Đề tài Giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam

1. Khái niệm của doanh nghiệp vừa và nhỏ

Nhiều chuyên gia kinh tế và pháp luật của Việt Nam cho rằng khái

niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ và sau đó khái niệm doanh nghiệp nhỏ và

cực nhỏ được du nhập từ bên ngoài vào Việt Nam. Vấn đề tiêu chí doanh

nghiệp vừa, nhỏ và cực nhỏ là trung tâm của nhiều cuộc tranh luận về sự

phát triển của khu vực này trong nhiều năm qua. Định nghĩa về doanh

nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ rừ ràng phải dựa trước tiên

vào quy mô doanh nghiệp. Thông thường đó là tiêu chí về số nhân công, vốn

đăng kí, doanh thu., các tiêu chí này thay đổi theo từng quốc gia, từng

chương trỡnh phỏt triển khỏc nhau.

Ở Việt Nam đó giải quyết vấn đề định nghĩa này một phần nào. Công

văn số 681 /CP-KTN ban hành ngày 20-6-1998 theo đó doanh nghiệp nhỏ

và vừa là doanh nghiệp có số công nhân dưới 200 người và số vốn kinh

doanh dưới 5 tỷ đồng (tương đương 378.000 USD - theo tỷ giá giữa VND và

USD tại thời điểm ban hành công văn). Tiêu chí này đặt ra nhằm xây dựng

một bức tranh chung về các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam phục vụ

cho việc hoạch định chính sách. Trên thực tế tiêu chí này không cho phép

phân biệt các doanh nghiệp vừa, nhỏ và cực nhỏ. Vỡ vậy, tiếp theo đó Nghị

định số 90/2001/NĐ-CP đưa ra chính thức định nghĩa doanh nghiệp nhỏ và

vừa như sau: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh

độc lập, đó đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng

ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bỡnh hàng năm không

quá 300 người”. Các doanh nghiệp cực nhỏ được quy định là có từ 1 đến 9

nhân công, doanh nghiệp có từ 10 đến 49 nhân công được coi là doanh

nghiệp nhỏ.

pdf 55 trang chauphong 20/08/2022 10680
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề tài Giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam

Đề tài Giải pháp hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam
CHƯƠNG I 
NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA DOANH NGHIỆP 
 VỪA VÀ NHỎ 
 1. Khái niệm của doanh nghiệp vừa và nhỏ 
Nhiều chuyên gia kinh tế và pháp luật của Việt Nam cho rằng khái 
niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ và sau đó khái niệm doanh nghiệp nhỏ và 
cực nhỏ được du nhập từ bên ngoài vào Việt Nam. Vấn đề tiêu chí doanh 
nghiệp vừa, nhỏ và cực nhỏ là trung tâm của nhiều cuộc tranh luận về sự 
phát triển của khu vực này trong nhiều năm qua. Định nghĩa về doanh 
nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ rừ ràng phải dựa trước tiên 
vào quy mô doanh nghiệp. Thông thường đó là tiêu chí về số nhân công, vốn 
đăng kí, doanh thu..., các tiêu chí này thay đổi theo từng quốc gia, từng 
chương trỡnh phỏt triển khỏc nhau. 
Ở Việt Nam đó giải quyết vấn đề định nghĩa này một phần nào. Công 
văn số 681 /CP-KTN ban hành ngày 20-6-1998 theo đó doanh nghiệp nhỏ 
và vừa là doanh nghiệp có số công nhân dưới 200 người và số vốn kinh 
doanh dưới 5 tỷ đồng (tương đương 378.000 USD - theo tỷ giá giữa VND và 
USD tại thời điểm ban hành công văn). Tiêu chí này đặt ra nhằm xây dựng 
một bức tranh chung về các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam phục vụ 
cho việc hoạch định chính sách. Trên thực tế tiêu chí này không cho phép 
phân biệt các doanh nghiệp vừa, nhỏ và cực nhỏ. Vỡ vậy, tiếp theo đó Nghị 
định số 90/2001/NĐ-CP đưa ra chính thức định nghĩa doanh nghiệp nhỏ và 
vừa như sau: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh 
độc lập, đó đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng 
ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bỡnh hàng năm không 
quá 300 người”. Các doanh nghiệp cực nhỏ được quy định là có từ 1 đến 9 
nhân công, doanh nghiệp có từ 10 đến 49 nhân công được coi là doanh 
nghiệp nhỏ. 
2.Tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ 
Trên thế giới, định nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ được hiểu và 
quy định khác nhau tuỳ theo từng nơi. Các tiêu chí để phân loại doanh 
nghiệp có hai nhóm: tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng. Nhóm tiêu chí 
định tính dựa trên những đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp như chuyên 
môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý thấp... 
Các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng 
thường khó xác định trên thực tế. Do đó chúng thường được dùng làm cơ sở 
để tham khảo trong, kiểm chứng mà ít được sử dụng để phân loại trong thực 
tế. Nhóm tiêu chí định lượng có thể dựa vào các tiêu chí như số lao động, giá 
trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Trong đó: 
Số lao động: có thể lao động trung bỡnh trong danh sỏch, lao động 
thường xuyên, lao động thực tế; 
Tài sản hay vốn: có thể là tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản (vốn) 
cố định, giá trị tài sản cũn lại; 
Doanh thu: có thể là tổng doanh thu/năm, tổng giá trị gia tăng/năm 
(hiện nay có xu hướng sử dụng chỉ số này). 
Trong các nước APEC tiêu chí được sử dụng phổ biến nhất là số lao 
động. Cũn một số tiờu chớ khỏc thỡ tuỳ thuộc vào điều kiện từng nước. 
Tuy nhiên sự phân loại doanh nghiệp theo quy mô lại thường chỉ 
mang tính tương đối và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: 
Trỡnh độ phát triển kinh tế của một nước: trỡnh độ phỏt triển càng 
cao thỡ trị số cỏc tiờu chớ càng tăng lên. Ví dụ như một doanh nghiệp có 
400 lao động ở Việt Nam không được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ nhưng 
lại được tính là SME ở CHLB Đức. Ở một số nước có trỡnh độ phát triển 
kinh tế thấp thỡ cỏc chỉ số về lao động, vốn để phân loại doanh nghiệp vừa 
và nhỏ sẽ thấp hơn so với các nước phát triển. 
Tớnh chất ngành nghề: do đặc điểm của từng ngành, có ngành sử 
dụng nhiều lao động như dệt, may, có ngành sử dụng ít lao động nhưng 
nhiều vốn như hoá chất, điện... Do đó cần tính đến tính chất này để có sự so 
sánh đối chứng trong phân loại các SME giữa các ngành với nhau. Trong 
thực tế, ở nhiều nước, người ta thường phân chia thành hai đến ba nhóm 
ngành với các tiêu chí phân loại khác nhau. Ngoài ra có thể dùng khỏi niệm 
hệ số ngành (Ib) để so sánh đối chứng giữa các ngành khác nhau. 
Vựng lónh thổ: do trỡnh độ phát triển khác nhau nên số lượng và quy 
mô doanh nghiệp cũng khác nhau. Do đó cần tính đến cả hệ số vùng (Ia) để 
đảm bảo tính tương thích trong việc so sỏnh quy mụ doanh nghiệp giữa cỏc 
vựng khỏc nhau. 
Bảng : Tham khảo về tiêu chí doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước 
TÊN NƯỚC TIấU CHÍ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 
ÚC 
- Sản xuất : dưới 100 LĐ 
- Phi sản xuất: dưới 20 LĐ 
MỸ 
- Doanh nghiệp nhỏ: dưới 100 LĐ 
- Doanh nghiệp vừa: 101-499 LĐ 
NHẬT 
- Sản xuất:dưới 300 LĐ hoặc dưới 100 triệu Yên 
- Bán lẻ, dịch vụ: dưới 50 LĐ hoặc dưới 10 triệu Yên 
CHLB ĐỨC - Dưới 500 LĐ 
ĐÀI LOAN 
- Công nghiệp, xây dựng: vốn góp dưới 40 triệu NT$, dưới 300 LĐ 
- Khai khoáng: vốn góp dưới 40 triệu NT$, dưới 500 LĐ 
- Thương mại, vận tải và dịch vụ khác: dưới 40 triệu NT$ doanh thu, 
dưới 50 LĐ 
 (Nguồn : tổng hợp từ dữ liệu sưu tầm được qua các trang web trên mạng) 
 Tớnh lịch sử: một doanh nghiệp trước đây được coi là lớn, nhưng 
với quy mô như vậy, hiện tại hoặc tương lai có thể được coi là vừa hoặc nhỏ. 
Như vậy trong việc xác định quy mô doanh nghiệp cần tính thêm hệ số tăng 
trưởng quy mô doanh nghiệp trung bỡnh (Id) trong từng giai đoạn. Hệ số này 
chỉ được sử dụng khi xác định quy mô doanh nghiệp cho các thời kỡ khỏc 
nhau. 
 Mục đích phân loại: khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ khác nhau 
tuỳ theo mục đích công việc phân loại. 
Như vậy có thể xác định được quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc 
một ngành hoặc một địa bàn cụ thể theo công thức sau: 
 F(Sba) = Ib* Ia*Sa/ Id 
Trong đó: 
F(Sba): quy mụ một doanh nghiệp thuộc một ngành và trờn một lónh thổ 
cụ thể. 
Ib,Ia,Id: tương ứng là hệ số vùng, ngành, hệ số tăng trưởng quy mô doanh 
nghiệp; 
Sa : quy mô vừa và nhỏ chung trong một nước. 
Cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ cú vai trũ quan trọng trong nền kinh tế một 
quốc gia, khu vực và toàn cầu. Cỏc ưu thế và nhược điểm của loại hỡnh 
doanh nghiệp này sẽ được trỡnh bày dưới đây nhằm đem lại một cái nhỡn 
sõu vào bản chất của loại hỡnh này, cho phộp ta định ra hướng đi rừ ràng 
trong việc xác định hướng phát triển cho loại hỡnh này. 
3.Ưu thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ: 
Doanh nghiệp vừa và nhỏ cú những lợi thế rừ ràng, đó là khả năng 
thoả món nhu cầu cú hạn trong những thị trường chuyên môn hoá, khuynh 
hướng sử dụng nhiều lao động với trỡnh độ lao động kỹ thuật trung bỡnh 
thấp, đặc biệt là rất linh hoạt, có khả năng nhanh chóng thích nghi với các 
nhu cầu và thay đổi của thị trường. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể bước 
vào thị trường mới mà không thu hút sự chú ý của cỏc doanh nghiệp lớn (do 
quy mô doanh nghiệp nhỏ), sẵn sàng phục vụ ở những nơi xa xôi nhất, 
những khoảng trống vừa và nhỏ trên thị trường mà các doanh nghiệp lớn 
không đáp ứng vỡ mối quan tõm của họ đặt ở các thị trường có khối lượng 
lớn. Doanh nghiệp vừa và nhỏ là loại hỡnh sản xuất cú địa điểm sản xuất 
phân tán, tổ chức bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ nên nó có nhiều điểm mạnh: 
 - Dễ dàng khởi sự, bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ và năng động, nhạy bén 
với thay đổi của thị trường. 
Doanh nghiệp chỉ cần một số vốn hạn chế, mặt bằng khụng lớn, các 
điều kiện sản xuất đơn giản là đó cú thể bắt đầu hoạt động. Vũng quay sản 
phẩm nhanh nờn cú thể sử dụng vốn tự cú, hoặc vay bạn bố, người thân dễ 
dàng. Bộ máy tổ chức gọn nhẹ linh hoạt, dễ quản lý, dễ quyết định. Đồng 
thời, do tính chất linh hoạt cũng như quy mô nhỏ cảu nó, doanh nghiệp có 
thể dễ dàng phát hiện thay đổi nhu cầu của thị trường, nhanh chóng chuyển 
đổi hướng kinh doanh, phát huy tính năng động sáng tạo, tự chủ, nhạy bén 
trong lựa chọn thay đổi mặt hàng. Từ đó doanh nghiệp sẽ tạo ra sự sống 
động trong phát triển kinh tế. 
 - Sẵn sàng đầu tư vào các lĩnh vực mới, lĩnh vực có mức độ rủi ro 
cao. 
Đó là bởi vỡ cỏc doanh nghiệp loại này cú mức vốn đầu tư nhỏ, sử 
dụng ít lao động nên có khả năng mạo hiểm sẵn sàng mạo hiểm. Trong 
trường hợp thất bại thỡ cũng khụng bị thiệt hại nặng nề như các doanh 
nghiệp lớn, có thể làm lại từ đầu được. Bên cạnh đó các doanh nghiệp vừa 
và nhỏ có động cơ để đi vào các lĩnh vực mới này: do tính chất nhỏ bé về 
quy mô nên khó cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong sản xuất dây 
chuyền hàng loạt. Họ phải dựa vào lợi nhuận thu được từ các cuộc kinh 
doanh mạo hiểm. 
 - Dễ dàng đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ, hoạt động hiệu 
quả với chi phí cố định thấp. 
Doanh nghiệp có nguồn vốn kinh doanh ít nên đầu tư vào các tài sản 
cố định cũng ít, do đó dễ tiến hành đổi mới trang thiết bị khi điều kiện cho 
phép. Đồng thời doanh nghiệp tận dụng được lao động dồi dào để thay thế 
vốn. Với chiến lược phát triển, đầu tư đúng đắn,sử dụng hợp lý cỏc nguồn 
lực của mỡnh, cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể đạt được hiệu quả kinh tế 
- xó hội cao, cũng như có thể sản xuất được hàng hoá có chất lượng tốt và có 
sức cạnh tranh trên thị trường ngay cả khi điều kiện sản xuất kinh doanh 
của doanh nghiệp có nhiều hạn chế. 
 - Khụng cú hoặc ít có xung đột giữa người thuê lao động với người 
lao động. 
Quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ tất nhiên là không lớn lắm. Số 
lượng lao động trong một doanh nghiệp không nhiều, sự phân công lao động 
trong xí nghiệp chưa quá mức rừ rệt. Mối quan hệ giữa người thuê lao động 
và người lao động khá gắn bó. Nếu xảy ra xung đột, mâu thuẫn thỡ dễ dàn 
xếp. 
4. Hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ 
Cỏc hạn chế của loại hỡnh doanh nghiệp này đến từ hai nguồn. Các 
hạn chế khách quan đến từ thực tế bên ngoài, và các hạn chế đến từ chính 
các lợi thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ. 
- Hạn chế đầu tiên và lớn nhất của SMEs nằm trong chính đặc điểm 
của nó, đó là quy mô nhỏ, vốn ít, do đó các doanh nghiệp này thường lâm 
vào tỡnh trạng thiếu vốn trầm trọng mỗi khi muốn mở rộng thị trường, hay 
tiến hành đổi mới, nâng cấp trang thiết bị. 
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường phụ thuộc vào doanh nghiệp 
mà nó cung cấp sản phẩm. 
- Khó khăn trong nâng cấp trang thiết bị, đầu tư công nghệ mới, đặc 
biệt là các công nghệ đũi hỏi vốn lớn, từ đó ảnh hưởng đến năng suất lao 
động, chất lượng sản phẩm và tính cạnh tranh trên thị trường. 
- Có nhiều hạn chế trong đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp, 
thiếu bí quyết và trợ giúp kỹ thuật, không có kinh nghiệm trong thiết kế sản 
phẩm, thiếu đầu tư cho nghiên cứu và phát triển,... nói cách khác là không 
đủ năng lực sản xuất để đáp ứng các yêu cầu về chất lượng, khó nâng cao 
được năng suất và hiệu quả kinh doanh. 
- Thiếu trợ giúp về tài chính và tiếp cận thị trườngÆcác doanh nghiệp 
vừa và nhỏ thường tỏ ra bị động trong các quan hệ thị trường. 
- Do tính chất vừa và nhỏ của nó, SMEs gặp khó khăn trong thiết lập 
và mở rộng quan hệ hợp tác với các đơn vị kinh tế bên ngoài địa phương 
doanh nghiệp đó đang hoạt động. 
- Cũng do tớnh chất vừa và nhỏ của nú, SMEs gặp khó khăn trong 
thiết lập chỗ đứng vững chắc trong thị trường 
5. Vai trũ của doanh nghiệp vừa và nhỏ 
a. Tạo ra nhiều việc làm với chi phớ thấp 
Các ... u. Nhiều khi, 
thấy có một mặt hàng đang bán chạy, các DNVVN đổ xô vào đầu tư sản 
xuất. Thực tế này dẫn tới đẩy giá nguyên liệu lên cao, làm giá thành sản 
phẩm tăng, đồng thời lượng cung hàng hóa cũng tăng. Do đó, dẫn tới thua 
lỗ, phá sản trong hàng loạt doanh nghiệp. Nhà nước chưa có biện pháp hỗ 
trợ DNVVN trong những trường hợp kinh doanh rủi ro cho nên chưa 
khuyến khích được doanh nghiệp đầu tư vào những lĩnh vực mới hay tại 
những địa bàn kém lợi thế. 
Hơn nữa, việc quản lý thị trường của Nhà nước Việt Nam còn nhiều 
kẽ hở, hàng lậu tràn lan, hàng giả gia tăng gây ảnh hưởng tiêu cực tới sản 
xuất của doanh nghiệp. Tất cả những thực tế này khiến các doanh nghiệp 
thương mại vừa và nhỏ có khuynh hướng tập trung các nguồn lực dự trữ và 
tiêu thụ hàng ngoại hơn là tổ chức lưu chuyển hàng hóa trong nước. Vì vậy, 
phần lớn hàng tiêu dùng bị nước ngoài chiếm lĩnh, thị trường nội địa không 
phát triển đúng mức, càng tạo ra thêm nhiều cản trở cho sự gia nhập thị 
trường và vươn lên của nhiều DNVVN khác. 
Hạn chế về khai thác và mở rộng thị trường đầu ra nước ngoài: Ngày 
càng có nhiều DNVVN tham gia đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của 
Việt Nam. Nhưng, ở mặt trận này doanh nghiệp cũng bộc lộ rất nhiều hạn 
chế, từ chính bản thân và từ môi trường kinh doanh. Cơ cấu thị trường xuất 
khẩu không đa dạng, nhiều doanh nghiệp gặp không ít bất lợi khi các nước 
châu á - bạn hàng chính lâm vào khủng hoảng, cắt giảm tiêu thụ, nợ nần dây 
dưa. Nhìn chung, doanh nghiệp Việt Nam chưa xây dựng được chiến lược 
thị trường của riêng mình. Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay 
mới chỉ có "chiến lược để cố gắng tồn tại trong ngắn hạn" hoặc là "chưa có 
chiến lược riêng phát triển doanh nghiệp" ( Trích “ Tổng quan về cạnh tranh 
công nghiệp Việt nam”-NXB Chính trị quốc gia, tháng 6/1999). “Các 
DNVVN thụ động trong xuất khẩu”, đó cũng là nhận định được đưa ra tại 
hội thảo “Tăng cường năng lực hợp tác quốc tế của DNVVN Việt nam trong 
bối cảnh hội nhập quốc tế” tổ chức vào 6/6/2001. Một khảo sáo của một 
nhóm nghiên cứu về DNVVN của trường đại học Kinh tế quốc dân, Đại học 
ngoại thương cùng với Đại học Copenhagen của Đan mạch cho thấy:36,7% 
số DNVVN có được đơn hàng xuất khẩu qua việc khách hàng nước ngoài 
trực tiếp đến thăm doanh nghiệp, 10,2% từ việc tham gia hội chợ triển lãm 
và 14,3% từ các đại lý bán hàng nước ngoài của doanh nghiệp và 20,4% là 
qua Bộ Thương mại và VCCI. Qua đó thấy rằng các DNVVN còn rất thụ 
động trong việc tìm thị trường, khách hàng, còn phụ thuộc nhiều vào khách 
hàng và hầu như hoàn toàn thụ động trong việc tiếp cận với thị trường và 
định hướng khách hàng, hiếm khi chủ động tìm kiếm khách hàng mới, nắm 
bắt và tham gia vào các hoạt động tiếp thị năng động trong nước hay quốc 
tế, hoặc thử nghiệm các mẫu sản phẩm mới. Điều này có nghĩa là nhiều 
doanh nghiệp tiếp tục sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng thấp, phạm 
vi cải tiến bó hẹp - những sản phẩm mà đến lượt nó lại phải chịu ảnh hưởng 
của những người bán hàng quốc tế hùng mạnh, đặc biệt là trong giai đoạn 
hiện nay theo sự phá giá tiền tệ ở một số nước đối thủ cạnh tranh. 
Do thiếu thông tin và kèm theo những yếu điểm về công nghệ, trình 
độ quản lý, nên doanh nghiệp gặp nhiều rủi ro khi xuất khẩu. Nhiều doanh 
nghiệp chỉ có thông tin về khách hàng, đối thủ cạnh tranh một cách chắp 
vá, vì vậy rơi vào tình trạng hoặc chịu thua thiệt về giá hoặc khó định hướng 
được đầu tư. Hầu hết DNVVN Việt Nam chỉ biết dựa vào chi phí sản xuất 
và giá chào hàng của doanh nghiệp khác, dễ dàng đánh mất nhiều cơ hội 
kinh doanh quí báu. Sức cạnh tranh, vị thế của doanh nghiệp Việt Nam trên 
thương trường quốc tế rất non yếu. 
Trên thực tế, các DNVVN nước ta chủ yếu gia công cho các tổ chức 
thương mại trong và ngoài nước, hoặc xuất khẩu uỷ thác qua các doanh 
nghiệp nhà nước qui mô lớn. Do khoảng trống thông tin tồn tại giữa thị 
trường Việt Nam và thế giới bên ngoài, doanh nghiệp phải phụ thuộc sâu sắc 
vào các tổ chức trung gian, bị ép giá và phải chia sẻ một khoản đáng kể 
trong lợi nhuận thu được. Nhà xuất khẩu không hề biết hiệu quả của công 
việc như thế nào, một khi sản phẩm rời nhà máy doanh nghiệp không biết 
điều gì sẽ xảy ra với sản phẩm của mình. 
Một khảo sát do “Chương trình phát triển dự án Mekong về DNVVN 
(MPDF)” tiến hành về các doanh nghiệp xuất khẩu khu vực tư nhân xét theo 
'Thành công" và "Không thành công" cho thấy rằng, 'Thành công" của một 
doanh nghiệp phụ thuộc vào một số yếu tố, trong đó có: tiếp cận thị trường 
trực tiếp thay vì sử dụng các trung gian thương mại; lựa chọn sản phẩm có 
giá trị gia tăng cao thay vì các sản phẩm có giá trị gia tăng thấp; xác định 
được mảng thị trường có nhu cầu lớn trong nước (thực phẩm, hàng tiêu dùng 
cơ bản) hoặc một mảng thị trường có lợi tức cao trên thị trường xuất khẩu 
(hạt điều, cà phê, hải sản và hàng may mặc) - thay vì không biết về thị 
trường tiêu thụ cuối cùng hoặc về người tiêu thụ cuối cùng; có những bạn 
hàng lâu dài và xây dựng chiến lược thị trường đa dạng, ổn định thay vì quá 
tập trung vào một số thị trường nào đó. Đáng tiếc là, hiện nay rất đông 
DNVVN Việt Nam có đặc điểm sản xuất kinh doanh rơi vào trường hợp 
"Không thành công". Trong khi kim ngạch xuất khẩu của các DNVVN 
chiếm tới 70% kim ngạch của cả nền kinh tế thì vấn đề đã trở nên không còn 
đơn giản nữa. 
Các cơ chế để doanh nghiệp có thể hợp tác thường xuyên với nhau 
còn thiếu trầm trọng ở Việt Nam, một phần là do nhận thức yếu kém về lợi 
ích mà hợp tác mang lại và một phần khác là do Nhà nước thiếu biện pháp 
khuyến khích, tạo điều kiện. Sản xuất của DNVVN riêng rẽ, manh mún khó 
có hiệu quả kinh tế theo qui mô. Chưa xác lập được vai trò thầu phụ với 
doanh nghiệp lớn, liên kết sản xuất phân đoạn giữa các DNVVN chưa có . 
Mối quan hệ “Vệ tinh- trung tâm” với các doanh nghiệp lớn chưa tồn tại ở 
Việt nam trong khi đây là chìa khoá cho thành công của nhiều DNVVN của 
nhiều nền kinh tế trên thế giới- điển hình là Nhật bản. Tình hình liên doanh 
đầu tư với tư nhân trong nước còn rất ít, chủ yếu là liên doanh giữa tư bản 
nước ngoài với Doanh nghiệp nhà nước qui mô lớn. Giữa các DNVVN cùng 
ngành chưa có hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau nên chưa tạo nên sức mạnh để mở 
rộng thị trường. 
Cũng do mang nặng các tính chất của một nền sản xuất nhỏ, phân tán 
cho nên khi tham gia vào thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp Việt Nam rơi 
vào tình trạng cạnh tranh lẫn nhau trên thương trường, trong số đó, không ít 
là cạnh tranh không lành mạnh : " ta lại đánh ta", "doanh nghiệp này phá 
doanh nghiệp kia, địa phương này phá địa phương kia" 1(Trích câu nói của 
Thủ tướng Phan Văn Khải tại cuộc gặp gỡ các doanh nghiệp trong hai ngày 
18-19/3/2000 tại TP Hồ Chí Minh). Các đối tác nước ngoài đã nhanh chóng 
nhận ra đặc điểm này, và kết quả là giá xuất khẩu hàng Việt Nam đã do 
chính các doanh nghiệp Việt Nam hạ xuống đến mức thấp không thể chấp 
nhận được, cả doanh nghiệp lẫn nền kinh tế quốc dân phải gánh chịu những 
thiệt hại lớn. 
Các hiệp hội kinh doanh, các cơ quan xúc tiến của Nhà nước chưa 
thực sự hỗ trợ cho doanh nghiệp. Mặc dù thời gian qua quan hệ Chính phủ - 
doanh nghiệp đã có những bước cải thiện đáng kể thể nhưng nhìn chung 
quan hệ này mới thông nhưng còn chưa thoáng, Chính phủ đã tiếp thu kiến 
nghị của DN song mới chỉ ở những giải pháp tình thế, chưa có tính cơ bản 
và triệt để và mang tính lâu dài và đặc biệt chưa xoá bỏ sự phân biệt giữa 
1 Trích câu nói của Thủ tướng Phan Văn Khải trong cuộc gặp gỡ các doanh nghiệp, ngày 18-
19/3/2000 tại Thành phố Hồ Chí Minh 
DNNN và doanh nghiệp tư nhân-tiêu biều cho các DNVVN, làm cơ sở cho 
sự phát triển các DNVVN. Qua đó, các DNVVN chưa có khả năng tự thiết 
lập hệ thống thông tin thị trường, xây dựng các hoạt động xúc tiến thương 
mại, thêm vào đó cũng không gặp thuận lợi khi tiếp cận với các kênh thông 
tin, các hiệp hội xúc tiến xuất khẩu. DNVVN chưa được hưởng các chính 
sách ưu đãi công bằng như các doanh nghiệp Nhà nước qui mô lớn. Chẳng 
hạn việc phân bổ quota, việc sử dụng thông tin của bộ chủ quản các 
DNNN mặc dù hoạt động kém hiệu quả song được hưởng nhiều ưu đãi hơn 
các doanh nghiệp tư nhân. 
Phát triển mạnh DNVVN là một chiến lược trong quá trình công 
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt nam nhưng hiện tại ở Việt Nam DNVVN 
đang gặp rất nhiều khó khăn và tồn tại, chưa thể phát huy tiềm năng và 
những lợi thế kinh tế-xã hội to lớn của mình. Trong đó những hạn chế nổi 
bật là về vốn, công nghệ, nhân lực, thông tin, sản phẩm-thị trường. 
MỤC LỤC 
Chương I. Những cơ sở lý luận chung của doanh nghiệp vừa và nhỏ 
1. Khái niệm của doanh nghiệp vừa và nhỏ 
2. Tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ 
3. Ưu thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ 
4. Hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ 
5. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ 
6. Pháp luật chi phối doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam 
Chương II. Thực trạng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam 
I. Quá trình hình thành và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam 
1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực công nghiệp 
2. Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực thương mại dịch vụ 
3. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực nông thôn 
II. Tác động của các chính sách vĩ mô đến sự phát triển của các doanh 
nghiệp vừa và nhỏ 
1. Tác động của chính sách thương mại 
2. Tác động cảu chính sách tài chính tiền tệ 
3. Tác động của chính sách đất đai 
4. Tác động của chính sách công nghệ, giáo dục đào tạo 
5. Tác động của chính sách hợp tác quốc tế về các doanh nghiệp vừa và nhỏ 
III. Thực trạng và những tồn tại của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam 
1. Vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ 
2. Tình hình thiết bị công nghệ 
3. Trình độ nhân lực, lao động và quản lý 
4. Tình hình và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ về 
sản phẩm, thị trường 
 KẾT LUẬN 
Trong thời gian qua với những chủ trương, chính sách đầu tư phát 
triển của nhà nước các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta phát triển nhanh 
chóng và có những đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng và phát triển nền 
kinh tế quốc dân. Tuy nhiên sự phát triển của các doanh nghiệp này trong 
thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế. Điều này chứng tỏ tiềm năng của 
chúng ta vẫn còn chưa được khai thác triệt để chính vì vậy trong thời gian 
qua em đã tập trung vào nghiên cứu những khó khăn, tồn đọng của doanh 
nghiệp vừa và nhỏ. Từ đó đưa ra một số giải pháp hỗ trợ nhằm nâng cao hơn 
nữa hiệu quả của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế nhiều thành 
phần của nước ta hiện nay. Tuy chưa phải là tất cả nhưng em hy vọng rằng 
với những giải pháp đó phần nào hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh 
nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam trong thời gian tới. 
Tuy đã gắng nhiều, nhưng do trình độ của bản thân, cùng với thời 
gian có hạn và kinh nghiệm thực tế chưa nhiều nên không thể không mắc 
phải những sai sót. Em rất mong được sự góp ý của thầy và các bạn để đề tài 
được hoàn thiện hơn. 

File đính kèm:

  • pdfde_tai_giai_phap_ho_tro_cac_doanh_nghiep_vua_va_nho_tai_viet.pdf