới 
và hoàn thiện công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước là rất cần 
thiết. Những đề xuất được đưa ra trong chuyên đề có thể chưa phải là những đề 
xuất tối ưu và hữu dụng nhất, song việc thực hiện các đề xuất này sẽ góp phần 
hoàn thiện công tác quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy len Hà Đông. 
NguyÔn Hång Th¾ng-TCC41A Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Danh mục tài liệu tham khảo 
*** 
1. PGS.TS. Lưu Thị Hương (chủ biên), 2002, Giáo trình Tài chính Doanh nghiệp, 
NXB Giáo dục. 
2. PGS.TS.Hoàng Công Thi-Nguyễn Thị Thanh Thảo, 1999, Cải cách doanh 
nghiệp nhà nước ở Trung Quốc, NXB Tài chính. 
3. Tạp chí Tài chính 2/2002, Tạp chí Thông tin tài chính 12/2001, Thời báo kinh 
tế Việt Nam số 146 ngày 6/12/2000. 
4. Luật doanh nghiệp nhà nước ngày 20/04/1995. 
5. Thông tư số 62/1999/TT-BTC ngày7/6/1999 hướng dẫn việc quản lý, sử dụng 
vốn và tài sản trong doanh nghiệp nhà nước. 
6. Chế độ quản lí, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định (Ban hành kèm theo 
Quyết định số 166/1999/QĐ-BTC ngày 30/12/1999 của Bộ trưởng Bộ tài 
chính) 
7. Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty dệt may Việt Nam. 
8. Quy chế tài chính Công ty len Việt Nam. 
9. Báo cáo tài chính của Nhà máy len Hà Đông các năm 2001 và 2002. 
10. Biên bản giao vốn cho Nhà máy len Hà Đông ngày 1/7/1999. 
11. Biên bản xác định chất lượng vật tư, hàng hoá, thành phẩm kém, mất phẩm 
chất tồn kho đến 1/1/2000 của Nhà máy len Hà Đông. 
12. Biên bản xử lý công nợ khó đòi năm 2002 của Nhà máy len Hà Đông 
NguyÔn Hång Th¾ng-TCC41A Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Mục lục 
Mở đầu 
Nội dung 
Chương 1: Lý luận chung về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước 
1.1. Sự cần thiết quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước 
1.1.1. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường 
1.1.2. Tính tất yếu của việc quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà 
nước 
1.4. Nội dung công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà 
nước 
1.2.1. Thiết lập căn cứ về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước 
1.2.2. Phân cấp trong quản lý 
1.2.3. Tổ chức thực hiện 
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý vốn nhà nước tại 
doanh nghiệp nhà nước 
1.3.1. Quan điểm của nhà nước về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp 
1.3.2. Tổ chức bộ máy quản lý 
1.3.3. Sự phù hợp của các văn bản pháp luật liên quan 
1.3.4. Trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức của cán bộ quản lý 
1.3.5. Môi trường kinh tế-chính trị-xã hội 
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý đối với phần vốn nhà nước tại Nhà máy len hà 
đông 
2.1. Tổng quan Nhà máy len Hà Đông 
2.1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển 
2.1.2. Bộ máy quản lý 
2.1.3. Đặc điểm tổ chức hệ thống sản xuất và tiêu thụ 
2.2. Thực trạng quản lý đối với phần vốn nhà nước tại Nhà máy len Hà 
Đông 
2.2.1. Cơ sở thực hiện quản lý vốn nhà nước tại Nhà máy len Hà Đông 
2.2.2. Tổ chức thực hiện 
2.3. Những đánh giá chung 
2.3.1. Thành tựu 
2.3.2. Hạn chế 
2.3.3. Nguyên nhân 
chương 3: Đề xuất hoàn thiện công tác quản lý vốn nhà nước tại nhà máy len hà đông 
Kết luận 
Trang 
1 
3 
6 
8 
14 
18 
25 
26 
27 
28 
29 
30 
31 
34 
36 
37 
55 
58 
62 
65 
70 
NguyÔn Hång Th¾ng-TCC41A Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp

File đính kèm:

  • pdfchuyen_de_tot_nghiep_quan_ly_von_nha_nuoc_tai_doanh_nghiep_n.pdf