Tiểu luận Một số vấn đề cơ bản về khiếu nại, tố cáo và tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn Thành phố Lạng Sơn
Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân được
ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 và nhiều văn bản pháp luật. Khiếu nại, tố
cáo là hình thức dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia quản lý Nhà nước,
quản lý xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức và công dân. Do đó, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân thực
hiện đầy đủ quyền khiếu nại, tố cáo của mình và tham gia giám sát hoạt động
của cơ quan Nhà nước.
Điều 74 Hiến pháp năm 1992 có quy định: “Công dân có quyền khiếu
nại, quyền tố cáo của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn
vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải
được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời gian pháp luật quy
định. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền
khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác. Mọi hành vi xuất
phát lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và công dân
phải được kịp thời xử lý nghiêm minh”.
Để cụ thể hoá quyền khiếu nại, tố cáo được quy định tại Hiến pháp
tháng 12/1998, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá IX đã thông qua Luật Khiếu
nại, tố cáo. Luật Khiếu nại, tố cáo ra đời đã tạo điều kiện cho công dân thực
hiện quyền khiếu nại, tố cáo, phát huy dân chủ, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, tại phiên họp ngày 01/6/2004, Quốc hội đã
thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo.
Qua tổng kết 5 năm thực hiện Luật Khiếu nại, tố cáo cho thấy nhìn
chung quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đã được tôn trọng và thực hiện
nghiêm chỉnh. Tuy nhiên, ở một số địa phương vẫn còn xảy ra tình trạng
khiếu tố đông người hoặc vượt cấp, có nơi còn hình thành “điểm nóng”. Một
trong những nguyên nhân dẫn đến trung tâm trên là thuộc về chủ quan của các
cơ quan có thẩm quyền khiếu nại, tố cáo.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Một số vấn đề cơ bản về khiếu nại, tố cáo và tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn Thành phố Lạng Sơn
1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG TIỂU LUẬN Một số vấn đề cơ bản về khiếu nại, tố cáo và tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn Thành phố Lạng Sơn lời nói đầu 2 Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 và nhiều văn bản pháp luật. Khiếu nại, tố cáo là hình thức dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân. Do đó, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền khiếu nại, tố cáo của mình và tham gia giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước. Điều 74 Hiến pháp năm 1992 có quy định: “Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời gian pháp luật quy định. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác. Mọi hành vi xuất phát lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh”. Để cụ thể hoá quyền khiếu nại, tố cáo được quy định tại Hiến pháp tháng 12/1998, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá IX đã thông qua Luật Khiếu nại, tố cáo. Luật Khiếu nại, tố cáo ra đời đã tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo, phát huy dân chủ, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, tại phiên họp ngày 01/6/2004, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo. Qua tổng kết 5 năm thực hiện Luật Khiếu nại, tố cáo cho thấy nhìn chung quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đã được tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh. Tuy nhiên, ở một số địa phương vẫn còn xảy ra tình trạng khiếu tố đông người hoặc vượt cấp, có nơi còn hình thành “điểm nóng”. Một trong những nguyên nhân dẫn đến trung tâm trên là thuộc về chủ quan của các cơ quan có thẩm quyền khiếu nại, tố cáo. 3 Bản thân tôi luôn xác định các vấn đề về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo là hết sức quan trọng và sát thực với vai trò, vị trí hiện nay của mình. Do đó, tôi chọn chuyên đề: “Một số vấn đề cơ bản về khiếu nại, tố cáo và tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn Thành phố Lạng Sơn”. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các đồng chí giảng viên trường Cán bộ Thanh tra để bài viết của tôi được hoàn chỉnh hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! 4 Phần thứ nhất Một số vấn đề cơ bản về khiếu nại, tố cáo I. Khiếu nại: Theo điều 2, khoản 1 Luật Khiếu nại, tố cáo: Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, khi nhận được đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải thụ lý giải quyết theo trình tự quy định của pháp luật. Trình tự, thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính được Luật Khiếu nại, tố cáo quy định có sự thay đổi căn bản so với trước đây. Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991 quy định trình tự, thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính theo thẩm quyền ba cấp: Thủ trưởng cơ quan, đơn vị có vụ việc khiếu nại; Chánh Thanh tra trực thuộc cơ quan cấp trên trực tiếp và cuối cùng là Thủ trưởng của Chánh Thanh tra. Trong đó Thanh tra Nhà nước các cấp, các ngành là một cấp thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Từ ngày 01/7/1996 khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính có hiệu lực, trình tự thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính có thay đổi. Sau khi khiếu nại được giải quyết lần đầu mà không chấm dứt, tiếp theo có sự “rẽ nhánh” lựa chọn trong một hai con đường: tiếp tục khiếu nại lên cơ quan hành chính cấp trên hoặc khởi kiện ra Tòa án. Từ ngày 01/01/1998 Luật Khiếu nại, tố cáo có hiệu lực thi hành; và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo 26/4/2004 có hiệu lực từ 01/10/2004 thì trình tự thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính có thay đổi căn bản. Theo đó, thẩm quyền, trách nhiệm giải quyết khiếu nại hành chính là Thủ trưởng cơ quan Thanh tra không là một cấp có thẩm quyền, trách nhiệm giải quyết như quy định trước đây nhưng theo quy định tại 5 điều 27 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo quy định: “Chánh Thanh tra các cấp, các ngành có trách nhiệm xác minh, kết luận, kiến nghị việc giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp”. Vấn đề “rẽ nhánh” giải quyết theo con đường Tòa án xét xử vụ án hành chính vẫn được thực hiện, nhưng với các điều kiện thuận lợi hơn cho người đi khiếu nại. Về trình tự, thủ tục các bước giải quyết khiếu nại: Bước 1: Chuẩn bị giải quyết khiếu nại. * Nghiên cứu hồ sơ vụ việc: Nghiên cứu hồ sơ vụ việc là một khâu quan trọng của bước chuẩn bị. Mục đích của khâu này nhằm làm rõ và củng cố nội dung chủ yếu về vụ việc. Chẳng hạn như: tên, địa chỉ, trạng thái thần kinh, tư cách người khiếu nại; cơ sở, các căn cứ yêu cầu trong khiếu nại; thẩm quyền giải quyết và tính chất của vụ, việc vì vậy kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ, việc là căn cứ để cấp có thẩm quyền quyết định lựa chọn giải quyết theo trình tự thủ tục nào. Việc nghiên cứu hồ sơ vụ, việc được thực hiện như sau: Nghiên cứu hồ sơ vụ, việc: Sau khi khiếu nại được gửi đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì hồ sơ vụ, việc khiếu nại được xác lập và hồ sơ tại thời điểm này thường là thông tin, tài liệu do bên khiếu nại cung cấp: Đơn hoặc biên bản ghi lời khiếu nại; bằng chứng về quyết định hành chính hoặc hành chính bị khiếu nại; Tài liệu có liên quan. Nghiên cứu vụ, việc qua đương sự: Khi việc nghiên cứu qua hồ sơ chưa làm rõ được các yêu cầu thì có thể kết hợp qua tiếp xúc với đương sự, yêu cầu họ trình bày, cung cấp thêm tài liệu chứng cứ. Thông qua đó các bên có cơ hội hiểu kỹ hơn về các vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích, nghĩa vụ của mình trong vụ, việc. Người khiếu nại có thể nhận thức lại và thay đổi quyết định của mình về khiếu nại như điều chỉnh nội dung khiếu nại, rút đơn khiếu nại và họ có thể nhận ra sai phạm để khắc phục, sửa chữa. 6 Nghiên cứu tại địa bàn: Đôi khi việc nghiên cứu khảo sát ban đầu phải xuống địa bàn nơi có vụ, việc bị khiếu nại. Trên thực tế, nhiều vụ khiếu nại nhờ có khảo sát tại địa bàn mà cán bộ nghiệp vụ đã sớm có cách được cách xử lý giải quyết kịp thời khiếu nại, chấm dứt sớm hoặc có cách giải quyết thích hợp sau này. Đặc biệt với vụ, việc được nhận định phức tạp việc nghiên cứu sơ bộ tại địa bàn thường là công việc bắt buộc trước khi thụ lý. Qua tiếp xúc nghiên cứu sơ bộ ban đầu nội dung khiếu nại, tính chất vụ, việc sơ bộ được xác định rõ. Do đó, khiếu nại có thể chấm dứt do người khiếu nại tự nguyện rút đơn (việc rút đơn phải làm thành văn bản). Đối với vụ, việc đơn giản, tài liệu, chứng cứ đầy đủ thì khiếu nại có thể được giải quyết ngay, khiếu nại chấm dứt. Sau khi hoàn tất việc nghiên cứu sơ bộ, cán bộ nghiệp vụ báo cáo khảo sát vụ, việc gửi lên cấp có thẩm quyền để làm căn cứ xử lý giải quyết vụ, việc. * Thụ lý giải quyết vụ, việc: Đây là khâu tiếp theo sau khi đã hoàn tất nghiên cứu hồ sơ vụ, việc. Căn cứ hồ sơ và báo cáo khảo sát của cán bộ nghiệp vụ, nếu khiếu nại thoả mãn các điều kiện quy định tại Điều 1 của Nghị định số 53/2005/NĐ-CP thì trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận đơn khiếu nại, cấp thẩm quyền quyết định thụ lý giải quyết vụ, việc và gửi thông báo cho người khiếu nại biết. Nếu khiếu nại không đủ điều kiện thụ lý thì trả lời bằng văn bản cho người khiếu nại và nêu rõ lý do. Quyết định thụ lý giải quyết khiếu nại của cấp thẩm quyền là căn cứ pháp lý để tiến hành giải quyết theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Thực tế hiện nay nhiều cơ quan, đơn vị còn xem nhẹ thủ tục này, chưa xác định việc quyết định thụ lý vụ, việc là một khâu bắt buộc trong giải quyết khiếu nại, là cơ sở trong giải quyết khiếu nại. Sau khi có quyết định thụ lý giải quyết, hồ sơ vụ, việc có thể được chuyển tiếp bàn giao cho cán bộ nghiệp vụ để thẩm tra, xác minh vụ, việc. Do 7 vậy việc bàn giao hồ sơ phải chặt chẽ, đầy đủ đảm bảo tính liên tục của thông tin, tài liệu được xử lý. * Xây dựng kế hoạch giải quyết vụ, việc: Kế hoạch giải quyết vụ, việc cần nêu ra công việc phải làm, tiến độ thời gian của từng việc cụ thể, dự kiến được các tình huống phát sinh khi thực hiện và các điều kiện bảo đảm cần thiết khi tiến hành giải quyết vụ, việc khiếu nại. Kế hoạch giải quyết chi tiết, đầy đủ ở mức nào hoàn toàn phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm cụ thể của từng vụ, việc. Trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ, xác định tính chất, đặc điểm, mức độ phức tạp của vụ, việc (đối tượng liên quan, phạm vi liên quan, mức độ thiệt hại do vi phạm pháp luật gây ra, đã qua cấp nào giải quyết) để xây dựng kế hoạch giải quyết, trong đó phải nêu được: Những nội dung cần phải nghiên cứu bổ sung; Những vấn đề cần phải thẩm tra, xác minh; Yêu cầu cơ quan nào giải trình và giải trình vấn đề gì; Gặp gỡ (cơ quan cá nhân, người liên quan) để thu thập thông tin; thẩm tra, xác định chứng cứ; Các điều kiện tài chính, nhân lực, giải quyết; Khả năng vấn đề phát sinh trong quá trình giải quyết; Dự kiến phương pháp, cách thức tiến hành; Sử dụng các biện pháp nghiệp vụ nào là chính theo thời gian, nội dung cụ thể; Tiến độ thời gian Kế hoạch giải quyết vụ, việc được báo cáo người quyết định thụ lý vụ, việc. Đó là căn cứ cho thực hiện công việc giải quyết. * Tập hợp và nghiên cứu tài liệu liên quan: Từ kế hoạch được nêu ra, để có căn cứ pháp lý và tài liệu giúp cho việc giải quyết vụ, việc nhanh chóng, người thụ lý phải sưu tầm, tập hợp các tài liệu có liên quan như: Văn bản, tài liệu do đơn thư khiếu nại đề cập làm căn cứ để khôi phục, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; Văn bản tài liệu liên quan đến quyết định, hành vi bị khiếu nại (Đây cũng là tài liệu phục vụ cho việc xem xét bảo đảm tính đúng đắn, hợp pháp của quyết định hành chính hoặc hành vi bị khiếu nại); Văn bản tài liệu nghiệp vụ hướng dẫn chỉ đạo giải quyết khiếu nại hành chính của công dân và các lĩnh vực liên quan; 8 Văn bản tài liệu tham khảo; đặc điểm lãnh thổ, dân cư, tài liệu phục vụ giải quyết tương tự Tuỳ theo tính chất tài liệu tham khảo, văn bản được sử dụng mà đòi hỏi các điều kiện pháp lý cho văn bản đó. Trên cơ sở kế hoạch giải quyết đã được thông qua và tài liệu về vụ, việc cần thiết phải nghiên cứu, tập huấn ng ... liên quan đến công tác giải quyết đơn thư còn thiếu năng lực hạn chế nên đã ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết đơn thư của công dân trên địa bàn Thành phố. I. Tình hình khiếu nại, tố cáo trên địa bàn . * Đối với lĩnh vực hành chính: Qua tổng hợp tình hình đơn thư trên địa bàn Thành phố hàng năm cho thấy lượng đơn thư phát sinh tương đối nhiều, số đơn thuộc thẩm quyền giải quyết, đơn không thuộc thẩm quyền hoặc trùng lặp tăng theo từng năm. Đặc biệt, năm 2002 khi thị xã Lạng Sơn được công nhận là đô thị loại III và có Quyết định của Chính phủ thành lập Thành phố trực thuộc Tỉnh, nhiều dự án đồng loạt được triển khai, công tác bồi thường thiệt hại GPMB được thực hiện đồng bộ trong khi nhân dân đến lượng đơn phát sinh là tương đối lớn 19 (896 lượt đơn). Từ năm 1999 đến 2004 thành phố Lạng Sơn nhận được 3.903 lượt đơn, trong đó có 905 đơn khiếu nại, 117 đơn tố cáo và 2.881 đơn kiến nghị, đề nghị. Việc công dân gửi đơn khiếu nại, tố cáo nhiều cơ quan còn khá phổ biến (một vụ việc công dân phô tô đơn gửi đến hàng chục cơ quan). Các năm trước, trên địa bàn Thành phố cũng có một số vụ khiếu nại tập thể, vụ việc phức tạp nhưng đã được xử lý giải quyết dứt điểm. Những vấn đề phức tạp, nổi cộm hiện nay dẫn đến phát sinh nhiều đơn thư chủ yếu liên quan đến tranh chấp đất đai, bồi dưỡng GPMB, ô nhiễm vệ sinh môi trường(trên 80% đơn thư phát sinh liên quan đến đất đai). *Đối với lĩnh vực tư pháp: Số lượng đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp phát sinh không nhiều, không có khiếu kiện đông người hoặc vụ việc mang tính bức xúc. Các khiếu nại , tố cáo tập trung chủ yếu ở các cơ quan như: Công an, Đội thi hành án dân sự Thành phố do liên quan đến công việc giải quyết cụ thể . Kết quả từ năm 1999 đến năm 2004 các cơ quan tư pháp đã tiếp nhận 67 đơn khiếu nại và 12 đơn tố cáo .Nội dung khiếu nại , tố cáo chủ yếu là khiếu nại việc chậm giải quyết, giải quyết không khách quan, kết luận vụ việc không chính xác, áp dụng biện pháp cưỡng chế, kê biênĐa phần các khiếu nại , tố cáo chưa hiểu rõ về luật, do vậy sau khi có trả lời, công dân không còn khiếu nại nữa. *Nguyên nhân phát sinh khiếu nại , tố cáo : Nguyên nhân phát sinh đơn khiếu nại: Do cơ chế chính sách , pháp luật về đất đai, bồi thường giải phóng mặt bằng, quyết định về khiếu nại , tố cáo có những điểm chưa thật hợp lý.Mặc khác, do nhận thức của công dân về pháp luật chưa đầy đủ, chế tài xử lý đối với những hành vi khiếu nại, tố cáo sai sự thật chưa được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật .Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật chưa được thường xuyên. Công tác quản lý nhà nước về đất đai, đô thị 20 chưa chặt chẽ. Các dự án đầu tư trên địa bàn còn giàn trải, cơ chế chính sách về hỗ trợ và tái định cư của một số dự án còn chưa kịp thời và đồng bộ nên dân thắc mắc từ đó phát sinh đơn khiếu nại . Cấp uỷ, chính quyền ở một số xã, phường chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc giải quyết khiếu kiện của công dân .Quá trình giải quyết khiếu kiện còn chậm, một số nơi chưa làm tốt công tác hoà giải, hướng dẫn giải thích công dân thực hiện theo đúng quy định của pháp luật . Nguyên nhân phát sinh tố cáo : Do công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận nhân dân chưa cao.Một số cán bộ chưa thực hiện đúng trách nhiệm được giao. II. Kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo: *Công tác tiếp dân: Đối với các cơ quan hành chính: UBND thành phố Lạng sơn, Thủ trưởng các phòng ban, Chủ tịch UBND các phường,xã đã thực hiện tốt công tác tiếp công dân theo quy định của Luật khiếu nại , tố cáo và Quy chế tiếp công dân ban hành theo Nghị định 89/CP. Tại các kỳ tiếp công dân của lãnh đạo UBND Thành phố đều có sự tham gia cảu Thường trực HĐND Thành phố, đại diện UBMTTQ và Hội nông dân Thành phố. Những nội dung công dân đến phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo đều được ghi chép đầy đủ vào sổ tiếp công dân. Những trường không thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND đều hướng dẫn công dân gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo. Sau mỗi kỳ tiếp công dân đều ra thông báo kết quả tiếp công dân và ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch UBND thành phố về việc giải quyết nội dung thuộc thẩm quyền. Do làm tốt công tác này, nên các kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo của công dân đã được xem xét giải quyết kịp thời, nhiều trường hợp qua nghe 21 phân tích, giải thích có tình có lý, công dân đã hiểu rõ hơn về chính sách pháp luật và chấm dứt khiếu kiện. 22 Biểu tổng hợp số liệu tiếp công dân của cơ quan hành chính: 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng số Số lượt công dân được tiếp 281 292 445 622 657 617 2.914 Trong đó: UBND Thành phố tiếp: 127 154 283 258 341 1.163 Các phòng ban, phường xã tiếp 165 291 339 399 276 1.470 Đối với các cơ quan tư pháp. Các cơ quan tư pháp đã thực hiện nghiêm túc việc tiếp công dân theo các quy định của pháp luật. Mặc dù một số cơ quan do trụ sở chật hẹp chưa bố trí được nơi tiếp công dân riêng biệt, nhưng đã bố trí cán bộ có đủ năng lực để thực hiện nhiệm vụ này. Mọi kiến nghị, phản ánh của công dân cũng đã được ghi chép đầy đủ, những vụ việc không thuộc thẩm quyền đã hướng dẫn theo đúng quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo. Biểu tổng hợp số liệu tiếp công dân của cơ quan hành chính: Năm CA Thành phố VKSND Thành phố TAND Thành phố Tổng 1999 06 35 0 41 2000 07 26 0 33 2001 06 24 0 30 2002 07 28 0 35 2003 15 17 0 32 2004 09 28 01 38 * Kết quả giải quyết đơn: Kết quả giải quyết đơn của cơ quan tư pháp: Năm Lượng đón tiếp nhận trong năm Đơn thuộc thẩm quyền Đơn khiếu nại Đơn tố cáo Đơnđề nghị Tổng Đơn khiếu nại Đơn tố cáo Đơnđề nghị Tổng 1998 488 297 1999 55 4 327 386 12 0 180 192 2000 66 9 491 566 26 5 253 284 2001 186 34 501 721 64 8 295 367 2002 252 40 604 896 94 18 314 426 2003 217 26 518 761 91 8 294 393 23 2004 129 4 440 573 73 4 280 357 Năm Đơn khiếu nại Đơn tố cáo Đề nghị Giải quyết được Tỷ lệ (%) Tăng giảm (%) KN đúng Có đúng có sai KN sai Giải quyết được Tỷ lệ (%) Tăng giảm (%) TC đúng Có đúng có sai TC sai Giải quyết được TC sai 1999 10/12 83,0 2000 22/26 84,6 +1,6 1 1 20 3/5 60,0 2 1 192/253 76,0 2001 59/64 92,2 +7,6 1 1 57 7/8 87,5 +27,5 6 1 266/29 5 76,6 2002 67/94 71,3 -20,9 12 14 41 17/18 94,4 +6,9 11 1 5 254/31 4 81,0 2003 73/91 80,0 +8,7 17 3 53 8/8 100 +5,6 4 4 250/29 4 85,0 2004 64/73 88,0 +8,0 6 2 56 3/4 75,0 -25 3 254/28 0 91,0 Kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp: Năm Lượng đơn p/sinh Công an Đội THADS Toà án Viện kiểm sát KN TC Cộng KN TC Cộn g KN TC Cộn g KN TC Cộn g KN TC Cộn g 1999 7 3 10 6 3 9 1 1 2000 7 2 9 7 2 9 0 2001 9 3 12 6 3 9 3 3 2002 14 1 15 7 1 8 7 7 2003 22 2 24 16 1 17 3 3 1 1 3 3 2004 19 1 20 9 1 10 8 8 1 1 1 1 Tất cả các đơn khiếu nại tố cáo sau khi các cơ quan tư pháp nhận được đã được kịp thời giải quyết ngay trong thời hạn luật định (đạt 100%). Không có đơn để tồn đọng sang năm sau. III.Nhận xét chung: Về ưu điểm: Mặc dù lượng đơn thư phát sinh trên địa bàn thành phố Lạng sơn hàng năm tương đối lớn nhưng kết quả giải quyết đơn có nhiều tiến bộ. Công tác hoà giải , đối thoại trực tiếp với công nhân trong quá trình giải quyết khiếu nại luôn được chú trọng phát huy và đạt hiệu quả cao. Một số vụ, việc qua đối thoại trực tiếp, giải thích hướng dẫn về chính sách pháp luật công dân đã tự nguyện rút đơn. Về cơ bản mọi khiếu nại, tố cáo của công dân đều được xem xét, giải quyết theo đúng trình tự quy định của pháp luật, kết quả giải quyết 24 đơn có tình, có lý, đúng pháp luật. Không có “điểm nóng”do khiếu kiện xảy ra trên địa bàn Thành phố đã góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự kỷ cương xã hội trên địa bàn. Những hạn chế, tồn tại: Việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm trong lĩnh vực giải quyết đề nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân chưa được thường xuyên và kịp thời. Cán bộ thực hiện công tác tiếp công dân, giải quyết đơn còn thiếu kinh nghiệm trong tiếp nhận, xử lý và giải quyết .Một số vụ khiếu nại, tố cáo chưa đảm bảo thời gian giải quyết theo luật định. Nguyên nhân của những hạn chế tồn tại: Công tác phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật chưa được thường xuyên, chưa đến được tất cả mọi người, hiệu quả chưa cao nên hiểu biết pháp luật và thực hiện pháp luật trong một bộ phận nhân dân còn hạn chế. Một số cơ quan chưa chủ động, tích cực trong đôn đốc và giải quyết đơn. Bài học kinh nghiệm: Qua thực tiễn giải quyết đơn đề nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân trên địa bàn Thành phố Lạng sơn trong những năm qua,có thể rút ra được một số bài học kinh nghiệm sau: Phải làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, đồng thời phải thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về đất đai, đô thị, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật. Quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo phải lắng nghe ý kiến của công dân, tăng cường đối thoại trực tiếp với công dân trong quá trình giải quyết khiếu kiện. Trong đối thoại phải quan tâm đến quyền lợi chính đáng của công dân , giải thích chế độ chính sách, hướng dẫn quyền và nghĩa vụ khi thực hiện khiếu nại. Coi trọng công tác phối kết hợp trong giải quyết đơn, phát huy vai trò của tổ hoà giải cơ sở, Ban thanh tra nhân dân .MTTQ cùng với các đoàn thể 25 quần chúng cần tham gia tích cực vào công tác hoà giải. Để hoà giải có hiệu quả cao, người chủ trì hoà giải phải là người có uy tín, am hiểu pháp luật , đi đôi với việc xác minh vụ việc cụ thể để có căn cứ hoà giải. 26 III.Kiến nghị các giải pháp: Cần tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật , hướng dẫn nhân dân thực hiện tốt Luật khiếu nại, tố cáo, không để xảy ra tình trạng khiếu kiện tập thể, đông người, khắc phục tình trạng khiếu kiện vượt cấp. Tăng cường việc giám sát các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân .Bố trí cán bộ có đủ phẩm chất, trình độ năng lực tham gia giải quyết thư khiếu nại , tố cáo . Quan tâm đến công tác tiếp công dân , giải quyết kịp thời các khiếu nại , tố cáo của công dân, không để tồn đọng kéo dài, các vụ việc phức tạp phải được phân tích đánh giá làm rõ nguyên nhân, chỉ đạo chặt chẽ và phân công giải quyết trong thời gian sớm nhất. Những người lợi dụng quyền dân chủ, quyền khiếu nại , tố cáo của công dân để kích động, xúi giục, tổ chức đông người đi khiếu kiện, có hành vi gây rối trật tự an ninh phải được xử lý nghiêm minh theo đúng pháp luật .Điều đó động nghĩa với việc cần có chế tài cụ thể xử lý với từng hành vi vi phạm Luật khiếu nại, tố cáo ,mức xử lý đối với từng hành vi. Cần có chính sách cụ thể , chế độ đãi ngộ phù hợp đối với các cán bộ làm công tác giải quyết đơn thư.
File đính kèm:
- tieu_luan_mot_so_van_de_co_ban_ve_khieu_nai_to_cao_va_tinh_h.pdf