Tiểu luận Chủ nghĩa Mác – Lênin về giá trị thặng dư

Học thuyết của Mác, trên cơ sở xây dựng hệ thống lý luận và hình thành phương

pháp tư duy khoa học về các quá trình kinh tế, đã trình bày một cách sáng tỏ bản

chất và nội dung của hình thái giá trị trong sản xuất và lưu thông hàng hóa.

Nổi bật trong hệ thống quan điểm của Mác là các học thuyết về giá trị thặng dư

và các hình thái biểu hiện có liên quan. Trong đó, lợi nhuận của tư bản thương

nghiệp – hay lợi nhận thu được từ quá trình lưu thông hàng hóa là một bộ phận

không thể tách rời, và có vai trò quan trọng trong việc hình thành mối quan hệ phân

chia giá trị thặng dư giữa các tập đoàn tư bản.

Do đó, việc nghiên cứu và tìm hiểu về lợi nhuận của tư bản thương nghiệp có ý

nghĩa quan trọng trong việc củng cố, hoàn thiện những lý luận có liên quan về quy

luật giá trị thặng dư, đặc biệt là trong khâu lưu thông hàng hóa.

1.2. Mục đích thực hiện đề tài

Góp phần trang bị kiến thức về những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –

Lênin nói chung và hiểu biết về phạm trù lợi nhuận thương nghiệp nói riêng trong

nội dung môn học.

Chứng minh mối liên hệ giữa thương nghiệp cũng như tư bản thương nghiệp với

giá trị và giá trị thặng dư.

Hình thành phương pháp luận trong việc xác định, phân tích cũng như vận dụng

lý luận thực tiễn vào hoạt động chuyên ngành Quản trị kinh doanh tổng hợp.

1.3. Phương pháp nghiên cứu đề tài

Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, mà

trực tiếp là học thuyết về giá trị - lao động và học thuyết giá trị thặng dư của Các

Mác.

Sử dụng phương pháp lập luận dựa trên nền tảng của phép duy vật biện chứng và

phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp việc thống kê, phân tích, tổng hợp

bản chất, nguồn gốc lợi nhuận của thương nghiệp với các hình thức có liên quan

trong quy luật giá trị thặng dư để làm rõ vấn đề

pdf 15 trang chauphong 20/08/2022 10840
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Chủ nghĩa Mác – Lênin về giá trị thặng dư", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Chủ nghĩa Mác – Lênin về giá trị thặng dư

Tiểu luận Chủ nghĩa Mác – Lênin về giá trị thặng dư
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG.. 
Tiểu luận 
Chủ nghĩa Mác – Lênin về giá trị thặng dư 
 Học thuyết của Mác, trên cơ sở xây dựng hệ thống lý luận và hình thành phương 
pháp tư duy khoa học về các quá trình kinh tế, đã trình bày một cách sáng tỏ bản 
chất và nội dung của hình thái giá trị trong sản xuất và lưu thông hàng hóa. 
 Nổi bật trong hệ thống quan điểm của Mác là các học thuyết về giá trị thặng dư 
và các hình thái biểu hiện có liên quan. Trong đó, lợi nhuận của tư bản thương 
nghiệp – hay lợi nhận thu được từ quá trình lưu thông hàng hóa là một bộ phận 
không thể tách rời, và có vai trò quan trọng trong việc hình thành mối quan hệ phân 
chia giá trị thặng dư giữa các tập đoàn tư bản. 
 Do đó, việc nghiên cứu và tìm hiểu về lợi nhuận của tư bản thương nghiệp có ý 
nghĩa quan trọng trong việc củng cố, hoàn thiện những lý luận có liên quan về quy 
luật giá trị thặng dư, đặc biệt là trong khâu lưu thông hàng hóa. 
1.2. Mục đích thực hiện đề tài 
 Góp phần trang bị kiến thức về những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – 
Lênin nói chung và hiểu biết về phạm trù lợi nhuận thương nghiệp nói riêng trong 
nội dung môn học. 
 Chứng minh mối liên hệ giữa thương nghiệp cũng như tư bản thương nghiệp với 
giá trị và giá trị thặng dư. 
 Hình thành phương pháp luận trong việc xác định, phân tích cũng như vận dụng 
lý luận thực tiễn vào hoạt động chuyên ngành Quản trị kinh doanh tổng hợp. 
1.3. Phương pháp nghiên cứu đề tài 
 Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, mà 
trực tiếp là học thuyết về giá trị - lao động và học thuyết giá trị thặng dư của Các 
Mác. 
 Sử dụng phương pháp lập luận dựa trên nền tảng của phép duy vật biện chứng và 
phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp việc thống kê, phân tích, tổng hợp 
bản chất, nguồn gốc lợi nhuận của thương nghiệp với các hình thức có liên quan 
trong quy luật giá trị thặng dư để làm rõ vấn đề. 
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG 
2.1. Nguồn gốc lợi nhuận của tư bản thương nghiệp. 
2.1.1. Định nghĩa về tư bản thương nghiệp. 
 Trong chủ nghĩa tư bản, tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công 
nghiệp tách ra chuyên đảm nhận khâu lưu thông hàng hóa. 
 Từ định nghĩa, xuất hiện một nhận định ban đầu rằng tư bản thương nghiệp thực 
chất là một hình thức bắc cầu nhằm tạo điều kiện giúp cho tư bản công nghiệp thực 
hiện quá trình chuyển giao và tạo ra giá trị hàng hóa. 
Hình 2.1. Sơ đồ quá trình chuyển giao và tạo ra giá trị hàng hóa 
 Hàng hóa và sản phẩm nói chung sau khi được tư bản công nghiệp sản xuất, sẽ 
thông qua tư bản thương nghiệp để đến với thị trường tiêu dùng và phân phối sâu 
rộng tới mạng lưới người tiêu dùng, là những người có nhu cầu và sẽ sử dụng tiền để 
đổi lấy hàng hóa nhằm thỏa mãn cho một nhu cầu sử dụng riêng nào đó. 
 Ví dụ: Trong ngành công nghiệp sản xuất xe ô tô, sau khi chiếc xe được hoàn tất 
sẽ thông qua các kênh phân phối, các đại diện kinh doanh, đại lý để bán tới tay 
người mua, là những người có nhu cầu sử dụng phương tiện vận chuyển nói chung.
2.1.2. Đặc điểm của tư bản thương nghiệp 
 Tư bản thương nghiệp ra đời bắt nguồn từ sự phát triển của trình độ tổ chức và 
phân công lao động xã hội. Ở một giai đoạn phát triển cao hơn trong chủ nghĩa tư 
bản, có một yêu cầu nảy sinh cần phải giải quyết đó là tính chuyên môn hóa về chức 
năng hoạt động để gia tăng hiệu quả, tiết kiệm nguồn lực và đẩy mạnh tốc độ phát 
triển của tư bản. Tư bản công nghiệp cần được hoạt động đúng với chức năng của 
mình đó là sản xuất hàng hóa và tư bản công nghiệp sẽ làm tốt công việc này khi có 
sự tập trung cao độ nguồn lực và các tư duy chiến lược dành riêng cho sản phẩm. 
Bởi lẽ đó, tư bản thương nghiệp ra đời để giải quyết vấn đề còn lại sau khi sản phẩm 
ra đời đó là cung ứng và phân phối cho thị trường. Với sự chuyên môn hóa này, cả 
TƯ BẢN CÔNG 
NGHIỆP 
TƯ BẢN THƯƠNG 
NGHIỆP 
GIÁ TRỊ HÀNG 
HÓA 
tư bản công nghiệp và tư bản thương nghiệp đều có thể tập trung điều kiện sẵn có 
cho chức năng hoạt động của riêng mình trong sự phối hợp giữa mỗi bên để từ đó 
tạo ra sự liên kết mang tính bắc cầu mang lại lợi ích từ giá trị hàng hóa cho cả hai 
phía. 
 Từ mối liên hệ có tính chất bắc cầu giữa tư bản thương nghiệp và tư bản công 
nghiệp nêu trên, có thể nhận ra rằng tư bản thương nghiệp có đặc điểm vừa phụ 
thuộc vào tư bản công nghiệp, nhưng cũng đồng thời độc lập một cách tương đối. 
 Tư bản thương nghiệp phụ thuộc vào tư bản công nghiệp vì hình thức hoạt động 
của tư bản thương nghiệp có thể hiểu một cách đơn giản là loại hình kinh doanh mua 
đi – bán lại. Bởi vậy, tư bản công nghiệp có vai trò giống như một nguồn cung cấp 
yếu tố chính và quan trọng cần thiết cho sự vận động của tư bản thương nghiệp, đó 
là hàng hóa. Không có hàng hóa, tư bản thương nghiệp không có lý do và mục đích 
để hoạt động, dẫn đến không thể tồn tại hình thái tư bản thương nghiệp. Đây là sự 
phụ thuộc có tính chất khách quan và không mang ý nghĩa áp đặt hoàn toàn và lệ 
thuộc tuyệt đối, vì tư bản thương nghiệp với chức năng hoạt động vốn có trên cơ sở 
mua đi bán lại thực chất lại chính là cánh tay đắc lực cho tư bản công nghiệp thực 
hiện giá trị hàng hóa. 
 Tuy nhiên, tư bản thương nghiệp cũng đồng thời độc lập một cách tương đối với 
tư bản công nghiệp xuất phát từ tính chất và loại hình chuyển hóa giá trị hàng hóa 
trong sự so sánh với tư bản công nghiệp. Đặc điểm đơn giản và dễ nhận thấy nhất đó 
là chức năng hoạt động của tư bản công nghiệp là sản xuất ra hàng hóa, sản phẩm. 
Quá trình này gắn liền với sự tư hữu về tư liệu sản xuất và nhân công lao động và 
kết tinh các giá trị ban đầu vào trong sản phẩm dưới dạng hình thức giá trị sơ khai 
gắn với thành phẩm tổng hợp từ các yếu tố: vốn đầu tư ban đầu, sức lao động và tư 
liệu sản xuất. Trong khi đó, tư bản thương nghiệp thực hiện việc chuyển giao hàng 
hóa từ tư bản công nghiệp vào lưu thông trên thị trường. Việc làm này đòi hỏi tư bản 
thương nghiệp cũng cần có một số lượng tư hữu nhất định về tư bản, sức lao động 
cũng như tư liệu sản xuất, nhưng để phục vụ cho việc phân phối, chuyển hóa giá trị 
sử dụng tới tay người mua để đổi lấy giá trị. Việc làm này không trực tiếp sản xuất 
ra sản phẩm mang giá trị. Sự khác nhau này xuất phát từ loại hình hoạt động của 
mỗi bên, chỉ mang tính tương đối và bắt nguồn từ chủ quan hình thái vận động riêng 
của tư bản công nghiệp và tư bản thương nghiệp. 
2.1.3. Quá trình chuyển hóa giá trị của tư bản thương nghiệp 
 Như đã trình bày, tư bản thương nghiệp hoạt động để chuyển hóa giá trị sử dụng 
tới tay người tiêu dùng có nhu cầu để đổi lấy giá trị hàng hóa qua hình thức là giao 
dịch tiền tệ: mua và bán. 
 Công thức chuyển hóa giá trị của tư bản thương nghiệp: 
 T – H – T’ 
 Trong công thức nêu trên, ban đầu là sự chuyển hóa của tiền thành hàng hóa. 
Tiếp sau đó, hàng hóa tiếp tục tham gia vào quá trình chuyển hóa một lần nữa và lần 
này giá trị thu về là T’. Trong sự vận động này, tiền đã trở thành tư bản bởi chính 
mục đích vận động của chúng. 
 Trong giai đoạn thứ nhất, khi tiền (T) chuyển thành hàng hóa (H). Đây là giai 
đoạn mà tư bản thương nghiệp thay mặt người tiêu dùng ứng tiền tệ ra để mua lại 
hàng hóa từ tư bản công nghiệp. 
 Trong giai đoạn thứ hai, từ hàng hóa (H) chuyển thành tiền (T’). Đây là giai đoạn 
phản ánh bản chất quá trình vận động của tư bản trong lưu thông, là khi tư bản 
thương nghiệp tiến hành giao dịch và bán lại hàng hóa tới tay người tiêu dùng để 
mang về giá trị. 
 Trong công thức lưu thông hàng hóa của tư bản thương nghiệp nêu trên, mục 
đích của lưu thông không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị. Điều này có nghĩa là 
tư bản thương nghiệp thực hiện quá trình lưu thông hàng hóa trên thị trường với mục 
đích chuyển hóa giá trị sử dụng tới tay người mua để thu về giá trị. Quá trình này sẽ 
trở nên vô nghĩa khi giá trị ban đầu tư bản thương nghiệp ứng ra mua hàng hóa (T) 
lại cũng chính bằng giá trị thu về (T). Do vậy, giá trị thực tế mà tư bản thương 
nghiệp thu về phải là T’ với T’ = T + t, trong đó t là số tiền trội hơn so với số tiền 
ứng ra ban đầu để mua sản phẩm từ tư bản công nghiệp. Nói một cách khác, t chính 
là hình thức biểu hiện cho lợi nhuận của tư bản thương nghiệp thu về thông qua quá 
trình tạo ra giá trị từ phân phối, lưu thông hàng hóa trên thị trường. 
2.1.4. Tiểu kết 
2.1.4.1. Dịch vụ thương nghiệp là một loại hàng hóa, có giá trị và giá trị sử dụng 
 Khi mở rộng khái niệm cũng như quan điểm nhìn nhận về hàng hóa tồn tại trong 
xã hội, chúng ta có thể xác định dịch vụ phân phối, lưu thông hàng hóa mà bộ phận 
thương nghiệp cung cấp trong xã hội cũng là một loại hình hàng hóa. 
 Khác với những hàng hóa là sản phẩm hữu hình ra đời từ quá trình sản xuất, 
hàng hóa mà dịch vụ thương nghiệp cung cấp cho xã hội ở đây là tất cả những khâu 
được xử lý bên trong quá trình hình thành chức năng mua và bán sản phẩm như: bảo 
quản, đóng gói, chuyên chở Loại hàng hóa này có tính chất tồn tại vô hình và 
được tổng hợp thông qua quá trình định tính và định lượng để từ đó xác định mức độ 
hiệu quả và khả năng thực hiện chức năng của bộ phận thương nghiệp. 
 Khi xem xét dịch vụ thương nghiệp dưới vai trò là một loại hàng hóa, chúng ta 
đồng thời liên hệ loại hàng hóa này với học thuyết giá trị của Mác và rút ra được 
những nhận định cơ bản như sau: 
 - Giá trị sử dụng của hàng hóa dịch vụ thương nghiệp được nói đến ở đây chính 
là hiệu quả mà bộ phận thương nghiệp mang lại trong việc chuyển hóa hàng hóa, sản 
phẩm của tư bản công nghiệp thành giá trị tư bản. Dịch vụ thương nghiệp càng 
nhanh chóng thực hiện các khâu phân phối, lưu thông sản phẩm một cách hiệu quả, 
nhanh chóng thu về giá trị hàng hóa, thì giá trị sử dụng của loại hình hàng hóa dịch 
vụ ấy lại càng cao. 
 - Giá trị của hàng hóa dịch vụ thương nghiệp liên quan tới các vấn đề về hao phí 
lao động kết tinh trong quá trình ngành thương nghiệp tạo ra loại hàng hóa dịch vụ 
này. Đó là kết tinh từ hao phí lao động của các thương nhân và kết tinh từ hao phí 
lao động của bộ phận công nhân phụ trách việc bán hàng trong các lĩnh vực, ngành 
nghề thương nghiệp. 
 Hai thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa dịch vụ thương nghiệp có 
mối quan hệ chặt chẽ, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau và tuân theo đúng 
học thuyết về giá trị của Mác. 
2.1.4.2. Nguồn gốc lợi nhuận của tư bản thương nghiệp 
 Qua quá trình nhìn nhận và phân tích nêu trên, chúng ta có thể có được những 
đánh giá ban đầu về sự hình thành cũng như nguồn gốc lợi nhuận của tư bản thương 
nghiệp theo các cách tiếp cận như sau: 
 - Lợi nhuận của tư bản thương nghiệp hình thành thông qua quá trình chuyển hóa 
giá trị mà trong đó, tư bản thương nghiệp đóng vai trò cầu nối để thực hiện nhiệm vụ 
phân phối và lưu thông hàng hóa của tư bản công nghiệp tới thị trường và tới người 
tiêu dùng nói chung trong toàn xã hội. Với cách tiếp cận này, lợi nhuận của tư bản 
thương nghiệp đóng vai trò khách quan trong quá trình tạo ra lợi nhuận tư  ... của sản phẩm là T1. 
 Gọi giá trị thặng dư mà tư bản công nghiệp mong muốn thu về là T2. 
 Gọi giá trị thặng dư mà tư bản thương nghiệp được hưởng chênh lệch thông qua 
giá mua hàng hóa là T3. 
 Lúc này, giá trị thực của sản phẩm là : 
T’ = T1 + T2 + T3 
 Phần giá trị bao gồm giá trị thặng dư mong muốn thu về mà tư bản công nghiệp 
nhận được khi bán hàng hóa cho tư bản thương nghiệp là: 
T = T1 + T2 
 Công thức về sự chuyển hóa giá trị trong lưu thông của tư bản thương nghiệp lúc 
này trở thành: 
(T1 + T2) – (T3) – (T1 + T2 + T3) 
 Ở giai đoạn thứ nhất, tư bản thương nghiệp ứng ra một số tiền để mua lại hàng 
hóa từ tư bản công nghiệp, do đó hàng hóa sau khi mua về nếu xét trong tổng thể 
chung về mặt vốn tư bản của tư bản thương nghiệp sẽ chỉ còn tồn tại ở giá trị T3, là 
giá trị chênh lệch mà tư bản thương nghiệp nhận được từ sự ưu đãi của tư bản công 
nghiệp. Phần giá trị (T1 + T2) lúc này không còn tồn tại dưới hình thức tư bản, mà 
đã chuyển hóa vào trong hàng hóa. Có thể hình dung một cách đơn giản rằng phần 
giá trị (T1 + T2) lúc này là phần giá trị chìm và nằm trong hàng hóa, còn giá trị T3 
là phần giá trị nổi, là phần giá trị nhà tư bản thương nghiệp được nhận trước ngay từ 
trong giao dịch mua lại hàng hóa với tư bản công nghiệp. 
 Đến giai đoạn thứ hai, tư bản thương nghiệp phân phối và cung ứng hàng hóa ra 
thị trường đúng với giá trị, lúc này tư bản thương nghiệp thu về số tiền có giá trị 
biểu hiện bằng (T1 + T2 + T3). Giá trị thu về này góp phần bù đắp cho số vốn ban 
đầu tư bản thương nghiệp đã phải bỏ ra để mua hàng hóa (T1 + T2), đồng thời tư 
bản thương nghiệp được nhận thêm một số tiền có giá trị bằng T3. Trong khi đó, 
ngay từ khâu lưu trữ hàng hóa tính từ sau thời điểm mua lại hàng hóa từ tư bản công 
nghiệp, tư bản thương nghiệp đã được nhận trước một phần giá trị nổi là T3. Như 
vậy, lợi nhuận thực sự mà lúc này tư bản thương nghiệp đúng ra đã thu được về mặt 
lý thuyết có giá trị là: 
T’’ = (T1 + T2 + T3) + T3 – (T1 + T2) = 2T3 
 Như vậy, tư bản thương nghiệp rõ ràng đã thu được lợi nhuận thực có giá trị 
bằng gấp hai lần giá trị chênh lệch mà tư bản công nghiệp đã ưu tiên cho tư bản 
thương nghiệp trong giao dịch mua và bán hàng hóa. Như vậy, có thể khẳng định 
rằng tư bản thương nghiệp đã không chỉ đơn thuần tham gia vào quá trình thực hiện 
giá trị thặng dư vốn có sẵn trong hàng hóa, mà thậm chí tư bản thương nghiệp đã tự 
mình trực tiếp tạo ra một lượng giá trị thặng dư riêng ngay từ trong quá trình lưu 
thông hàng hóa. 
2.2.2.2. Sự hình thành lợi nhuận thương nghiệp từ nội bộ ngành 
 Như đã trình bày khi nghiên cứu về nguồn gốc lợi nhuận của tư bản thương 
nghiệp, tư bản thương nghiệp với chức năng vận động và hình thái tổ chức của riêng 
mình có thể được xem như một loại sản phẩm vô hình tương ứng với loại hình dịch 
vụ thương nghiệp. Sản phẩm vô hình này cũng đồng thời có được từ sự chuyển hóa 
của tư liệu sản xuất trong ngành thương nghiệp và quan trọng nhất vẫn là sức lao 
động của các nhân tố tham gia bên trong bao gồm các thương nhân và công nhân 
bán hàng. 
 Giả sử hoạt động thương nghiệp gắn liền với việc tạo ra sản phẩm này chính là 
quá trình sản xuất của tư bản thương nghiệp, chúng ta có thể xem xét việc hình 
thành giá trị thặng dư của tư bản thương nghiệp dưới góc độ của việc sử dụng và 
chiếm đoạt giá trị tăng thêm từ giá trị sức lao động của người lao động trong lĩnh 
vực ngành nghề kinh doanh buôn bán. Trước tiên, xét về góc độ định tính thì sản 
phẩm vô hình của tư bản thương nghiệp xuất hiện là để giải quyết vấn đề lưu thông 
cho hàng hóa được sản xuất bởi tư bản công nghiệp, do đó tư bản thương nghiệp 
không thể tái cấu trúc hàng hóa tư bản công nghiệp lại một lần nữa để định ra giá 
bán mới. Như vậy, họ chỉ có thể tạo ra giá trị tăng thêm từ chính sản phẩm vô hình 
của chính mình, không bằng cách nào khác ngoài việc chiếm đoạt giá trị này từ 
người lao động trong lĩnh vực ngành nghề thương nghiệp. 
 Chúng ta có thể hình dung về phương thức này thông qua một ví dụ thực tế trong 
cuộc sống, khi tư bản thương nghiệp yêu cầu nhân công lao động thực hiện nhiệm 
vụ và phải đạt chỉ tiêu đề ra về doanh thu và giá bán, nhưng sự thật là chỉ cần thực 
hiện gần tới chỉ tiêu đề ra thì tư bản thương nghiệp đã có thể thu về lợi nhuận mong 
muốn. Phần lợi nhuận có được từ việc hoàn thành đúng, hoặc vượt chỉ tiêu mà người 
lao động trong lĩnh vực thương nghiệp thực hiện được ở đây, chính là phần giá trị 
sức lao động tăng thêm mà người lao động đã bỏ ra và kết tinh vào trong sản phẩm 
dịch vụ vô hình của tư bản thương nghiệp. 
 Quá trình hoạt động của tư bản thương nghiệp khi thực hiện chức năng lưu thông 
hàng hóa của bản thân mình, cũng đồng thời xuất hiện những hao phí có liên quan. 
Đây cũng chính là lý do khiến cho tư bản thương nghiệp có thể thực hiện hành vi 
đầu cơ để nâng giá bán, hoặc bán cao hơn giá trị thực của hàng hóa, nhằm thu về 
phần lợi nhuận tăng thêm để từ đó bù đắp cho những chi phí phát sinh trong quá 
trình thực hiện chức năng lưu thông hàng hóa trên thị trường. 
2.2.3. Tiểu kết 
 Bằng những lập luận và phân tích cụ thể như đã trình bày ở trên, chúng ta lại một 
lần nữa công nhận sự phù hợp và đúng đắn của học thuyết Mác khi ứng dụng trong 
việc tìm ra bản chất lợi nhuận của tư bản thương nghiệp, có thể tóm gọn qua những 
ý cơ bản sau đây: 
 - Lợi nhuận của tư bản thương nghiệp là giá trị thặng dư mà tư bản thương 
nghiệp đã trực tiếp tạo ra thông qua việc thực hiện chức năng phân phối, cung cấp 
và lưu thông hàng hóa trên thị trường. Lợi nhuận này ban đầu hình thành từ một 
phần giá trị thặng dư mà tư bản công nghiệp đã “nhượng lại” cho tư bản thương 
nghiệp, để tư bản thương nghiệp đảm nhận việc bán hàng hóa cho tư bản công 
nghiệp. 
 - Dịch vụ thương nghiệp cũng là một loại hàng hóa, là một loại hàng hóa đặc biệt 
được hình thành trong sự vận động nội tại và đặc thù của tư bản thương nghiệp 
tương ứng với quá trình mua đi, bán lại sản phẩm của tư bản công nghiệp. Loại hàng 
hóa này cũng tuân theo đúng học thuyết về giá trị của Mác, cũng có giá trị và giá trị 
sử dụng. 
 - Lao động của thương nhân và công nhân bán hàng trong tư bản thương nghiệp 
là để tạo ra hàng hóa dịch vụ thương nghiệp, và lao động này cũng đồng thời tạo ra 
giá trị và giá trị thặng dư, phần giá trị thặng dư được tạo ra chính là giá trị có được 
từ lao động trừu tượng của người công nhân trong lĩnh vực thương nghiệp, theo 
đúng học thuyết của Mác về giá trị thặng dư. 
2.3. TỔNG KẾT 
2.3.1. Ý nghĩa phương pháp luận 
 Việc tìm hiểu và nghiên cứu một cách nghiêm túc về lợi nhuận của tư bản 
thương nghiệp góp phần trang bị cho người học có được cách nhìn nhận đúng đắn về 
nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận thương nghiệp, trên cơ sở thế giới quan từ học 
thuyết của Mác về giá trị và giá trị thặng dư. Sự trang bị những lập luận và phương 
pháp tư duy khoa học có liên quan tới vấn đề này giúp cho người học nói chung, 
cũng như sinh viên nói riêng có được hệ thống lập trường tư tưởng vững vàng, thêm 
tin tưởng chắc chắn vào con đường cũng như chủ trương chính sách trong xây dựng, 
phát triển đất nước cả về kinh tế, chính trị, xã hội của Đảng và Nhà nước. 
2.3.2. Ý nghĩa trong việc áp dụng vào lĩnh vực chuyên ngành 
 Quá trình tìm hiểu và xây dựng các luận điểm để hình thành phương pháp tư 
duy, đánh giá về nguồn gốc cũng như bản chất của lợi nhuận thương nghiệp giúp 
cho sinh viên chuyên ngành kinh tế có được sự tiếp xúc về mặt lý luận cần thiết, 
nâng cao trình độ hiểu biết và khái quát hóa về những vấn đề có liên quan tới thương 
nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp. Đây chính là cơ sở nền tảng, là điểm khởi đầu 
mang ý nghĩa xây dựng tiên quyết trong việc bồi dưỡng cho sinh viên chuyên ngành 
kinh tế những nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng, cũng như vai trò của các thành 
phần có liên quan khi áp dụng vào trong thực tế đời sống. 
 Cụ thể hơn, với chuyên ngành Quản trị kinh doanh là một chuyên ngành yêu cầu 
ngay từ khâu tiếp xúc và nắm bắt bất kỳ một hiện tượng, một đối tượng nào có liên 
quan tới công tác chuyên môn cũng cần phải có sự hiểu biết và quan điểm đúng đắn 
ngay từ đầu. Từ đó xây dựng phương hướng chiến lược phù hợp nhằm nâng cao 
hiệu quả và tối ưu hóa hoạt động, trong mục tiêu hướng tổ chức tới năng lực thực 
hiện công việc cao nhất, thì những lý luận thực tiễn có được từ quá trình nghiên cứu 
đề tài càng trở nên quan trọng và hữu dụng hơn bao giờ hết. Hiểu được quy luật vận 
động của giá trị và tầm quan trọng của tư bản thương nghiệp trong quá trình tạo ra 
giá trị, chúng ta sẽ biết cách khai thác hình thái này sao cho thật phù hợp và mang 
lại lợi ích nhiều hơn cho xã hội và nhất là cho người lao động. 
2.3.3. Tồn tại thực tế và biện pháp kiến nghị 
 Trong giai đoạn phát triển mới hiện nay trên toàn thế giới, trình độ kỹ thuật và 
những tiến bộ khoa học đã góp phần tạo ra những hệ thống kinh tế có ưu thế vượt 
trội. Các cường quốc tư bản nhờ việc tận dụng sức mạnh tư bản tài chính vốn có, 
cùng với việc áp dụng những thành quả khoa học tiên tiến, đã tạo ra một khoảng 
cách phát triển rất lớn với các quốc gia khác. Trong bối cảnh như vậy, để tìm ra một 
con đường đi hiệu quả cho việc xây dựng và phát triển đất nước đòi hỏi chúng ta 
phải nhìn nhận một cách toàn diện và đánh giá đúng mức tầm quan trọng của một số 
thành phần kinh tế, đặc biệt là bộ phận thuộc lĩnh vực ngành nghề thương nghiệp. 
Bộ phận này có thể nói chính là cánh tay đắc lực trong việc đưa sản phầm và hàng 
hóa Việt Nam đến với thị trường thế giới, góp phần cải thiện cũng như nâng cao 
hình ảnh đất nước trong quá trình hội nhập không chỉ trong khu vực, mà còn trên 
khắp năm châu. 
 Thực tế cho thấy đội ngũ cán bộ và nhân lực hoạt động trong lĩnh vực thương 
nghiệp ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế về điều kiện và khả năng tận dụng, 
phát triển năng lực của bản thân. Do đó, hiệu quả nội lực của thương nghiệp Việt 
Nam đến nay vẫn đa phần tồn tại dưới dạng tiềm năng và trở thành thị trường hấp 
dẫn cho các tổ chức, đại diện tới từ nước ngoài tới khai thác. Yêu cầu từ việc phát 
triển sức mạnh nội lực để xây dựng một cơ cấu kinh tế hiệu quả, khai thác đúng tiềm 
năng đòi hỏi chúng ta phải có cái nhìn rõ ràng và tập trung hơn nữa về khu vực 
thương nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. 
 Để thực hiện được điều này, biện pháp kiến nghị được nêu ra ở đây trước tiên đó 
là cần có sự cải cách sâu rộng và kiên quyết về mặt chủ trương cũng như hành động 
thực tiễn trong nâng cao chất lượng giáo dục hướng tới chiều sâu. Kiến thức được 
học phải là những kiến thức để vận dụng trong thực tế cuộc sống, có giá trị vận dụng 
cả về mặt tư duy lẫn khi triển khai thực hiện. Đặc biệt khi hướng tới việc xây dựng 
một đội ngũ hoạt động thương nghiệp có chuyên môn cao và có trách nhiệm, ý thức 
về đạo đức chuyên ngành và lý luận trên cơ sở lập trường đúng đắn có được từ việc 
học tập và nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin càng phải được chú trọng đúng mức. 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_chu_nghia_mac_lenin_ve_gia_tri_thang_du.pdf