Tiểu luận Sự đánh đổi giữa hiệu quả và công bằng trong chương trình cho sinh viên nghèo vay vốn
Trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, yếu tố con người được xem là quan
trọng nhất trong phát triển kinh tế đất nước. Ví dụ như Nhật Bản, Hàn Quốc,
Singapore là những nước cùng nằm tại châu Á, tuy không có tài nguyên khoáng sản
quốc gia nhiều nhưng đất nước họ rất phát triển. Điều đó chứng tỏ yếu tố con người có
vai trò quan trọng và là yếu tố quyết định đối với sự phát triển đất nước. Nhận thấy rõ
được điều đó nên chúng ta đã và đang dốc sức tập trung đấu tư, bồi dưỡng cho giáo dục
nhằm tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cho đất nước.
Hiện nay nước ta vẫn còn nghèo, việc đi học bậc tiểu học, trung học đã là khó khăn với
nhiều gia đình, thì việc chuẩn bị cho các tài năng của đất nước bước vào ngưỡng cửa đại
học quả là một vấn đề nan giải. Học đại học là niềm mơ ước của những bạn sắp kết thúc
bậc phổ thông, thế nhưng đi học đại học thường phải xa nhà, chi phí mà gia đình phải
đầu tư cho một bạn sinh viên là rất lớn, có thể quá sức, gia đình không thể chu cấp cho
các bạn đầy đủ các chi phí, một số bạn phải đi làm thêm, thậm chí còn đành bỏ học.
Nhân thấy được điều đó, từ năm 2003 nhà nước ta đã đề ra chính sách “Cho sinh viên
nghèo vay vốn” và đến năm 2007 chính sách này đã có những thay đổi hợp lý. Điều này
làm cho sinh viên cũng như gia đình đỡ phần nào gánh nặng.
Là sinh viên đang theo học ngành “Kinh tế học”, chính sách này vừa ảnh hưởng trực
tiếp đến bản thân chúng em vừa như một ví dụ gần gũi trong quá trình nghiên cứu môn
học “Kinh tế học vi mô”. Do đó, chúng em đã quyết định lựa đề tài nghiên cứu về “Sự
đánh đổi giữa hiệu quả và công bằng trong chương trình cho sinh viên nghèo vay
vốn”
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Sự đánh đổi giữa hiệu quả và công bằng trong chương trình cho sinh viên nghèo vay vốn
Tiểu luận Sự đánh đổi giữa hiệu quả và công bằng trong chương trình cho sinh viên nghèo vay vốn PHẦN MỞ ĐẦU Trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, yếu tố con người được xem là quan trọng nhất trong phát triển kinh tế đất nước. Ví dụ như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore là những nước cùng nằm tại châu Á, tuy không có tài nguyên khoáng sản quốc gia nhiều nhưng đất nước họ rất phát triển. Điều đó chứng tỏ yếu tố con người có vai trò quan trọng và là yếu tố quyết định đối với sự phát triển đất nước. Nhận thấy rõ được điều đó nên chúng ta đã và đang dốc sức tập trung đấu tư, bồi dưỡng cho giáo dục nhằm tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cho đất nước. Hiện nay nước ta vẫn còn nghèo, việc đi học bậc tiểu học, trung học đã là khó khăn với nhiều gia đình, thì việc chuẩn bị cho các tài năng của đất nước bước vào ngưỡng cửa đại học quả là một vấn đề nan giải. Học đại học là niềm mơ ước của những bạn sắp kết thúc bậc phổ thông, thế nhưng đi học đại học thường phải xa nhà, chi phí mà gia đình phải đầu tư cho một bạn sinh viên là rất lớn, có thể quá sức, gia đình không thể chu cấp cho các bạn đầy đủ các chi phí, một số bạn phải đi làm thêm, thậm chí còn đành bỏ học. Nhân thấy được điều đó, từ năm 2003 nhà nước ta đã đề ra chính sách “Cho sinh viên nghèo vay vốn” và đến năm 2007 chính sách này đã có những thay đổi hợp lý. Điều này làm cho sinh viên cũng như gia đình đỡ phần nào gánh nặng. Là sinh viên đang theo học ngành “Kinh tế học”, chính sách này vừa ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân chúng em vừa như một ví dụ gần gũi trong quá trình nghiên cứu môn học “Kinh tế học vi mô”. Do đó, chúng em đã quyết định lựa đề tài nghiên cứu về “Sự đánh đổi giữa hiệu quả và công bằng trong chương trình cho sinh viên nghèo vay vốn”. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN 1.1. NGUYÊN LÝ “CON NGƯỜI PHẢI ĐỐI MẶT VỚI SỰ ĐÁNH ĐỔI” Để có được một thứ ưa thích, chúng ta thường phải từ bỏ một thứ khác mà mình thích. Quá trình ra quyết định đòi hỏi phải đánh đổi mục tiêu này để đạt được một mục tiêu khác. Nói cách khác “mọi thứ đều có giá của nó”. Một sự đánh đổi mà xã hội phải đối mặt là sự đánh đổi giữa công bằng và hiệu quả. Hiệu quả có nghĩa là xã hội thu nhận kết quả cao nhất từ các nguồn lực khan hiếm của mình. Công bằng hàm ý ích lợi thu được từ các nguồn lực đó được phân phối công bằng giữa các thành viên của xã hội. Khái niệm hiệu quả ám chỉ quy mô của chiếc bánh kinh tế, còn khái niệm công bằng nói lên phương thức phân chia chiếc bánh đó. Thường thì khi thiết kế các chính sách của chính phủ, người ta nhận thấy hai mục tiêu này xung đột với nhau. 1.2. HÀNG HÓA GIÁO DỤC • Theo P.Samuelson thì hàng hóa công là loại hàng hóa mà chi phí để nhận dịch vụ từ nó đối với mỗi người sử dụng là bằng 0 và không thể ngăn cấm mọi người sử dụng. • Theo Joseph-Stinglitz thì hàng hóa công là những loại hàng hóa mà việc một cá nhân này đang hưởng thụ lợi ích do hàng hóa đó tạo ra không ngăn cản những người khác cùng đồng thời hưởng lợi ích của nó. Ở Việt Nam, giáo dục đại học là hàng hóa công không thuần túy vì khi một sinh viên muốn vào đại học phải phụ thuộc vào 2 khả năng: khả năng tích lũy tri thức và khả năng tài chính. Đối với khả năng tích lũy tri thức thì phụ thuộc hoàn toàn vào bản thân sinh viên. Khi muốn được vào đại học thì chúng ta phải trải qua một kỳ thi quan trọng là tuyển sinh Đại học, ai có khả năng tích lũy tri thức càng nhiều thì càng có cơ hội vào đại học nhiều hơn. Vì vậy đã tạo nên một sự cạnh tranh giữa mọi người với nhau, không phân biệt giàu nghèo. Và khi tích lũy tri thức đủ khả năng vào đại học thì việc học đại học còn bị phụ thuộc vào khả năng tài chính của mỗi gia đình. Có những gia đình không đủ tiền để cho con họ học tiếp đại học nên những sinh viên đó không thể thực hiện được ước mơ vào đại học. 1.3. HIỆU QUẢ VÀ CÔNG BẰNG TRONG CHI TIÊU CÔNG CHO HÀNG HÓA GIÁO DỤC 1.3.1. Hiệu quả Pareto: Một sự phân bổ nguồn lực được xem là đạt hiệu quả Pareto nếu như không có cách nào phân bổ lại các nguồn lực để làm cho ít nhất một người được lợi hơn mà không phải làm thiệt hại đến bất kỳ ai. (Vilfredo Pareto – Italia). Trong giáo dục có thêm một sinh viên sử dụng chương trình giáo dục thì cũng không ảnh hưởng gì tới lợi ích của những sinh viên khác. 1.3.2. Công bằng: Khái niệm công bằng mang tính chuẩn tắc, nghĩa là tùy thuộc vào quan điểm của mỗi người. Có hai cách hiểu khác nhau về công bằng: • Công bằng ngang: là sự đối xử như nhau với những người có tình trạng kinh tế như nhau. Tại Điều 26 trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc ghi rõ: “Mọi người đều có quyền được học hành. Phải áp dụng chế độ giáo dục miễn phí, ít nhất là ở bậc tiểu học và giáo dục cơ sở. Giáo dục tiểu học là bắt buộc”. • Công bằng dọc: là đối xử khác nhau với những người có khác biệt bẩm sinh hoặc có tình trạng kinh tế ban đầu khác nhau nhằm khắc phục những khác biệt sẵn có. Nếu như công bằng ngang được thực hiện bởi cơ chế thị trường thì cân bằng dọc cần có sự điều tiết của nhà nước. Hiệu quả Nhận thức của đối tượng không được trợ cấp về sự đánh đổi. Nhận thức của sinh viên nghèo được trợ cấp về sự đánh đổi. “Giáo dục kỹ thuật và ngành nghề phải mang tính phổ thông, và giáo dục cao học phải theo nguyên tắc công bằng cho bất cứ ai có đủ khả năng. Cha, mẹ có quyền ưu tiên lựa chọn loại hình giáo dục cho con cái”. (Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của LHQ). Trong giáo dục đại học, ngay từ giai đoạn tuyển sinh thì chỉ ai tích lũy đủ tri thức mới có thể vào được đại học, và tùy vào khả năng tài chính của mỗi gia đình mà họ có thể học tại những trường đại học khác nhau, nếu có điều kiện con em họ có thể học tại các trường quốc tế, dân lập, nếu không sẽ học tại các trường công lập. 1.3.3. Mối quan hệ giữa hiệu quả và công bằng trong chi tiêu giáo dục: Mọi hoạt động chi tiêu cho giáo dục của chính phủ đều nhằm giải quyết bài toán “cân bằng dọc”, cả người giàu người nghèo ai cũng có cơ hội học tập như nhau. Tuy nhiên trong thực tế có hai trường phái về việc có hay không sự đánh đổi giữa hiệu quả về công bằng: • Trường phái 1: Cho rằng hiệu quả và công bằng là có sự đánh đổi. Theo quan điểm này, nếu ưu tiên hiệu quả thì phải chấp nhận bất công và ngược lại. Bởi vì: việc đầu tư cho giáo dục chính là vấn đề chi tiêu ngân sách nhà nước cho giáo dục, hỗ trợ cho sinh viên nghèo chính là việc phân phối lại thu nhập từ người giàu sang người nghèo, theo quan điểm của trường phái này nếu không làm công HÌNH 1: Nhận thức khác nhau của hai đối tượng về giá trị của sự đánh đổi việc này thì sẽ không phải mất chi phí để vận hành một bộ phận nguồn nhân lực thực hiện, khỏi phải tốn ngân sách, thu thuế sẽ ít đi. Nhưng nếu đầu tư cho giáo dục thì phải tốn chi phí, có khả năng phải người giầu phải đóng thuế nhiều hơn, gây ra tâm lý bất mãn khiến cho họ muốn làm việc ít đi. Còn những sinh viên được hỗ trợ từ ngân sách nhà nước thì có tâm lý ỷ lại, giảm sự quan tâm tìm kiếm cơ hội, nỗ lực học tập, làm việc để hoát khỏi cuộc sống phụ thuộc. Tóm lại, nếu tiết kiệm được chi phí chi tiêu cho giáo dục thì người nghèo sẽ có ít cơ hội được đến đến trường và ngược lại nếu để nhiều người nghèo được đi học đại học thì cần phải tốn nhiều tiền từ ngân sách nhà nước. Chương trình cho vay với mục tiêu bình đẳng nhằm tăng cơ hội đi học đại học của người nghèo trước tiên cần được đánh giá về mức độ thành công trong việc tiếp cận được những đối tượng này và mức độ sẵn có các khoản vốn vay trong việc góp phần làm tăng sự tham gia vào giáo dục đại học của các nhóm sinh viên khó khăn, khuyến khích sinh viên theo học trong những lĩnh vực ưu tiên và tiếp đó là làm việc trong những lĩnh vực này hoặc ở các khu vực quy định. Xét đến tính hiệu quả tài chính của chương trình cho vay vốn thì đây có thể không phải là một cách tiếp cận được ưa dùng vì sinh viên nghèo có thể được coi là đối tượng vay mang đến rủi ro cao hơn do khả năng không trả được nợ lớn hơn. Xét đến việc nâng cao hiệu quả trong của chương trình cho vay vốn, sẽ là tốt hơn nếu tập trung vào đối tượng sinh viên có năng lực học tập tốt hơn. Những sinh viên này ít có nguy cơ bỏ học hoặc lưu ban trong quá trình học, xin được việc làm tốt hơn và nguy cơ không trả được nợ là thấp hơn. Thực ra, để hạn chế mức độ không trả nợ, chọn đối tượng mục tiêu có thể nhằm mục đích loại bỏ những nhóm sinh viên có độ rủi ro cao, trong đó có sinh viên nghèo. Phân chỉ tiêu vốn vay dựa trên sự cân nhắc về nguồn nhân lực như vậy có thể mang lại hiệu quả cao hơn cho chương trình bởi vì tính kinh tế của chương trình được nâng cao do giảm bớt được khó khăn thiếu nguồn nhân lực. Mối quan tâm chính của các chương trình có mục tiêu cấp vốn vay cho sinh viên nghèo chính là liệu chúng có thực sự đến được với đối tượng này hay không. Cấp vốn cho đối tượng này không chỉ đòi hỏi phải đưa ra quy định về tiêu chuẩn được vay vốn (thường là dựa trên mức trần thu nhập gia đình) mà còn phải có khả năng kiểm tra tính chính xác của thông tin do đối tượng xin vay vốn cung cấp. Trong trường hợp khó xác định tính chính xác của thông tin này thì chương trình sẽ dễ bị lợi dụng và sinh viên không thuộc đối tượng nghèo lại được vay vốn có trợ cấp. Như vậy mục tiêu của chương trình không được thực hiện đúng theo ý muốn. Nó vừa lãng phí và không công bằng trong việc cung cấp những lợi ích kinh tế không cần thiết cho sinh viên không thuộc đối tượng nghèo. Và nếu không chọn đối tượng mục tiêu một cách thận trọng thì rất có thể sinh viên có hoàn cảnh khó khăn nhất lại bị loại ra. HÌNH 2: Sơ đồ hình trứng Vòng tròn ngoài cùng (lớn nhất) là dân số độ tuổi học đại học và bao gồm học sinh mới tốt nghiệp phổ thông và sinh viên đang học THCN, dạy nghề, cao đẳng và đại học (vòng tròn ở giữa). Trong số những sinh viên đang học THCN, dạy nghề, cao đẳng và đại học, có một số được vay vốn (vòng tròn nhỏ nhất). Dựa vào đánh giá mức độ đói nghèo (đường cong chấm chấm), chỉ có một bộ phận những thanh niên này được xác định là đối tượng nghèo (nằm ở phía trên của đường cong). Tổng số đối tượng vay vốn được thấy trong phần A và D của sơ đồ. Những sinh viên trong phần A là sinh viên nghèo và vì vậy được quyền vay vốn. Trong khi đó sinh viên trong phần D không phải là đối tượng nghèo nhưng vẫn được vay vốn. Vấn đề này xảy ra do việc phân bổ vốn vay không tuân theo những tiêu chí quy định hoặc do chương trình vốn vay đang bị lợi dụng. Đối tượng mục tiêu bao gồm tất cả sinh viên nghèo theo học ở các trường THCN, dạy nghề, cao đẳng và đại học (Phần A và B); trong số này chỉ sinh viên ở Phần A được vay vốn còn sinh viên ở phần B không được vay. Tổng số các đối tượng mục tiêu bao gồm phần A và B cộng với phần C (những thanh niên nghèo đã tốt nghiệp trung học, đủ trình độ vào đại học (nhưng không có điều kiện) và có thể được đi học trở lại nhờ có các k ... có trên 1,9 triệu học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn đã được vay vốn ngân hàng để học tập, với số tiền lên tới hơn 24.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, theo đánh giá của Chính phủ, mặc dù đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, nhưng việc xác nhận và lựa chọn đúng đối tượng khó khăn thụ hưởng chương trình tín dụng này vẫn còn sai sót. Một số trường, cơ sở dạy nghề còn chưa thực hiện tốt công tác trao đổi thông tin, thống kê số lượng học sinh, sinh viên được vay vốn và việc thực hiện cam kết trả nợ. Ngoài ra, vẫn còn một bộ phận học sinh, sinh viên chưa hiểu hết ý nghĩa của việc sử dụng vốn vay và trách nhiệm hoàn trả cùng gia đình. Để bảo đảm việc triển khai Chương trình Tín dụng đối với học sinh, sinh viên năm học 2010-2011 phù hợp với tình hình thực tế, Chính phủ đã yêu cầu Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ngân hàng Chính sách Xã hội xác định cụ thể nhu cầu vay của học sinh, sinh viên năm học 2010 – 2011, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định điều chỉnh mức cho vay phù hợp với mức học phí được điều chỉnh theo nhóm ngành học. Ngân hàng Chính sách Xã hội cần điều chỉnh mức cho vay đối tượng thuộc diện hộ cận nghèo để bảo đảm mức cho vay này thấp hơn mức cho vay đối tượng thuộc diện hộ nghèo; thực hiện chỉ cho vay một lần với thời hạn không quá 12 tháng đối với học sinh, sinh viên mà gia đình gặp khó khăn về tài chính; tổ chức và triển khai việc thu tiền lãi các khoản vay của học sinh, sinh viên đối với những trường hợp có điều kiện và tự nguyện đề nghị trả lãi trong thời gian học sinh, sinh viên đang học. 2.4 . ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ CÔNG BẰNG ĐẠT ĐƯỢC Sau 3 năm thực hiện chương trình tín dụng giành cho sinh viên đã thu được những hiệu quả nhất định và sớm đi vào đời sống của mọi sinh viên, học sinh, của mọi nhà gia đình có con em đã, đang, sắp vào đại học. Nếu cách đây 3 năm, chương trình bắt đầu được thực hiện với 3 nỗi lo lớn nhất: cho vay không đúng đối tượng, thủ tục rườm rà và thiếu nguồn vốn. Thì đến nay, sau khi hơn 1,9 triệu HSSV đã được vay vốn, nỗi lo đầu tiên được giải toả: tín dụng đã đến được với các hộ gia đình nghèo là đối tượng trọng tâm của chương trình. Không chỉ có hộ nghèo, Quyết định 157 còn mở rộng đối tượng được vay vốn tới các hộ cận nghèo (có mức thu nhập bình quân đầu người tối đa bằng 150% mức bình quân đầu người của hộ nghèo). Đối tượng này đang vay gần 7.000 tỷ đồng với 624 nghìn hộ, chiếm 50% tổng số hộ vay vốn. Ngoài ra, trong 3 năm qua, do thiên tai, dịch bệnh liên tục xảy ra tại các vùng, miền, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống vật chất, tinh thần của người dân, chương trình đã đưa 180 nghìn hộ gia đình có khó khăn đột xuất về tài chính vào diện vay vốn với 1.803 tỷ đồng. Gần 5 nghìn HSSV mồ côi, sau khi có xác nhận của nhà trường, đã được vay trực tiếp tại Ngân hàng CSXH nơi nhà trường đóng với vốn vay 54 tỷ đồng. Cùng với các chương trình tín dụng khác của NHCSXH, nợ xấu nợ quá hạn của NHCSXH giảm từ 13,7% khi nhận bàn giao năm 2003, xuống còn 2% năm 2009. Tỷ lệ thu lãi đạt 95% tổng số lãi phải thu hàng năm. Một nỗi quan ngại khác là thủ tục cho vay rườm rà, gây khó khăn cho HSSV, đến thời điểm này cũng đã cơ bản được giải toả. Hơn 24 nghìn tỷ đồng cho 1,9 triệu HSSV vay là con số minh chứng cho việc tiếp cận vốn vay khá dễ dàng nhờ cơ chế thông thoáng, dù chưa hoàn toàn thống nhất giữa ngân hàng, nhà trường và địa phương. Về nguồn vốn cho chương trình: Trong thời gian tới, để chính sách phát huy hiệu quả tốt hơn, việc lo nguồn vốn để chương trình được triển khai liên tục là nhiệm vụ quan trọng. Bộ Tài chính sẽ phối hợp với Ngân hàng Nhà nước, các cơ quan liên quan để không vì thiếu vốn mà HSSV nghèo không có tiền vay. Với số vốn ban đầu khá nhỏ, đến năm 2008 nguồn vốn được công bố là khoảng 8.000 tỷ đồng. Tuy nhiên quá trình triển khai chính sách vẫn có nơi, có chỗ còn bất cập. Về phía người vay, vẫn còn nhiều học sinh, sinh viên chưa được tiếp cận và hiểu rõ chính sách để thụ hưởng; Về phía các ngành chức năng và chính quyền địa phương các cấp, sự phối hợp chưa được đồng bộ, chu đáo, thủ tục còn rườm rà. Vì thế, số lượng sinh viên, học sinh xác nhận nhiều nhưng số sinh viên, học sinh được vay không lớn, rất nhiều SV thật sự khó khăn vẫn chưa được chạm đến nguồn vốn này, trong khi cũng không ít SV “không nghèo” về kinh tế vẫn được vay. Như vậy, việc xác định mục tiêu chi chương trình không rõ ràng, đối tượng là SV khó khăn hay toàn bộ HSSV đều có cơ hội tiếp cận với quỹ khi có nhu cầu? Thủ tục bình quân kéo dài từ 1 tuần đến 1tháng. Việc HSSV làm hồ sơ vay vốn chủ yếu tại địa phương, nhà trường chỉ nắm thông tin qua chính các HSSV được vay vốn báo lại. Do đó, thiếu sự ràng buộc giữa HSSV với nhà trường, giữa gia đình, chính quyền địa phương với các chi nhánh ngân hàng trong khi quan trọng nhất của thủ tục cho vay là yếu tố ràng buộc người vay trả tiền để duy trì quỹ thì lại không hiệu quả. Một số trường không có cơ sở thông tin để theo dõi và quản lý các đối tượng được vay vốn. Nhà trường – đơn vị quản lý HSSV chỉ có việc xác nhận HSSV đang theo học tại trường và hoàn toàn không có nhiệm vụ, trách nhiệm nào khác. Sau khi ký giấy xác nhận, SV có được duyệt hay không và được vay bao nhiêu thì nhà trường hoàn toàn không biết. Không chỉ vậy, trong công tác thu hồi nợ vẫn chưa có một văn bản nào quy định cụ thể, rõ ràng cho một tổ chức, đơn vị nào phải chịu trách nhiệm quản lý giấy cam kết trả nợ của HSSV... Các biến dạng của chương trình đã và đang xảy ra khiến cả hiệu quả và công bằng đều không đạt được • Sai đối tượng cho vay: không đạt được hiệu quả cho vay đúng đối tượng, trợ cấp cho người giàu không mang tính phân phối lại thu nhập, trở thành phân phối ngược vì khi đó người giàu càng có điều kiện học tập hơn, cơ hội trong tương lai kiếm được việc làm tốt hơn, thu nhập cao hơn sẽ càng giàu hơn. Ngược lại người nghèo, bị người giàu chiếm mất cỗ vay, không có điều kiện học tập thoát khỏi nghèo mà lại càng nghèo hơn. • Thời gian trả nợ: Chương trình cho vay cố định vì vậy áp lực trả nợ là rất lớn đối với sinh viên ngay sau khi ra trường, dẫn tới họ có thể không chịu trả nợ, ảnh hưởng tới tình bền vững của nguồn vốn vay. • Khả năng kiếm được việc làm: tình hình kinh tế của nước ta là một nước đang phát triển, do đó sinh viên khi mơi ra trường cơ hội kiếm được một việc làm là không cao, tác động tới khả năng, thời gian trả nợ của sinh viên, người nghèo không có công ăn việc làm không có thu nhập, không cải thiện được cuộc sống nhưng đồng thời phải gánh thêm một số tiền nợ khi còn đi học. • Thu nhập để trả nợ: với một sinh viên mới ra trường hệ số lương không cao, cộng với phải trang trải cuộc sống nữa thì việc thu nhập dư ra để trả nợ là không có, áp lực lớn trong việc trả nợ có thể họ sẽ thoái thác trách nhiệm trả nợ. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VÀ KẾT LUẬN 3.1. GIẢI PHÁP a) Giải pháp của chính phủ: Mục đích cho sinh viên vay tiền là để giảm bớt gánh nặng kinh tế gia đình và bản thân, giúp sinh viên tập trung vào việc học, do đó muốn quản lý tốt lượng ngân sách đổ ra để nuôi dưỡng nhân tài, cần có chính sách cụ thể hơn và nhất thiết phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhà trường, gia đình . Cần có đề án về quy trình thu hồi vốn được áp dụng đồng bộ cho năm học tới; quy chế thông tin, phần mềm quản lý thông tin cho chương trình. Đặt ra yêu cầu về thành tích học tập sau khi vay vốn so với trước đó, nếu không đạt “chuẩn” sẽ bị tạm cắt cho vay, không có tiến bộ thì sẽ cắt hẳn và truy thu cả vốn và lãi”. Sinh viên được cho vay khi kết quả học kỳ đầu đạt học lực khá trở lên. Điều này nếu có thông báo từ trước sẽ kích thích được sự cố gắng của sinh viên. Nhà trường phải tiến hành xét những sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, có học lực khá giỏi rồi trình lên NHCSXH. Ngân hàng sẽ cho vay bằng cách chuyển tiền từ ngân hàng vào tiền học phí của sinh viên. Như vậy thủ tục rất nhanh gọn. Việc trả nợ nhà trường phải nắm vai trò trung gian. Như vậy chắc chắn nhà trường sẽ có trách nhiệm đối với chất lượng đào tạo của mình nếu muốn việc thu hồi vốn được nhanh gọn. Đầu tư cho trường công nhiều, dàn trải, không có định hướng thì sẽ không hiệu quả do nguồn ngân sách có hạn vì vậy cần tập trung đầu tư nhiều cho những ngành khoa học cơ bản và nghiên cứu. Học tập kinh nghiệm quản lý ngân sách, thu hồi vốn của nước ngoài. Hiện nay, ngân sách nhà nước (ngân sách công) vẫn còn là nguồn tài chính chủ yếu để hỗ trợ cho giáo dục đại học trong phần lớn các nước, do đó trong xu thế hiện nay cần chủ động tìm nhiều nguồn hỗ tợ khác từ bên ngoài để đầu tư cho giáo duc,. Điều này cũng đồng nghĩa với sự năng động sáng tạo của lãnh đạo các trường đại học và đây cũng là điều kiện để dễ thực hiện và hướng đến sự công bằng trong giáo dục nói riêng, công bằng xã hội nói chung. Nhà nước có một cơ quan độc lập lo việc này và chấp nhận một mức “thất thoát” nào đó trong việc thu hồi nợ... Tất nhiên, bên cạnh chương trình cho SV vay vốn vẫn phải tiếp tục duy trì những giải pháp tài trợ SV truyền thống đã có lâu nay. Có thể kéo dài thời gian trả nợ cho nợ cho sinh viên khó khăn về việc làm thu nhập còn thấp. b) Người vay vốn: • Có tinh thần nghĩa vụ với khoản vay nợ. • Có tinh thần học tập, phấn đấu, chủ động tìm kiếm việc làm có thu nhập thoát khỏi cuộc sống phụ thuộc và trả nợ đúng hạn quy định. • Khai báo thông tin đúng sự thật về hoàn cảnh gia đình, sử dụng vốn vay đúng mục đích, hợp lý. c) Cho tư nhân tham gia cung cấp hàng hóa giáo dục đại học Hầu hết các nước trên thế giới đều cho tư nhân tham gia vào việc cung cấp hàng hóa giáo dục , nhưng chỉ có ở việt nam các trường học tư được thu học phí tự do, hoạt động theo luật doanh nghiệp do đó họ luôn tìm cách tối đa hóa lợ nhuận như vậy mặc dù để trường học tư tham có nhiều mặt tích cực nhưng sẽ không có tính phân phối lại thu nhập nữa. giáo dục trở thành hàng hóa tư. Để khắc phục điều này đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục chính phủ nên để cho trường tư tham gia nhưng cần quy định giá trần học phí. 3.2. KẾT LUẬN Có thể coi tín dụng sinh viên, học sinh là một chính sách đầu tư có chiều sâu, đầu tư dài hạn của Nhà nước để phát triển nhân lực, đào tạo nhân tài. Một mặt, nó giúp đào tạo một lượng lớn cán bộ, công nhân có tay nghề cao phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặt khác quan trọng hơn, chủ trương này đã giúp cho một bộ phận nhân dân có thu nhập thấp có được sự bình đẳng về học tập, giúp họ có đủ kinh phí để theo học các bậc học khác nhau kể cả đào tạo nghề để có thể có một việc làm ổn định, thoát khỏi nghèo đói. Như vậy để đánh giá thành công của chương trình tín dụng cho sinh viên nghèo vay vốn học đại học, cần đặt tiêu chí “tạo cơ hội tiếp cận với giáo dục đại học” cao nhất với người nghèo, với kỳ vọng vào ngoại tác tích cực trong tương lai. Và nó không giống như một chương trình cho vay của “ngân hàng thương mại”.
File đính kèm:
- tieu_luan_su_danh_doi_giua_hieu_qua_va_cong_bang_trong_chuon.pdf