Tiểu luận Bình luận về nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam và vai trò của chính sách tiền tệ giai đoạn 1/2007- 9/2011

Lạm phát là một căn bệnh tiềm ẩn đối với nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường và

nó xuất hiện khi nền kinh tế chứa đựng dấu hiệu mất cân đối giữa cung – cầu hàng hóa,

mất cân đối giữa cung – cầu tiền tệ.Mỗi lần xuất hiện mang theo một sức mạnh tàn phá

tiềm ẩn làm rối loạn nền kinh tế, làm giảm mức sống của người dân và ở một mức nào đó

thì nó có thể gây rối loạn chính trị xã hội. Khi một nền kinh tế có lạm phát ở mức độ cao

sẽ dẫn đến sụt giảm tiết kiệm, sụp đổ đầu tư, các nguồn vốn trong nước sẽ chảy ra nước

ngoài. Ngoài ra, lạm phát sẽ làm giảm nhịp độ tăng trưởng kinh tế, mất khả năng thực

hiện những kế hoạch dài hạn của quốc gia và cao điểm của nó tạo nên sự căng thẳng về

chính trị xã hội

Trong bối cảnh hiện nay của nước ta,khi tình hình lạm phát ngày càng leo thang và vào

những tháng vừa qua đã là 2 con số vượt qua ngưỡng tối đa cho phép là 9%.Vậy nguyên

nhân nào dẫn đến tình trạng lạm phát như hiện nay? Những chính sách tiền tệ nào đã

được đưa ra trong thời gian qua để kiểm soát tình hình trên và chúng đã có những tác

động như thế nào? Và liệu có những giải pháp nào khác tối ưu hơn để kiềm chế lạm phát

trong thời gian tới?

Với những lý do trên nhóm chúng tôi quyết định chọn đề tài “Bình luận về nguyên nhân

lạm phát ở Việt Nam và vai trò của chính sách tiền tệ”

pdf 25 trang chauphong 19/08/2022 12520
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Bình luận về nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam và vai trò của chính sách tiền tệ giai đoạn 1/2007- 9/2011", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Bình luận về nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam và vai trò của chính sách tiền tệ giai đoạn 1/2007- 9/2011

Tiểu luận Bình luận về nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam và vai trò của chính sách tiền tệ giai đoạn 1/2007- 9/2011
TIỂU LUẬN 
BÌNH LUẬN VỀ NGUYÊN NHÂN LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM VÀ VAI 
TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 1/2007- 9/2011. 
Lạm phát là một căn bệnh tiềm ẩn đối với nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường và 
nó xuất hiện khi nền kinh tế chứa đựng dấu hiệu mất cân đối giữa cung – cầu hàng hóa, 
mất cân đối giữa cung – cầu tiền tệ.Mỗi lần xuất hiện mang theo một sức mạnh tàn phá 
tiềm ẩn làm rối loạn nền kinh tế, làm giảm mức sống của người dân và ở một mức nào đó 
thì nó có thể gây rối loạn chính trị xã hội. Khi một nền kinh tế có lạm phát ở mức độ cao 
sẽ dẫn đến sụt giảm tiết kiệm, sụp đổ đầu tư, các nguồn vốn trong nước sẽ chảy ra nước 
ngoài. Ngoài ra, lạm phát sẽ làm giảm nhịp độ tăng trưởng kinh tế, mất khả năng thực 
hiện những kế hoạch dài hạn của quốc gia và cao điểm của nó tạo nên sự căng thẳng về 
chính trị xã hội 
Trong bối cảnh hiện nay của nước ta,khi tình hình lạm phát ngày càng leo thang và vào 
những tháng vừa qua đã là 2 con số vượt qua ngưỡng tối đa cho phép là 9%.Vậy nguyên 
nhân nào dẫn đến tình trạng lạm phát như hiện nay? Những chính sách tiền tệ nào đã 
được đưa ra trong thời gian qua để kiểm soát tình hình trên và chúng đã có những tác 
động như thế nào? Và liệu có những giải pháp nào khác tối ưu hơn để kiềm chế lạm phát 
trong thời gian tới? 
Với những lý do trên nhóm chúng tôi quyết định chọn đề tài “Bình luận về nguyên nhân 
lạm phát ở Việt Nam và vai trò của chính sách tiền tệ” 
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 
-Mục đích làm rõ thực trạng, nguyên nhân lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2007- 
9/2011, tìm hiểu và bình luận về tác động của những chính sách tiền tệ đã được thực hiện 
trong những năm qua để kiểm soát lạm phát,đưa ra những giải pháp có thể kìm chế lạm 
phát trong thời gian tới. 
-Trình bày cơ sở lý luận về lạm phát bao gồm: định nghĩa về lạm phát, tác động của lạm 
phát, nguyên nhân của lạm phát. 
-Trình bày cơ sở lý luận về chính sách tiền tệ bao gồm : định nghĩa về chính sách tiền tệ, 
vai trò của chính sách tiền tệ. 
-Phân tích diễn biến và thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-9/2011 và đánh 
giá hiệu quả của chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát. 
-Dựa trên cơ sở của việc phân tích đưa ra những giải pháp ,kiến nghị về chính sách tiền tệ 
mà ta có thể thực hiện trong thời gian tới đề kiểm soát lạm phát được tốt hơn. 
III. Phương pháp nghiên cứu 
-Sử dụng phương pháp thống kê mô tả tập hợp các số liệu thu thập được để mô tả khái 
quát tình trạng lạm phát và những ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế. 
-Sử dụng phương pháp tổng hợp và phân tích những mối quan hệ tương quan giữa chính 
sách tiền tệ trong thời gian qua với tình hình lạm phát từ đó nghiên cứu và suy luận về 
những giải pháp có thể áp dụng trong thời gian tới. 
IV. Cơ sở lý luận 
1./ Lạm phát: 
Lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng trong một thời gian dài. 
Cũng như M. Friedman đã nói : nạn lạm phát luôn luôn và bất cứ đâu cũng là hiện tượng 
của tiền tệ. 
2./Chính sách tiền tệ: 
1. Khái niệm: Chính sách tiền tệ (CSTT) là tổng hòa các phương thức mà NHNN sử dụng 
nhằm tác động đến lượng tiền cung ứng để đạt được các mục tiêu kinh tế, xã hội đất nước 
trong thời kỳ nhất định. 
Như vậy, với các công cụ trong tay, NHNN có thể chủ động tạo ra sự thay đổi trong cung 
ứng tiền (mở rộng hay thắt chặt), qua đó tác động đến các biến số vĩ mô nhằm đạt được 
các mục tiêu đã đề ra. 
 Trong đó có hai chính sách chủ yếu: 
- Chính sách tiền tệ mở rộng: cung ứng thêm tiền,khuyến khích đầu tư, mở rộng sản 
xuất.., chống suy thoái. 
- Chính sách tiền tệ thắt chặt: giảm cung ứng tiền nhằm hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát 
triển quá nóng của nền kinh tế..., kiềm chế lạm phát. 
2. Mối quan hệ giữa các mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ: 
Các mục tiêu của chính sách tiền tệ rất đa dạng như kiểm soát lạm phát, ổn định giá cả, 
tạo công ăn việc làm (giảm tỷ lệ thất nghiệp), tăng trưởng kinh tế, ổn định thị trường tài 
chính, lãi suất, tỷ giá hối đoái... 
Do lạm phát cao có tác động xấu đến các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, trong khi đó nguyên nhân 
lạm phát lại là tiền tệ. Chính vì vậy, ở hầu hết các nước, kiềm chế lạm phát, ổn định giá 
cả là mục tiêu hàng đầu và mục tiêu dài hạn của CSTT. Tùy vào tình hình kinh tế của mỗi 
quốc gia mà sẽ có một tỷ lệ lạm phát phù hợp. Thông thường để thực hiện mục tiêu kiềm 
chế lạm phát, ổn định giá cả NHNN áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt. Bên cạnh đó còn 
hai mục tiêu là tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Để 
thực hiện hai mục tiêu này thì NHNN thường thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng. 
Như vậy, xét cả 3 mục tiêu thì ta thấy mục tiêu giảm lạm phát, bình ổn giá cả mâu thuẫn 
với hai mục tiêu còn lại trong ngắn hạn. Bởi vì để thực hiện mục tiêu giảm lạm phát, ổn 
định giá cả thì phải áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt. Và như vậy thì trong ngắn hạn 
không thể thực hiện được hai mục tiêu còn lại. Ngược lại, khi nền kinh tế mở rộng, thất 
nghiệp giảm, nền kinh tế phát triển quá nóng dẫn đến lạm phát gia tăng. 
Tuy nhiên, xét các mục tiêu trên trong dài hạn thì chúng lại không mâu thuẫn với nhau. 
Mối quan hệ giữa mục tiêu giảm thất nghiệp và mục tiêu tăng trưởng kinh tế không mâu 
thuẫn cả trong ngắn hạn và dài hạn. 
Hầu hết NHTW đều đặt ổn định giá cả là mục tiêu chủ yếu và dài hạn của CSTT. Nhưng 
trong ngắn hạn, dưới áp lực của chính trị, họ có thể tạm thời từ bỏ mục tiêu chủ yếu để 
hạn chế tình trạng thất nghiệp...Ngân hàng trung ương không thể đạt được đồng thời tất 
cả các mục tiêu trong ngắn hạn và thường thì NHTW theo đuổi một mục tiêu trong dài 
hạn và đa mục tiêu trong ngắn hạn. 
Theo luật Ngân hàng Nhà nước 2003 “ Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận của 
chính sách kinh tế-tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền,kiềm chế lạm 
phát,góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội,bảo đảm quốc phòng,an ninh và nâng 
cao đời sống của nhân dân .” 
3./Trường phái lý thuyết: 
Theo trường phái tiền tệ : Căn nguyên của lạm phát là việc bất cân đối giữa cung - cầu 
tiền. 
V. NỘI DUNG: 
Từ năm 2007 đến nay, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu và khủng hoảng nợ 
công ở châu Âu, tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam cũng có những diễn biến phức tạp; 
sau những khó khăn về kinh tế năm 2008, 2009, bước sang năm 2010 nền kinh tế có dấu 
hiệu ổn định hơn, nhưng từ đầu năm 2011, một số vấn đề kinh tế vĩ mô lại nổi lên, đòi hỏi 
Chính phủ và các nhà hoạch định chính sách phải nghiên cứu giải quyết như: tỷ lệ lạm 
phát gia tăng; lãi suất cao; tiền Việt Nam mất giá so với đô la Mỹ; thâm hụt ngân sách 
vẫn ở mức cao; hiệu quả của đầu tư công thấp; nhập siêu vẫn ở mức cao; tăng trưởng có 
xu hướng chậm lạitrong đó nhức nhối nhất vẫn là vấn đề lạm phát. 
Lạm phát của Việt Nam luôn cao hơn một cách bất thường so với các nước trong khu vực 
hay các đối thủ cạnh tranh cũng như các nước có điều kiện tương tự. Ở các nước này, 
nhìn chung mức lạm phát luôn thấp hơn mức tăng trưởng GDP , trong khi từ năm 2007 
đến nay, lạm phát ở Việt Nam luôn cao hơn tăng trưởng GDP. Cá biệt năm 2008 lên đến 
23%, gấp khoảng 3 lần mức tăng GDP; năm 2010 ở mức 11,75%, gấp gần 2 lần mức tăng 
GDP; và 9 tháng đầu năm 2011 lạm phát đã 2 con số. 
 Biểu đồ 3: Lạm phát tại các nước phát triển, các nước mới nổi và đang phát triển, các 
nước châu Á đang phát triển và Việt Nam (bình quân năm) 
Năm 2007 
Năm 2007 lạm phát của Việt Nam tăng cao ở mức hai con số 12,63%. Nếu so sánh với 
mức lạm phát của một số nước trong khu vực và trên thế giới như Trung Quốc: 6,5%; 
Indonesia: 6,59%; Mỹ: 4,08%, Thái Lan: 3,21%, Khu vực đồng Euro: 3,07%, Nhật Bản: 
0,7% thì lạm phát của Việt Nam có phần cao hơn. Quý I/08 lạm phát của Việt Nam đạt 
9,19%, vẫn cao hơn so với mức 3,02% của Quý I/07 và bằng khoảng trên 70% so với 
mức tăng của cả năm 2007. Đây là mức tăng cao trong vòng 12 năm trở lại đây. Vậy thì 
đâu là nguyên nhân dẫn đến lạm phát của Việt Nam tăng cao? Có thể đề cập đến hai 
nhóm nguyên nhân: các nhân tố tác động từ kinh tế toàn cầu, và các nhân tố từ nội tại nền 
kinh tế Việt Nam, cụ thể như sau: 
Các yếu tố tác động từ kinh tế thế giới: 
Thứ nhất, một khối lượng tiền lớn được đưa ra nền kinh tế toàn cầu : Trước bối cảnh 
lạm phát gia tăng và kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái, các NHTW không còn cách nào 
khác là phải bơm một lượng tiền khổng lồ để cứu vãn nền kinh tế, trong đó riêng Mỹ từ 
tháng 8/2007 đến nay đã phải đưa ra nền kinh tế trên 2.300 tỷ USD, trong đó có 800 tỷ 
USD tiền mặt để cứu vãn hệ thống ngân hàng, NHTW Châu Âu, Nhật Bản, Anh cũng 
phải đưa một lượng tiền lớn để cứu vãn nền kinh tế cũng như hệ thống ngân hàng; cùng 
với việc một số NHTW phải thực hiện cắt giảm lãi suất từ tháng 8/2007 trở lại đây như 
Mỹ, Anh, Canada. Việc cứu vãn nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái bằng biện pháp đưa 
hàng nghìn tỷ USD ra nền kinh tế lại càng đẩy lạm phát toàn cầu tiếp tục tăng cao. 
Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm liên tục gia tăng. 
Thứ ba: Giá dầu và giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào của sản xuất liên tục gia tăng: 
Trong 4 năm từ 2003-2006 kinh tế toàn cầu liên tục tăng trưởng cao, đặc biệt là nhóm các 
nước "mới nổi" ở khu vực Châu á, nhất là Trung Quốc đã đẩy nhu cầu năng lượng toàn 
cầu tăng cao đột biến, cùng với những bất ổn và xung đột chính trị quân sự tại khu vực 
Trung Đông là các nguyên nhân trực tiếp đẩy giá dầu lên cao chưa từng có trong lịch sử 
110 USD/thùng trong tháng 3/2008, đồng thời giá các nguyên vật liệu đầu vào khác như 
sắt thép, phân bón, xi măng cũng liên tục gia tăng 
Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là cùng một bối cảnh thế giới như nhau, tại sao các nước khác 
như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia lại có mức lạm phát thấp hơn so với lạm phát của 
Việt Nam? Vậy, mức lạm phát của Việt Nam tăng cao trong thời gian vừa qua ngoài 
những yếu tố thế giới thì còn những nguyên nhân nào khác? 
Các yếu tố nội tại ở Việt Nam: 
Thứ nhất: Chi phí sản xuất tăng cao: Trước bối cảnh lạm phát toàn cầu gia tăng đã tác 
động làm giá hầu hết các nhóm hàng nhập khẩu của Việt Nam gia tăng mạnh mẽ như 
xăng dầu, sắt thép, phân bón, thuốc trừ sâu - là những nguyên nhiên vật liệu đầu vào 
chính của sản xuất. 
đầu năm 2007 đến hết Quý I/08 giá xăng dầu đã phải điều chỉnh tăng 4 lần, tính chung 
giá xăng dầu đã tăng tới 38%, giá thép tăng 91%, giá điện tăng 7,6%; giá than tăng 30%; 
giá xi măng tăng 15%; giá phân bón tăng 58%. 
Thứ hai: Giá lương thực, thực phẩm tăng cao: việc giá lương thực, thực phẩm thế giới 
tăng cao đã khiến giá gạo xuất khẩu và giá một số mặt hàng thực phẩm xuất khẩu khác 
như thuỷ hải sản gia tăng cộng với chi phí sản xuất tăng cao đã đẩy giá lương thực, thực 
phẩm trong nước tăng cao ở mức 18,92% năm 2007 và 14,45% trong QI/2008, cao gấp 5 
lần so với mức tăng 4,18% của quý I/2007, trong khi nhóm này có quyền số 42,85%, lớn 
nhất trong rổ hàng hoá CPI, có thể nói đây là nguyên nhân chủ yếu tác động làm CPI tăng 
mạnh. 
Thứ ba: Chính sách t ... ổn định thị trường đã tăng lãi suất thị 
trường và giảm cầu tín dụng. 
Điều chỉnh tỷ giá - mua bán ngoại tệ của các TCTD tăng 5,52% , thực hiện các biện pháp 
ổn định thị trường tiền tệ. -> thị trường ngoại tệ và tỷ giá tương đối ổn định trong 9 tháng 
đầu năm, từ tháng 10 tỷ giá thị trường tăng phù hợp với điều kiện kinh tế vĩ mô. 
Thực hiện các giải pháp kiểm soát chặt chẽ thị trường vàng ngay từ đầu năm. Đóng cửa 
sàn giao dịch vàng và chấm dứt kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài , điều hành 
xuất nhập khẩu vàng phù hợp với nhu cầu thị trường : ban hành thông tư số 22/2010/TT-
NHNN ngày 29/10/2010 thu hẹp huy động và cho vay bằng vàng -> giá vàng trong nước 
bám sát giá vàng thế giới, hiệu ứng đám đông và hiện tượng đầu cơ có xu hướng giảm. 
Giám sát chặt chẽ diễn biến thị trường tiền tệ và thực hiện các giải pháp đảm bảo an toàn 
hệ thống. -> tình hình thanh khoản và lãi suất thị trường tiền tệ trong nửa cuối tháng 12 
tương đối ổn định. 
Tiếp tục hỗ trợ lãi suất cho các khoản vay được giải ngân năm 2009 và các khoản vay 
năm 2010 theo quyết định số 2213/QĐ-TTg ngày 31/12/2009  
Các CS của NHNN đã đem lại nhiều hiệu quả tích cực cho thị trường. Tuy nhiên có một 
số vấn đề bất lợi như: tỷ trọng tín dụng đối với lĩnh vực phi sản xuất giảm chậm,tín dụng 
có sức ép tăng, nếu không kiểm soát chặt chẽ sẽ vượt xa mục tiêu 25% , ảnh hưởng đến 
lạm phát và cán cân thanh toán quốc tế. 
Nhìn chung thị trường tiền tệ 2010 tương đối ổn định. Thị trường ngoại tệ và thị trường 
vàng đã dần ổn định. 
Năm 2011 
GDP 9 tháng đầu năm 2011 tăng 5,76% so với cùng kỳ. Thực trạng này đã khiến mục 
tiêu kìm chân lạm phát ở mức 7% của Quốc hội trở thành một nhiệm vụ bất khả thi trong 
năm nay. Vậy đâu là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình hình lạm phát đáng báo 
động ở Việt Nam hiện nay. 
Ở Việt Nam, song hành với tăng trưởng nóng là lạm phát cao. Trong năm 2010, tỷ lệ lạm 
phát của Việt Nam đã vượt ngưỡng 10%. Và sang năm 2011, tình hình có vẻ như không 
có dấu hiệu khả quan hơn. 
Nguyên nhân đầu tiên dẫn đến tình trạng hiện nay đó là sự kém hiệu quả của hoạt động 
đầu tư công. Báo cáo mới nhất của Ủy ban Tài chính Ngân sách Quốc hội khi thẩm tra 
tình hình thu chi ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2010 đã "đề nghị xem xét lại đầu tư 
công những năm qua có xu hướng tăng cao và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn so với tổng 
đầu tư toàn xã hội". Năm 2007 chiếm 37,2%, năm 2008 chiếm 33,9%. Năm 2009 chiếm 
40,6% và năm 2010 chiếm 46,2%. Tỷ lệ ngân sách chi cho các dự án đầu tư công dường 
như tỷ lệ nghịch với hiệu quả của các dự án trên. Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cơ 
bản như đường xá, cầu cống, sân bay, hải cảng... là rất cần thiết để góp phần thúc đẩy 
phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một thực trạng đáng buồn ở Việt Nam hiện nay đó là các dự 
án đầu tư công đang dàn trải, không có định hướng quy hoạch cụ thể. Các dự án đòi hỏi 
đầu tư với lượng vốn lớn nhưng hiệu suất sử dụng thu về thì không nhiều. Điều này tạo ra 
một sự mất cân đối trong nền kinh tế, khiến thâm hụt ngân sách của nước ta hàng năm 
tăng cao trong khi đó bộ mặt của nền kinh tế không có dấu hiệu cải thiện rõ rệt. 
Tốc độ tăng truởng tín dụng cao gấp nhiều lần tăng trưởng GDP. Tình trạng Dola 
hóa,Vàng hóa tác động tiêu cực đối với lạm phát chưa được chấm dứt. Thực hiện giá thị 
trường dồn dập tạo ra mặt bằng giá mới cao hơn. Giá cả thế giới tăng cao, sự chuyển 
dịch của các dòng tiền tạo nên sự cộng hưởng và chia sẽ dòng tiền với thị truờng tiêu 
dùng. 
CSTT 
Với mục tiêu hàng đầu là kiểm soát lạm phát. 
Ngày 8/3/2011 , NHNN ban hành quyết định số 379/ QĐ-NHNN theo quyết định này lãi 
suất chiết khấu , lãi suất cho vay qua đêm, lãi suất cho vay qua đêm bằng 12%/năm. 
Ngày 9/4/2011 NHNN đã ban hành quyết định số 750/QĐ-NHNN điều chỉnh tỷ lệ dự trữ 
bắt buộc ngoại tệ từ 4% lên 6% đối với các tổ chức tín dụng. 
Nghị quyết số 94/NQ-CP ngày 27/9/2011 và diễn biến thị trường tiền tệ, Ngân hàng Nhà 
nước Việt Nam quyết định điều chỉnh một số mức lãi suất điều hành như sau: Điều chỉnh 
tăng lãi suất tái cấp vốn từ 14%/năm lên 15%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh 
toán điện tử liên ngân hàng từ 14%/năm lên 16%/năm áp dụng từ ngày 10/10/2011. Giảm 
lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ của các TCTD tại 
NHNN từ 0,1%/năm xuống 0,05%/năm, áp dụng từ kỳ dự trữ bắt buộc tháng 10/2011; 
giảm lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ và Kho bạc Nhà nước tại NHNN từ 0,1%/năm xuống 
0,05%/năm, áp dụng từ ngày 10/10/201 
Ngày 17/8/2011 tăng tỷ giá lên 18.932 VND (tăng gần 2,1%). Trong khi đó biên độ tỷ 
giá giữ nguyên ở mức +/-3%. Đây là lần thứ hai kể từ đầu năm Ngân hàng Nhà nước trực 
tiếp tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Trước đó, ngày 11/2/2010, nhà điều hành chính 
sách tiền tệ cũng đã có quyết định tăng tỷ giá này thêm hơn 3%, lên mức 18.544 VND. 
Hầu hết chuyên gia đều cho rằng việc điều tăng tỷ giá USD thời điểm này của Ngân hàng 
Nhà nước là quyết định hợp lý, linh hoạt và kịp thời. Và quan trọng hơn là việc tăng tỷ 
giá được đưa ra trong cam kết chỉ nâng giá USD thêm 1% từ nay đến cuối năm. "Tôi cho 
rằng việc điều chỉnh tỷ giá lần này là động thái tích cực, kịp thời của Ngân hàng Nhà 
nước", Tiến sĩ Doanh nhận định. 
Tuy nhiên sau 9 tháng đầu năm tỷ lệ tăng trưởng tín dụng vẫn còn cao, lạm phát chưa có 
dấu hiệu suy giảm. Do tác động của CSTT có độ trễ nhất định nên những CS được đưa ra 
từ đầu năm tới nay chưa phát huy hiệu quả. Tình hình kinh tế vĩ mô hiện nay phần lớn là 
do hệ quả của CSTT từ những năm trước mang lại. 
CSTT trong thời gian tới nhằm kiểm soát lạm phát ở Việt Nam: 
Trên cơ sở phân tích nguyên nhân lạm phát và những vấn đề tồn động của CSTT trong 
việc chống lạm phát, phần này đề ra các giải pháp và cách thức thự hiện cụ thể góp phần 
ổn định kinh tế vĩ mô cho mục tiêu trước mắt năm 2011 và mục tiêu dài hạn 2011-2015. 
Thực thi CSTT kiểm soát lạm phát ở mức vừa phải, ổn định, phù hợp với các mục tiêu 
tăng trưởng kinh tế, thất nghiệp, an sinh xã hội,đủ để kích thích sự tăng trưởng kinh tế 
một cách bền vững, đảm bảo công bằng xã hội. 
Tình trạng lạm phát luôn song hành với nền kinh tế, vì vậy các chích sách, giải pháp kiểm 
soát lạm phát phải mang tính lâu dài, vì mục tiêu dài hạn. 
Các giải pháp từ CSTT phải mang tính đồng bộ và phối hợp nhịp nhàng với các giải pháp 
khác . 
Các CSTT đều có độ trễ về thời gian , vì vậy không thể nôn nóng trong việc điều hành và 
thực thi chích sách, lại càng không thể hướng đến mục tiêu ngắn hạn. 
Trong dài hạn, nền kinh tế thị trường phải được điều hành bằng các CS mang tính thị 
trường, không nên lạm dụng các biện pháp hành chính, dễ gây những tác động trái chiều. 
Chú trọng phát triển bền vững hệ thống tài chính. 
Nâng cao năng lực điều hành của CP. Sự phối hợp giữa các ban ngành và niềm tin, sự kỳ 
vọng của người dân. 
CP nên thắt chặt và kiểm soát mức cung tiền và tín dụng cho từng năm,cho trung và dài 
hạn, định lượng cụ thể trong mối tương quan với các mục tiêu về lạm phát, tăng trưởng 
GDP thực tế và cán cân thanh toán. Sau khi đã có các chỉ tiêu kế hoạch, CP phải kiên 
định theo chỉ tiêu đã dặt ra . 
Thắt chặt hoạt động tín dụng là điều tiên quyết, đặc biệt đối với kênh cho vay đầu tư vào 
TTCK và BĐS. Cần có những phân định rõ ràng và chi tiết trong việc xét hồ sơ vay vốn, 
cần phải linh hoạt trong vấn đề cho vay đối với ngành phi sản xuất. Chẳng hạn đối với 
BĐS thương mại thì hạn chế nhưng đối với đầu tư BĐS nhằm phục vụ sản xuất như xây 
dựng cơ sở hạ tầng công nghiệp, mở rộng nhà xưởng thì không nên quá hạn chế , hoặc 
đối với các hoạt độngdịch vụ. 
Hiện nay với lãi suất cho vay thực tế trên 20% thì nếu ưu tiên định hướng dòng chảy tín 
dụng vào lĩnh vực sản xuất thì các nhà đầu tư cũng không thể vay vì chi phí vốn quá cao. 
Bên cạnh đó các NHTM vẫn cho vay vào lĩnh vực phi sản xuất nhưng lách luật bằng cách 
sửa đổi hồ sơ vay vốn. NHNN cần có những CS khơi thông và kiểm soát dòng chảy tín 
dụng này. Triển khai các CS cho vay ưu đãi với ND, các nhà sản xuất, gỡ bỏ các rào cản 
để giúp các thành phần này dễ dàng tiếp cận nguồn vốn; tăng cường kiểm soát dư nợ cho 
vay đối với các NHTM. 
Để các giải pháp hạn chế mức tín dụng đối với các NHTM, NHNN phải có lộ trình dài 
hạn trong việc điều hành CS. ( vì các khoản vay lớn tại các NH đều là trung và dài hạn). 
CS tỷ giá nên linh hoạt và thận trọng .Với bối cảnh hiện nay ta nên giảm từ từ tỷ giá là 
điều cần thiết.Các cơ quan quản lí và NHTW phải quản lí được tất cả các nguồn ngoại tệ 
và các luồng tiền nói chung.Hạn chế và tiến tới xóa bỏ thị trường ngoại tệ tự do bằng 
cách hút ngoại tệ vào NH. Tăng dự trữ ngoại tệ. Kiểm soát tỷ giá biến động thấp hơn mức 
lạm phát kỳ vọng , tiếp tục thực hiện các giải pháp tăng cung và giảm cầu ngoại tệ như 
năm 2010, đi đôi với chống đầu cơ và găm giữ ngoại tệ. 
Thực hiện mua ngoại tệ bổ sung dự trữ ngoại tệ của NHNN và đáp ứng đủ vốn cho các 
DN XNK. 
Giảm lãi suất huy động USD và kì vọng lạm phát. 
Ổn định thị trường vàng : mở lại các sàn vàng + cơ chế giám sát chặt chẽ, minh bạch 
thông tin.. 
Đưa ra các biện pháp cụ thể và hiệu quả để chấm dứt hiện tượng nhập lậu và đầu cơ vàng, 
đầu cơ USD 
Dành một phần lượng tiền cung ứng đẻ cho vay tái cấp vốn với lãi suất hợp lí, hỗ trợ 
TCTD mở rộng tín dụng ngắn hạn , trung và dài hạn đối với lĩnh vực nông nghiệp , nông 
thôn, xuất khẩu. 
Tiếp tục áp dụng biện pháp mua tín phiếu NHNN bắt buộc đã công bố . Kiểm soát tốc độ 
tăng trưởng tín dụng ( tối đa 30%) , tổng phương tiện thanh toán một cách hợp lí. Kiểm 
soát cho vay BĐS , KDCK và cho vay tiêu dùng. 
Thanh lọc hệ thống NH. 
Tăng cường tính độc lập của NHTW trong các quyết định về CSTT. Tránh bị tác động 
bởi CP. Khi đó NHTW sẽ có đầy đủ quyền lực vê nghiệp vụ để tác động đến tổng cầu, 
đảm bảo mục tiêu lạm phát, ổn định thị trường ngoại tệ mà không cần dùng biện pháp 
hành chính, kêu gọi sự đồng thuận hay áp dụng mức trần sàn của lãi suất. 
Đặt mục tiêu kiềm chế lạm phát lên hàng đầu. 
Nâng cao chất lượng dự báo lạm phát, dự báo tác đọng của các yếu tố vĩ mô trong và 
ngoài nước. Đánh giá được độ trễ của CSTT đến lạm phát trong tình hình thực tế của Việt 
Nam. 
Kết Luận 
Qua bài phân tích và bình luận trên, chúng ta nhận thấy vai trò quan trọng của CSTT đối 
với việc kiềm chế lạm phát .Một CSTT tốt là một chính sách góp phần tăng tính ổn định 
và phát triển bền vững của nền kinh tế trong dài hạn. T rong ngắn hạn nếu có CSTT kịp 
thời , phù hợp và linh hoạt thì nó sẽ trở thành một công cụ hữu ích điều tiết nền kinh tế 
trước những biến động hằng ngày theo quy luật chung của nó. 
Lạm phát ở mức cao là một hiện trạng không thể tránh khỏi đối với một nền kinh tế đang 
trên đà phát triển như Việt Nam. Lạm phát giống như con dao hai lưỡi nếu biết cách sử 
dụng thì con dao ấy sẽ là vũ khí sắc bén để giúp Việt Nam hoàn thành mục tiêu phát triển 
kinh tế, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước trong tương lai gần. 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_binh_luan_ve_nguyen_nhan_lam_phat_o_viet_nam_va_va.pdf