Tiểu luận Chế độ bảo hiểm xã hội của người lao động giải quyết chưa thoả đáng, trách nhiệm thuộc về ai?

Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, là sự bảo đảm thay thế

hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu

nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết

tuổi lao động hoặc chết trên cơ sở đóng và được thụ hưởng. Chính vì đây là một

chính sách mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, đảm bảo an sinh xã hội nên Đảng và

Nhà nước ta đã hết sức quan tâm thực hiện ngay từ những ngày đầu thành lập.

Sau khi hoà bình được lập lại ở miền Bắc, thực hiện Hiến pháp năm 1959, Chính

phủ đã ban hành Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 quy định Điều lệ tạm

thời về các chế độ BHXH. Hơn mấy chục năm qua, các chế độ, chính sách về

Bảo hiểm xã hội đã thực sự là nguồn cổ vũ, động viên đội ngũ cán bộ, công nhân,

viên chức và lực lượng vũ trang yên tâm phấn khởi lao động sản xuất, dũng cảm

chiến đấu góp phần xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng

miền Nam, thống nhất đất nước.Tuy nhiên, cùng với sự phát triển đi lên của đất

nước, bước vào thời kỳ đổi mới kinh tế - xã hội, các chế độ, chính sách, phương

thức quản lý về BHXH theo các quy định trước đó đã trở nên bất cập, bộc lộ

nhiều điểm không còn phù hợp với tiến trình đổi mới theo đường lối và các Nghị

quyết của Đảng. Quỹ BHXH ngày càng mất cân đối nghiêm trọng, số thu quá ít

so với tổng số phải chi, vì vậy chi trả các chế độ BHXH đã trở thành gánh nặng

cho Ngân sách Nhà nước; Đối tượng tham gia BHXH còn bó hẹp trong lực lượng

cán bộ công nhân viên chức Nhà nước và lực lượng vũ trang, chưa được mở rộng

đến người lao động ở các thành phần kinh tế khác, chưa tạo được sự công bằng

xã hội và làm giảm tính ưu việt của Chủ nghĩa xã hội đối với người lao động.

pdf 21 trang chauphong 20/08/2022 21801
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Chế độ bảo hiểm xã hội của người lao động giải quyết chưa thoả đáng, trách nhiệm thuộc về ai?", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Chế độ bảo hiểm xã hội của người lao động giải quyết chưa thoả đáng, trách nhiệm thuộc về ai?

Tiểu luận Chế độ bảo hiểm xã hội của người lao động giải quyết chưa thoả đáng, trách nhiệm thuộc về ai?
 1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG  
TIỂU LUẬN 
Chế độ BHXH của người lao động giải quyết 
chưa thoả đáng, trách nhiệm thuộc về ai? 
Lời mở đầu 
 2
Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, là sự bảo đảm thay thế 
hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu 
nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết 
tuổi lao động hoặc chết trên cơ sở đóng và được thụ hưởng. Chính vì đây là một 
chính sách mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, đảm bảo an sinh xã hội nên Đảng và 
Nhà nước ta đã hết sức quan tâm thực hiện ngay từ những ngày đầu thành lập. 
Sau khi hoà bình được lập lại ở miền Bắc, thực hiện Hiến pháp năm 1959, Chính 
phủ đã ban hành Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 quy định Điều lệ tạm 
thời về các chế độ BHXH. Hơn mấy chục năm qua, các chế độ, chính sách về 
Bảo hiểm xã hội đã thực sự là nguồn cổ vũ, động viên đội ngũ cán bộ, công nhân, 
viên chức và lực lượng vũ trang yên tâm phấn khởi lao động sản xuất, dũng cảm 
chiến đấu góp phần xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng 
miền Nam, thống nhất đất nước.Tuy nhiên, cùng với sự phát triển đi lên của đất 
nước, bước vào thời kỳ đổi mới kinh tế - xã hội, các chế độ, chính sách, phương 
thức quản lý về BHXH theo các quy định trước đó đã trở nên bất cập, bộc lộ 
nhiều điểm không còn phù hợp với tiến trình đổi mới theo đường lối và các Nghị 
quyết của Đảng. Quỹ BHXH ngày càng mất cân đối nghiêm trọng, số thu quá ít 
so với tổng số phải chi, vì vậy chi trả các chế độ BHXH đã trở thành gánh nặng 
cho Ngân sách Nhà nước; Đối tượng tham gia BHXH còn bó hẹp trong lực lượng 
cán bộ công nhân viên chức Nhà nước và lực lượng vũ trang, chưa được mở rộng 
đến người lao động ở các thành phần kinh tế khác, chưa tạo được sự công bằng 
xã hội và làm giảm tính ưu việt của Chủ nghĩa xã hội đối với người lao động. 
 Để khắc phục những bất cập ấy, tất yếu phải đổi mới các chế độ, chính sách, 
phương thức quản lý BHXH cho phù hợp với sự đổi mới nền kinh tế - xã hội. Thực 
hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII cùng với việc cải cách chế độ tiền 
lương, các chế độ chính sách về BHXH cũng được cải cách một bước cơ bản. Sau 
ngày Bộ luật lao động có hiệu lực thi hành, Chính phủ đã có Nghị định số 12/CP 
 3
ngày 26/1/1995 và số 45/CP ngày 15/7/1995 ban hành Điều lệ BHXH áp dụng đối 
với cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước, người lao động ở các thành phần kinh 
tế và lực lượng vũ trang. Đồng thời cũng đã ban hành Nghị định số 19/CP ngày 
16/2/1995 thành lập BHXH Việt nam để giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công 
tác quản lý Quỹ BHXH và thực hiện các chế độ BHXH theo quy định của Pháp 
luật. BHXH Việt nam được hình thành theo một hệ thống dọc từ trung ương đến 
tỉnh, Thành phố và quận, huyện, bắt đầu đi vào hoạt động từ ngày 01/10/1995 trên 
phạm vi cả nước. 
 Kể từ đó đến nay, ngành Bảo hiểm xã hội không ngừng xây dựng, phát triển 
và trường thành về mặt tổ chức cán bộ, các chế độ chính sách về Bảo hiểm xã hội 
ngày càng được xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để đáp ứng kịp thời với xu 
thế phát triển của thời đại. 
 . Xuất phát từ điều kiện thực tiễn Quốc Hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa 
Vịêt nam đã ban hành Luật Bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 
năm 2006 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2007; riêng đối với bảo 
hiểm xã hội tự nguyện thì có hiệụ lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2008, đối 
với Bảo hiểm thất nghiệp có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2009. Gần 
đây, Quốc Hội đã ban hành Luật bảo hiểm y tế số 25/2008/QH12 ngày 14 tháng 11 
năm 2008 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2009. 
 Trong những năm qua, ngành Bảo hiểm xã hội đã đạt được nhiều thành tựu 
quan trọng góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho cán bộ, công chức, quân nhân 
và người lao động, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây 
dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Hoạt động hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam 
từng bước được củng cố, hoàn thiện và không ngừng phát triển. Công tác thu, chi, 
quản lý Quỹ Bảo hiểm xã hội và giải quyết chế độ chính sách BHXH cho các đối 
tượng theo Luật định đã đi vào nề nếp tạo điều kiện thuận lợi cho những người 
tham gia và hưởng các chế độ Bảo hiểm xã hội. 
 4
Đặc biệt, việc thực hiện cải cách hành chính theo qui trình giao dịch một 
cửa, chuyển đối tác phong làm việc hành chính sang tác phong phục vụ thực sự đã 
đem lại những chuyển biến tích cực trong việc giải quyết các chế độ BHXH cho 
người lao động. Hệ thống BHXH đi vào hoạt động theo một thể thống nhất , các 
chế độ BHXH đến với người lao động tham gia và thụ hưởng thuận lợi hơn rất 
nhiều. Các chế độ được giải quyết nhanh hơn, kịp thời hơn giúp cho các chủ sử 
dụng lao động và người lao động an tâm đầu tư lao động sản xuất. 
Tuy nhiên, trên thực tế trong quá trình thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội 
vẫn còn nhiều tồn tại và bất cập. Trong đó, vấn đề quan trọng là chế độ Bảo hiểm 
xã hội của người lao động chưa được giải quyết thoả đáng dẫn đến khiếu nại, đòi 
hỏi trách nhiệm của cơ quan Bảo hiểm xã hội phải xem xét giải quyết. 
Qua thời gian học lớp Quản lý Nhà nước ngạch chuyên viên khoá 27 tại 
Trường Chính trị Trần Phú Hà Tĩnh nhằm để áp dụng kiến thức Quản lý nhà nước 
vào thực tiễn công việc hàng ngày và nâng cao kỹ năng viết của bản thân nên tôi 
mạnh dạn chọn đề tài về thực hiện công tác Bảo hiểm xã hội với đề tài: “ Chế độ 
BHXH của người lao động giải quyết chưa thoả đáng, trách nhiệm thuộc về 
ai?” 
Trong khuôn khổ tiểu luận, kiến thức và kỹ năng trình bày của bản thân có 
hạn nên không tránh khỏi thiếu sót. Hy vọng qua tình huống phát sinh trong thực tế 
sẽ giải đáp và trả lời được một số thắc mắc còn vướng phải trong việc thực hiện 
các chế độ chính sách về BHXH và quan điểm nhân văn về an sinh xã hội mà 
Đảng và Nhà nước đang ngày một hoàn thiện sữa đổi góp phần thực hiện mục tiêu 
dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh . 
Kính mong được sự giúp đỡ, hướng dẫn của các Thầy giáo, cô giáo Trường 
Chính trị Trần Phú Hà Tĩnh góp ý kiến bổ sung để tôi có thể hoàn thiện, nâng cao 
kiến thức của mình phục vụ thiết thực cho công việc chuyên môn. 
 Phần I: Mô tả tình huống: 
 5
Một sáng mùa hè oi ả, vừa mở cửa phòng làm việc ở bộ phận giao dịch một 
cửa Bảo hiểm xã hội huyện Cẩm xuyên, tôi nhìn thấy một người đàn ông dáng vẻ 
mệt nhọc bước vào. Trên tay ông là quyển sổ Bảo hiểm xã hội và một số giấy tờ 
khác, gương mặt rất buồn, trán lấm tấm mồ hôi. Tôi liền bước lại gần để hỏi ông 
cần giải quyết việc gì. Từng lời chậm rãi, nghẹn ngào pha lẫn những giọt nước mắt 
ông kể lại toàn bộ sự việc liên quan đến việc giải quyết chế độ BHXH cho con trai 
ông. 
 Ông tên là Nguyễn Văn Tuân trú quán tại Thôn 2, xã C, huyện Cẩm xuyên, 
Tỉnh Hà Tĩnh có con trai tên là Nguyễn Văn Thành sinh ngày 20/7 1982 là công 
nhân Công ty M. 
Công nhân Nguyễn Văn Thành có thời gian tham gia BHXH như sau: 
 Từ tháng 01/2005 đến tháng 12/2006 hệ số lương: 1,67 + 0,4 phụ cấp khu vực; 
Từ tháng 01/2007 đến tháng 3/2008 hệ số lương: 1,67 (Từ tháng 1/2007 BHXH 
không đóng phụ cấp khu vực) 
 Theo lời kể của ông Tuân thì tháng 4/2008 anh Nguyễn Văn Thành chưa 
thực sự nghỉ việc tại Công ty M, đến sáng ngày 27/4/2008 (ngày chủ nhật) trên 
đường lên Công ty để sáng thứ 2 làm việc thì anh đã bị tai nạn giao thông và chết 
vào lúc 7 h sáng 27/4/2008. Gia đình đã gọi điện báo cho Công ty M và Công ty đã 
hỗ trợ cho gia đình một phần tiền để gia đình lo mai táng cho anh Nguyễn Văn 
Thành. 
 Đến tháng 7/2009 vừa qua, gia đình nhận được thông báo của Công ty M lên 
trực tiếp công ty để làm thủ tục giải quyết chế độ cho anh Thành. Ông Tuân một 
mình lặn lội gần 100 km lên tận Công ty con trai làm việc thì được cán bộ phòng tổ 
chức đưa ra một bản quyết định chấm dứt hợp đồng lao động với anh Nguyễn Văn 
Thành của Công ty M từ ngày 02/4/2008 và hướng dẫn làm đơn đề nghị hưởng trợ 
cấp một lần – mẫu 14-HSB. Do không hiểu biết về chính sách BHXH nên ông 
quay về làm đơn xin xác nhận của chính quyền địa phương và ông đã thay mặt con 
 6
trai ký tên vào mục người làm đơn. Sau đó, ông Tuân lại trở lại Công ty M để nộp 
đơn. Vừa qua, tháng 8/2009 gia đình ông Tuân nhận được thông báo của Công ty 
M mời gia đình lên nhận lại các thủ tục hồ sơ trong đó có sổ BHXH, quyết định 
hưởng trợ cấp một lần, bản quá trình tham gia BHXH và hướng dẫn gia đình trực 
tiếp cơ quan Bảo hiểm xã hội huyện Cẩm xuyên để nhận tiền trợ cấp một lần của 
anh Nguyễn Văn Thành. Ông Tuân hỏi rằng: Tại sao con ông chết lại không được 
hưởng mai táng phí? Ông đề nghị cơ quan Bảo hiểm xã hội không giải quyết việc 
nhận trợ cấp một lần của anh Thành mà làm đơn đề nghị giải quyết cho gia đình họ 
được nhận chế độ tử tuất của anh Thành. 
Phần thứ II: Cơ sở lý luận của tình huống: 
1/ Lý luận chung: 
Bản chất của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước 
của dân, do dân và vì dân. Luật pháp của Nhà nước Việt nam mang tính xã hội sâu 
sắc và mang tính giai cấp - mang ý chí của giai cấp lãnh đạo xã hội là giai cấp công 
nhân trên cơ sở liên minh với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức; phục vụ cho 
lợi ích của mọi người dân trong xã hội chứ không phải lợi ích của một giai cấp 
riêng biệt nào. 
Luật pháp của Nhà nước Việt nam là nhân tố bảo vệ sự ổn định xã hội, thể 
chế hoá quyền con người, quyền công dân, đảm bảo và tạo điều kiện cho những 
quyền đó được thực hiện đầy đủ, kịp thời. Mặt khác các thành viên trong xã hội 
nhờ vào phương tiện pháp luật có điều kiện bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của 
mình, đấu tranh chống mọi hiện tượng tiêu cực, xây dựng một xã hội văn minh, 
công bằng và dân chủ. 
Công chức, viên chức nhà nước là những người đại diện cho Nhà nước quản 
lý xã hội bằng pháp luật. Công cụ chính quản lý xã hội của họ là pháp luật và bản 
thân họ cũng có nghĩa vụ phải tuân thủ pháp luật, không được làm trái với những 
gì mà pháp luật qui định. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay có không ít một số cán 
 7
bộ công chức Nhà nước có chức có quyền đã lợi dụng chức quyền để sách nhiễu 
nhân dân hoặc do trình độ chuyên môn thấp kém, thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu 
hiểu biết về chính sách của Nhà nước dẫn đến ảnh hưởng quyền lợi của người dân, 
thiếu công bằng xã hội, nhân dân mất lòng tin vào chính sách của Đảng và pháp 
luật của Nhà nước. 
2. Quan điểm của Đảng: 
Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Nhà nước tham 
gia Bảo hiểm xã hội với tư cách là người bảo hộ cho người lao động. Sự bảo hộ 
của Nhà nước thể hiện ở việc đề ra chính sách Bảo hiểm xã hội tác động và điều 
tiết các hoạt động Bảo hiểm xã hội đưa bảo hiểm xã hội vào quỹ đạo chung của 
chính sách kinh tế xã hội. 
Tại Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng Sản 
Việt Nam, với quan điểm chỉ đạo của Đảng tiếp tục hoàn chỉnh thể chế thị trường 
lao động, bảo đảm hài hoà lợi ích của người lao động và người sử dụng lao độn ... a Nhà nước. Bên cạnh đó, làm tốt công tác tuyên truyền, động 
viên để mọi người tham gia thực hiện tốt chế độ Bảo hiểm xã hội 
 3. Các bước để thực hiện phương án 3 : 
 Bước 1 : Bảo hiểm xã hội huyện Cẩm xuyên căn cứ vào đơn trình bày của 
ông Tuân, trực tiếp xuống làm việc với Uỷ ban nhân dân xã C xác minh ngày, 
tháng, năm chết của anh Thành thông qua làm việc với các bộ phận tư pháp, công 
an, đồng chí trưởng thôn 2, đồng chí bí thư chi bộ thôn 2 và người phụ trách công 
tác dân số ở thôn 2. 
 Bước 2: Sau khi xác minh ngày chết của anh Thành đúng với giấy chứng tử 
Uỷ ban nhân dân xã C đã cấp. Uỷ ban nhân dân xã C làm tờ trình giải trình về việc 
đã sai sót trong việc ký xác nhận vào đơn hưởng trợ cấp một lần của anh Thành 
(khi đó anh Thành đã chết) có xác nhận của Uỷ ban nhân dân huyện Cẩm xuyên và 
đề nghị Bảo hiểm xã hội huyện Cẩm xuyên, Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh xem xét 
giải quyết. Đồng thời, có trách nhiệm xử lý vi phạm hành chính đối với cán bộ 
chuyên môn đã tham mưu cho lãnh đạo ký xác nhận. 
 15
 Bước 3: Yêu cầu Công ty M làm tờ trình gửi Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh, 
Bảo hiểm xã hội huyện Cẩm xuyên giải trình sự việc đã lập hồ sơ đề nghị giải 
quyết sai chế độ cho người lao động và đề nghị Bảo hiểm xã hội các cấp xem xét, 
giải quyết lại chế độ BHXH cho anh Thành. 
 Bước 4: Bảo hiểm xã hội huyện Cẩm xuyên có trách nhiệm hướng dẫn ông 
Tuân lập đầy đủ thủ tục hồ sơ đề nghị giải quyết chế độ tử tuất cho anh Thành 
hoàn chỉnh gồm các giấy tờ sau: 
- Sổ BHXH và quyết định hưởng trợ cấp một lần của anh Nguyễn Văn 
Thành; 
- Đơn đề nghị không nhận trợ cấp một lần và đề nghị được hưởng chế độ tử 
tuất: 01 bản; 
- Tờ khai hoàn cảnh gia đình: 04 bản; 
- Giấy chứng tử: 4 bản (1 bản chính +3 bản sao hoặc công chứng) 
Bước 5: Ông Tuân trực tiếp đến bộ phận giao dịch một cửa Bảo hiểm xã hội 
huyện Cẩm xuyên nộp toàn bộ hồ sơ nêu trên. Cán bộ chuyên trách tại bộ phận 
giao dịch một cửa Bảo hiểm xã hội huyện kiểm tra hồ sơ đầy đủ tiếp nhận, lập 
phiếu hẹn trả kết quả trong thời gian là 15 ngày làm việc theo Quyết định số 
02/QĐ-BHXH ngày 15 tháng 02 năm 2009 của Giám đốc Bảo hiểm xã hội huyện 
Cẩm xuyên và Quyết định số 132/QĐ-BHXH ngày 11 tháng 02 năm 2009 của 
Giám đốc bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh. 
 Bước 6 : Bộ phận giao dịch một cửa Bảo hiểm xã hội huyện Cẩm xuyên 
chuyển bàn giao cho bộ phận chế độ bảo hiểm xã hội xử lý nghiệp vụ. Tiếp theo, 
bộ phận chế độ bảo hiểm xã hội phối hợp với bộ phận kế toán đối chiếu với danh 
sách chuyển nguồn tháng 8 năm 2009 để xem số tiền trợ cấp một lần của anh 
Thành mà Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh cấp về trong tháng 8 năm 2009. Đồng 
thời, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Giám đốc Bảo hiểm xã hội huyện Cẩm xuyên 
soạn thảo văn bản gửi Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh xem xét, giải quyết. Trong đó, 
 16
xác nhận rõ Bảo hiểm xã hội huyện Cẩm xuyên chưa thực hiện chi trả trợ cấp một 
lần cho thân nhân anh Nguyễn Văn Thành. 
 Bước 7: Bộ phận chế độ chính sách bảo hiểm xã hội huyện Cẩm xuyên tiến 
hành thu thập toàn bộ đầy đủ hồ sơ của anh Thành (Bao gồm: hồ sơ ông Tuân nộp; 
Biên bản xác minh ngày, tháng, năm chết của anh Thành; Công văn đề nghị của 
Bảo hiểm xã hội huyện; Tờ trình của Công ty A) nộp cho Phòng tiếp nhận – quản 
lý hồ sơ Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh. Phòng tiếp nhận – quản lý hồ sơ sẽ lập 
phiếu hẹn trả kết quả trong thời gian ngắn nhất là 10 ngày làm việc. 
 Bước 8: Các phòng nghiệp vụ ở Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh sẽ phối hợp 
xử lý, rút hồ sơ trợ cấp một lần của anh Thành để tính toán lại số tiền trợ cấp tử 
tuất một lần dựa trên hồ sơ tham gia BHXH của anh Thành và tiền mai táng phí. 
Sau đó, sẽ đối trừ với số tiền trợ cấp BHXH một lần đã được xét duyệt trước đó. 
Tiến hành cấp nguồn kinh phí về cho Bảo hiểm xã hội huyện kịp thời. Đồng thời, 
đính kèm hồ sơ giải quyết trợ cấp tử tuất một lần cho anh Thành với hồ sơ trợ cấp 
một lần trước đó và lưu trữ đúng qui định. 
 Bước 9: Đến ngày hẹn Bảo hiểm xã hội huyện Cẩm xuyên trực tiếp phòng 
giao nhận hồ sơ Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh nhận lại 2 bộ hồ sơ hưởng trợ cấp tử 
tuất một lần của anh Nguyễn Văn Thành. Sau đó, Bảo hiểm xã hội huyện có trách 
nhiệm thông báo cho ông Tuân đến nhận kết quả giải quyết theo đúng thời gian đã 
hẹn. Đồng thời, tách hồ sơ, 01 bộ chuyển bộ phận hồ sơ đưa vào lưu trữ và tiến 
hành bàn giao 01 bộ hồ sơ trợ cấp tử tuất một lần cho ông Tuân. 
 Phần thứ V: Kiến nghị 
 Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước , thể hiện sự 
quam tâm đối với quyền lợi của người lao động .Việc thực hiện các chế độ chính 
sách Bảo hiểm xã hội theo cơ chế mới phù hợp với cơ chế thị trường, dựa trên 
nguyên tắc có đóng BHXH mới được hưởng các chế độ BHXH là hoàn toàn đúng . 
 17
 1. Gần 3 năm thực hiện Luật bảo hiểm xã hội số 71/QH 11 ngày 29 tháng 6 
năm 2006 chúng ta thấy rằng: Luật bảo hiểm xã hội là hành lang pháp lý cao nhất 
để mọi tổ chức, cá nhân chấp hành qui định về chính sách bảo hiểm xã hội theo qui 
định của Pháp luật. Trong quá trình thực hiện công tác ngành Bảo hiểm xã hội đã 
góp phần quan trọng trong việc thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội của Đảng và 
Nhà nước đề ra, góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình thực 
hiện vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại và bất cập. 
 - Về qui định mức đóng vào quỹ ốm đau và thai sản bằng 3%; trong đó 
người sử dụng lao động giữ lại 2% để chi trả kịp thời cho người lao động đủ điều 
kiện hưởng các chế độ ốm đau, thai sản. Thực tế, hiện nay ở Hà Tĩnh phần lớn các 
đơn vị sử dụng lao động có số lao động ít, số 2% tổng quỹ lương để lại hàng quý là 
rất nhỏ, không đủ để chi trả cho người lao động khi họ hưởng chế độ thai sản. 
Trong khi đó, nhiều đơn vị nguồn kinh phí hạn hẹp nên họ không chủ động được 
nguồn kinh phí để thanh toán cho người lao động mà phải chờ đến đầu quý sau 
quyết toán xong với cơ quan Bảo hiểm xã hội mới có tiền để trả cho người lao 
động. Như vậy, chúng ta không thể nói là chi trả kịp thời chế độ ốm đau, thai sản 
cho người lao động. Xuất phát từ những bất cập đó Nhà nước chúng ta cần phải có 
giải pháp khắc phục tình trạng trên để đảm bảo quyền lợi cho người lao động khi 
tham gia bảo hiểm xã hội. 
- Về chế độ trợ cấp tuất hàng tháng cho các đối tượng là con từ 15 tuổi trở 
lên; vợ, cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ, cha chồng, mẹ vợ, mẹ chồng nếu dưới 60 tuổi đối 
nam, dưới 55 tuổi đối với nữ và bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên mới 
được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng. Nhưng việc qui định thời hạn giới thiệu giám 
định mức suy giảm khả năng lao động trong vòng 2 tháng kể từ khi người lao động 
chết là quá ngắn. 
 2. Bên cạnh đó, công tác thông tin tuyên truyền chưa làm được nhiều, đội 
ngũ làm cộng tác tuyên truyền chưa đủ mạnh cả về chiều sâu và chiều rộng. Vì vậy 
 18
cần sớm có chính sách, biện pháp đầu tư thoả đáng vào công tác thông tin - tuyên 
truyền , không chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền các chế độ , chính sách của Đảng 
và Nhà nước mà cần phải đẩy mạnh tuyên truyền về mọi mặt hoạt động của hệ 
thống BHXH việt nam cũng như kinh nghiệm về BHXH trong mọi tầng lớp người 
lao động và toàn xã hội, tiến tới xã hội hoá về BHXH. Thông qua đó giúp người 
lao động thấy rõ được quyền lợi và nghĩa vụ và nâng cao trách nhiệm của mình 
trong việc tham gia BHXH . Cần khẳng định rằng : Chỉ khi nào người lao động có 
nhận thức đầy đủ về lĩnh vực BHXH thì chính họ sẽ là người giám sát chủ sử dụng 
lao động trong việc chấp hành , thực hiện nghiêm túc các chế độ , chính sách Bảo 
hiểm xã hội. 
 3. Một số đơn vị, doanh nghiệp tuy có thành lập tổ chức công đoàn, nhưng 
tổ chức này mới chỉ hoạt động có mức độ, chưa nghiên cứu thật sâu các chế độ, 
chính sách BHXH nên cũng chưa đòi hỏi quyền lợi cho người lao động. Trong khi 
đó , các chủ sử dụng lao động vì lợi ích cá nhân, bằng mọi cách cố tình trốn tránh 
nghĩa vụ tham gia BHXH. Cán bộ làm công tác bảo hiểm xã hội tại một số đơn vị 
chưa thực sự nắm bắt được các qui định về chế độ chính sách bảo hiểm xã hội, làm 
việc thiếu tinh thần trách nhiệm dẫn đến những sai sót không đáng có. Vì vậy, cần 
phải bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác bảo hiểm xã hội cho các đơn vị sử dụng lao 
động thôg qua các kênh thông tin tuyên truyền, các lớp tập huấn 
 4. Cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành cùng với ngành 
Bảo hiểm xã hội trong việc thực hiện công tác bảo hiểm xã hội. 
 5. Qua nhìn nhận tình huống trên ta thấy rằng cần phải coi trọng yếu tố con 
người. Để có một xã hội trong sạch vững mạnh chúng ta cần có những con người 
có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có tinh thần trách 
nhiệm, biết tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân. Luôn đấu tranh với tệ tham 
nhũng, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, thiếu tinh thần trách nhiệm trong xử lý 
 19
nghiệp vụ hàng ngày. Làm được như vậy là chúng ta đã góp phần làm cho bộ máy 
Nhà nước ta ngày càng vững mạnh. 
Kết luận 
Bảo hiểm xã hội có vị trí quan trọng đối với công tác an sinh xã hội của mỗi 
quốc gia. Cùng với yêu cầu và nhiệm vụ của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa, 
từng thời kỳ khác nhau, các quy định về chính sách Bảo hiểm xã hội được sửa đổi 
bổ sung một cách linh hoạt, phù hợp nhằm đáp ứng, huy động tối đa về sức người, 
sức của của nhân dân cho công cuộc Cách mạng, ổn định dần dần và ngày càng 
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động. 
Vấn đề mà tình huống đưa ra đã được phân tích đúng, sai, có phương án tối 
ưu để thực hiện giải quyết chế độ Bảo hiểm xã hội cho người lao động, vừa đúng 
với các qui định của nhà nước, vừa thấu tình đạt lý. Điều quan trọng nhất là chế độ 
của người lao động được đảm bảo, các đơn vị sử dụng lao động có liên quan đến 
tình huống trên nhận thấy được những khuyết điểm của cán bộ mình đang quản lý. 
Từ đó, có những biện pháp khắc phục kịp thời và có hình thức xử lý vi phạm đúng 
 20
đắn. Đồng thời, tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra khi xử lý nghiệp vụ hàng 
ngày. Cán bộ trực tiếp làm công việc chuyên môn cũng nhận thấy được những sai 
sót và rút kinh nghiệm trong xử lý nghiệp vụ và cần phải học hỏi nhiều hơn nữa để 
nâng cao kiến thức, năng lực chuyên môn nhằm phục vụ tốt hơn công tác. 
- Việc thực hiện giải quyết chế độ chính sách cho người lao động theo Luật 
baỏ hiểm xã hội được đối tượng cũng như chủ sử dụng lao động yên tâm và thực 
sự tin tưởng vào sự nghiệp phát triển của ngành Bảo hiểm xã hội. 
 Qua gần 15 năm ra đời và đi vào hoạt động , kết quả đạt được của ngành 
Bảo hiểm xã hội hết sức khả quan , đặc biệt là vấn đề thu nộp Bảo hiểm xã hội . 
Kết quả thu được cao gấp hàng chục lần những năm trước đây. Thực hiện lộ trình 
cải cách hành chính theo cơ chế một cửa đã thực sự đem lại hiệu quả rõ rệt.Việc 
giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động được tiến hành kịp thời và khoa 
học hơn , chính xác hơn , tránh được tình trạng gian lận hồ sơ. Thực hiện tốt chính 
sách bảo hiểm xã hội nhằm đảm bảo ổ định kinh tế, an ninh, an toàn trật tự xã hội. 
 21

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_che_do_bao_hiem_xa_hoi_cua_nguoi_lao_dong_giai_quy.pdf