Đề tài Chính sách ngoại thương Việt Nam hiện nay

1. VÀI NÉT VỀ NGOẠI THƯƠNG HIỆN NAY:

Ngoại thương nước ta trong thời gian qua đã thực sự giúp cho nền kinh tế đất nước

khai thác thế mạnh trong sản xuất hàng hóa về xuất khẩu. Ngoại thương đóng góp rất

lớn cho tốc độ tăng trưởng kinh tế và thay đổi bộ mặt nền công nghiệp, dịch vụ và cả

trong sản xuất nông nghiệp nữa. Để có thể hiểu rõ chính sách ngoại thương của nhà

nước ta trong giai đoạn hiện nay, chúng ta sẽ cùng phân tích những điều kiện thuận lợi

cũng như bất lợi cho sự phát triển ngoại thương của đất nước.

1.1. Những lợi thế trong phát triển ngoại thương của Việt Nam:

Lợi thế về vị trí địa lý:

Việt Nam nằm trong vùng Đông Nam châu Á, là vùng có tốc độ tăng trưởng kinh

tế cao nhất thế giới, bình quân mỗi nước ở khu vực này mức tăng trưởng kinh tế đạt 6-

7% năm.Viện Nam nằm trên tuyến đường giao lưu hàng hải quốc tế; ven biển. nhất là

từ Phan Thiết trở vào có nhiều cảng nước sâu tàu bè có thể cập bến an toàn quanh

năm.Sân bay Tân Sơn Nhất nằm ở vị trí lý tưởng, cách đều các thủ đô thành phố quan

trọng trong vùng Đông Nam Á. Vị trí địa lý thuận lợi cho phép ta mở rộng quan hệ

kinh tế ngoại thương và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

Lợi thế về tài nguyên thiên nhiên:

So với một số nước khác thì nước ta thuộc loại có tài nguyên tương đối phong phú:

• Về đất đai: diện tích đất đai cả nước khoảng 330.363 Km2 trong đó có tới

khoảng 50% là đất vào nông nghiệp và ngư nghiệp. Khi hậu nhiệt đới mưa

nắng điều hòa cho phép chúng ta phát triển nông lâm sản xuất khẩu có hiệu

quả cao như gạo, cao su và các nông sản nhiệt đới. Chiều dài bờ biển bờ

biển, diện tích sông ngòi và ao hồ cho phép phát triển ngành thủy sản xuất

khẩu và phát triển thủy lợi, vận tải biển và du lịch.

• Về khoáng sản: dầu mỏ hiện nay là nguồn tài nguyên mang lại nguồn thu

ngoại tệ đáng kể, sản lượng khai thác hàng năm gia tăng và là nơi thu hút

hiều vốn đầu tư nước ngoài. Than đá trữ lượng cao, mỏ sắt với trữ lượng vài

trăm triệu tấn; cả 3 miền Bắc, Nam, Trung, đều có nguồn clanh-ke để sản

xuất xi măng dồi dào.

Lợi thế về lao động:

Đây là thế mạnh của nước taLao động dồi dào, giá nhân công rẻ;tỷ lệ thất nghiệp

lớn. Lao động là 1 lợi thế cơ bản để phát triển các ngành hàng sử dụng nhiều lao động

như dệt, may, chế biến nông lâm thủy sản, lắp ráp sản phẩm điện, điện tử .

pdf 26 trang chauphong 20/08/2022 40870
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Chính sách ngoại thương Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề tài Chính sách ngoại thương Việt Nam hiện nay

Đề tài Chính sách ngoại thương Việt Nam hiện nay
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
KHOA KINH TẾ - LUẬT 
KINH TẾ HỌC QUỐC TẾ 
GVHD : Hoàng Vĩnh Long 
Đề tài: 
Chính sách ngoại thương Việt Nam hiện 
nay. 
Lời mở đầu 
Trong xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới và khu vực, nước ta đã và 
đang từng bước hòa mình để phát triển kinh tế và mở rộng quan hệ đối ngoại. Việc 
buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa nước ta và các nước trong khu vực cũng như với các 
nước trên thế giới ngày càng đa dạng phong phú. 
Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh 
đạo, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế 
tham gia sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu. Nhờ đó, một số sản phẩm hàng hóa và 
dịch vụ của nước ta không những đứng vững ở thị trường trong nước, mà còn có khả 
năng vươn ra thị trường nước ngoài, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu. 
Song song với chủ trương khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, hoạt động nhập 
khẩu cũng được xác định có vai trò hết sức quan trọng được Đảng và Nhà nước quan 
tâm, hướng mục tiêu phục vụ cho sự phát triển thị trường nội địa, cho sự nghiệp công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nhanh chóng hội nhập với khu vực và thế giới. 
Để quản lý được các hoạt động mua bán với các nước, Nhà nước đã có nhiều 
biện pháp, trong đó thuế xuất nhập khẩu là một trong những công cụ chủ yếu. Thông 
qua việc ban hành và thực thi chính sách thuế xuất nhập khẩu, chúng ta có thể nắm đủ 
tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa, tạo điều kiện cho nhà nước có căn cứ đề ra chính 
sách ngoại thương đúng đắn, cân đối cung, cầu hàng hóa xuất nhập khẩu và cân bằng 
cán cân thanh toán. 
Do đó với đề tài “Chính sách ngoại thương của Việt Nam hiện nay” chúng 
em muốn tập trung nghiên cứu về Chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam. 
Đây là một nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đối với ngoại thương Việt Nam. Và với xu 
thế toàn cầu hóa Nhà nước cần có những điều chỉnh sao cho phù hợp với thế giới và 
tạo điều kiện thuận lợi cho ngoại thương Việt Nam phát triển. 
Trong quá trình nghiên cứu và thảo luận về đề tài, nhóm đã rất cố gắng nhưng 
chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế, mong được sự sửa chữa, 
đóng góp quí báu của thầy và các bạn! 
Xin chân thành cảm ơn! 
Nhóm 8 
Lớp K08402A 
1. VÀI NÉT VỀ NGOẠI THƯƠNG HIỆN NAY: 
Ngoại thương nước ta trong thời gian qua đã thực sự giúp cho nền kinh tế đất nước 
khai thác thế mạnh trong sản xuất hàng hóa về xuất khẩu. Ngoại thương đóng góp rất 
lớn cho tốc độ tăng trưởng kinh tế và thay đổi bộ mặt nền công nghiệp, dịch vụ và cả 
trong sản xuất nông nghiệp nữa. Để có thể hiểu rõ chính sách ngoại thương của nhà 
nước ta trong giai đoạn hiện nay, chúng ta sẽ cùng phân tích những điều kiện thuận lợi 
cũng như bất lợi cho sự phát triển ngoại thương của đất nước. 
1.1. Những lợi thế trong phát triển ngoại thương của Việt Nam: 
 Lợi thế về vị trí địa lý: 
Việt Nam nằm trong vùng Đông Nam châu Á, là vùng có tốc độ tăng trưởng kinh 
tế cao nhất thế giới, bình quân mỗi nước ở khu vực này mức tăng trưởng kinh tế đạt 6-
7% năm.Viện Nam nằm trên tuyến đường giao lưu hàng hải quốc tế; ven biển. nhất là 
từ Phan Thiết trở vào có nhiều cảng nước sâu tàu bè có thể cập bến an toàn quanh 
năm.Sân bay Tân Sơn Nhất nằm ở vị trí lý tưởng, cách đều các thủ đô thành phố quan 
trọng trong vùng Đông Nam Á. Vị trí địa lý thuận lợi cho phép ta mở rộng quan hệ 
kinh tế ngoại thương và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. 
 Lợi thế về tài nguyên thiên nhiên: 
So với một số nước khác thì nước ta thuộc loại có tài nguyên tương đối phong phú: 
• Về đất đai: diện tích đất đai cả nước khoảng 330.363 Km2 trong đó có tới 
khoảng 50% là đất vào nông nghiệp và ngư nghiệp. Khi hậu nhiệt đới mưa 
nắng điều hòa cho phép chúng ta phát triển nông lâm sản xuất khẩu có hiệu 
quả cao như gạo, cao su và các nông sản nhiệt đới. Chiều dài bờ biển bờ 
biển, diện tích sông ngòi và ao hồ cho phép phát triển ngành thủy sản xuất 
khẩu và phát triển thủy lợi, vận tải biển và du lịch. 
• Về khoáng sản: dầu mỏ hiện nay là nguồn tài nguyên mang lại nguồn thu 
ngoại tệ đáng kể, sản lượng khai thác hàng năm gia tăng và là nơi thu hút 
hiều vốn đầu tư nước ngoài. Than đá trữ lượng cao, mỏ sắt với trữ lượng vài 
trăm triệu tấn; cả 3 miền Bắc, Nam, Trung, đều có nguồn clanh-ke để sản 
xuất xi măng dồi dào. 
 Lợi thế về lao động: 
Đây là thế mạnh của nước taLao động dồi dào, giá nhân công rẻ;tỷ lệ thất nghiệp 
lớn. Lao động là 1 lợi thế cơ bản để phát triển các ngành hàng sử dụng nhiều lao động 
như dệt, may, chế biến nông lâm thủy sản, lắp ráp sản phẩm điện, điện tử. 
1.2. Những hạn chế ảnh hưởng đến sự phát triển của Ngoại thương: 
Diện tích đất canh tác bình quân đầu người của ta thấp so với bình quân của thế 
giới. Sản lượng lương thực có cao nhưng trước hết phải đảm bảo nhu cầu của dân nên 
không thể tạo ra 2 nguồn tích lũy lớn cho những đòi hỏi cao của sự phát triển kinh tế. 
Về tài nguyên tuy có phong phú nhưng phân bố tản mạn. Giao thông vận tải kém 
nên khó khai thác, trữ lượng chưa xác định và chưa khoáng sản nào có trữ lương lớn 
để trở thành mặt hàng chiến lược. Tài nguyên rừng, biển, thủy sản bị khai thác quá 
mức mà không được chăm bối. 
Vị trí địa lý hẹp nhưng cơ sở hạ tầng yếu kém, các hải cảng ít và nhỏ, đường xá và 
phương tiện giao thông lạc hậu. 
Trình độ quản lý kinh tế, xã hội kém, bộ máy chính quyền kém hiệu quả, quan lieu, 
tham nhũng; chính sách, pháp luật không rõ ràng, thiếu đồng bộ, lại hay thay đổi gây 
cản trở cho quá trình đổi mới kinh tế. 
Trình độ quản lý của cán bộ và tay nghề công nhân còn thấp cho nên năng suất lao 
động thấp, chất lượng hàng hóa chưa cao. 
Công nghệ và trang thiết bị của nhiều ngành kinh tế còn ở trình độ thấp, hàng hóa 
của Việt Nam chưa mang tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 
Những năm đầu thế kỷ 21, trong xu hướng toàn cầu hóa, Việt Nam có nhiều điều 
kiện thuận lợi để phát triển hoạt động kinh tế ngoại thương, tạo điều kiện cho đất nước 
hòa nhập với nền kinh tế kinh tế thế giới. Tuy nhiên còn có nhiều khó khăn trở ngai 
cho tiến trình này. Việc đề ra một đường lối phát triển ngoại thương phù hợp cho phép 
khai thác nhưng những lợi thế, hạn chế tối thiểu những trở ngại mang tính cấp bách và 
thiết thực. 
1.3. TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY: 
1.3.1. Xuất khẩu: 
 Vai trò của xuất khẩu trong giai đoạn hiện nay: 
Xuất khẩu hàng hóa không chỉ đơn giản là bán hàng hóa ra nước ngoài, xuất khẩu 
có tầm quan trọng đặc biệt trong việc phát triển kinh tế đất nước. Tầm quan trọng của 
xuất khẩu thể hiện qua các vai trò sau: 
• Thứ nhất, xuất khầu tạo ra nguồn vốn quan trọng để thỏa mãn nhu cầu nhập 
khẩu và tích lũy phát triển sản xuất. 
• Thứ hai, đẩy mạnh xuất khẩu được xem như là yếu tố quan trọng kích thích sự 
tăng trưởng kinh tế: Việc đẩy mạnh xuất khẩu cho phép mở rộng quy mô sản 
xuất , nhiều ngành nghề mới ra đời phục vụ cho xuất khẩu gây phản ứng dây 
chuyền giúp các ngành kinh tế khác phát triển theo, kết quả là tăng tổng sản 
phẩm xã hội và nền kinh tế phát triển theo, kết quả là tăng tổng sản phẩm xã hội 
và nền kinh tế phát triển nhanh , hiệu quả. 
• Thứ ba, xuất khẩu có vai trò kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản 
xuất: Để đáp ứng yêu cầu cao của thị trường về quy cách, chất lượng sản phẩm 
thì một mặt phải đổi mới trng thiết bị phục vụ sản xuất, một mặt người lao động 
phải nâng cao tay nghề, học hỏi những kinh nghiệm sản xuất tiên tiến. 
• Thứ tư, đầy mạnh xuất khẩu có vai trò tác động đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế 
ngành theo hướng sử dụng có hiệu quả nhất lợi thế so sánh tuyệt đối và tương 
đối của đất nước. 
• Thứ năm, đẩy mạnh xuất khẩu làm cho sản lượng sản xuất của quốc gia sẽ tăng 
thông qua mở rộng với thị trường quốc tế. 
• Thứ sáu, đẩy mạnh phát triển xuất khẩu có tác động tích cực và có hiệu quả 
đến nâng cao mức sống của nhân dân. 
• Thứ bảy, đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường hợp tác quốc tế giữa các 
nước. 
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu là hướng phát triển có tính chất chiến lược để đưa 
nước ta thành nước công nghiệp mới trong giai đoạn hiện nay. 
 Định hướng phát triển xuất khẩu giai đoạn 2001-2010 
Mục tiêu hành động của thời kỳ này là tiếp tục chủ trương giành ưu tiên cao 
nhất cho xuất khẩu; tạo nguồn hàng có chất lượng, có giá trị gia tăng và sức mạnh 
cao để xuất khẩu, góp phần giải quyết việc làm cho xã hội, tạo nguồn dự trữ ngoại 
tệ, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xuất khẩu hàng hóa và 
dịch vụ thời kỳ 2001- 2010 phải đạt mức tăng tưởng bình quân từ 15% năm trở lên. 
Dựa vào kết quả xuất khẩu giai đoạn 10 năm, 1990- 2000, tốc độ xuất khẩu 
nước ta tăng trưởng bình quân 22% năm, Chính phủ đã đưa ra 1 định hướng phấn 
đấu tăng trưởng thấp hơn nhiều giai đoạn trước đó. Chỉ tiêu phấn đấu này phù hợp 
với tình hình thực tế, dự kiến, sau năm 2005, khi nhà máy lọc dầu Dung Quất đi 
vào hoạt động, kim ngạch xuất khẩu dầu thô sẽ giảm, trong khi phần kim ngạch 
này chiếm tỷ trọng khoảng 20% so với tổng kim ngạch xuất khẩu. 
Về cơ cấu hàng xuất khẩu, Chiến lược xuất khẩu giai đoạn 2001-2010 định ra 
rằng “ cơ cấu xuất khẩu phải được chuyển dịch mạnh theo hướng tăng các sản 
phẩm biến chế, chế tạo, chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất 
xám cao; bên cạnh đó phải quan tâm khai thác các mặt hàng chủ yếu sử dụng 
nguyên vật liệu tại chỗ, sử dụng nhiều lao động mà thị trường trong cũng như 
ngoài nước có nhu cầu; đồng thời phải khai thác mọi nguồn hàng có khả năng xuất 
khẩu. 
Cơ cấu xuất khẩu hiện nay của chúng ta mặt hàng thô vẫn còn chiếm tỷ trọng 
rất cao.Tỷ trọng mặt hàng điện tử và dệt may có gia tăng, nhưng rõ ràng, các sản 
phẩm “chế tạo” của chúng ta chiếm tỷ trọng còn rất bé trong tổng kim ngạch xuất 
khẩu. 
Chiến lược xuất khẩu giai đoạn 2001-2010 còn nêu các vấn đề về cơ sơ hạ tầng, về 
qui hoạch sản xuất và thị trường xuất khẩu như sau: 
- chú trọng nâng cao giá trị gia công và chất lượng từng sản phẩm xuất khẩu; 
giảm xuất khẩu chế biến thô, tăng tỷ trọng hàng chế biến sâu bằng công nghệ 
mới. 
- phải có qui hoạch vùng cho từng nhóm sản phẩm; từng bước xây dựng tiêu 
chuẩn chất lượng quốc gia cho các loại hàng hóa xuất khẩu với nhãn hiệu “sản 
xuất tại Việt Nam”. 
Sản phẩm xuất khẩu phải đáp ứng được những yêu cầu đa dạng của thị trường thế 
giới, đặc biệt là yêu cầu về chất lượng, mẩu mã hàng hóa. Mối loại hàng hóa phải 
hình thành được thị trường chính, chủ lực và tập trung khả năng mở rộng các thị 
trường này, đồng thời chủ động mở rộng sang các thị tường khác theo hướng đa 
phương hóa, đa dạng hóa theo quan hệ buôn bán, từng bước giảm dần việc xuất 
khẩu qua cá thị trường trung gian. Định hướng chung là tận dụng mọi khả năng để 
duy trì tỷ trọng xuất khẩu hợp lý vào các thị trường đã có ở châu Á, Nhật; thị 
trường có sức mua lớn như Mỹ, Tây Âu, thâm nhập Đông Âu, châu Mỹ , Phi. 
 Một số chính sách có thể sử dụng nhằm hỗ trợ và đẩy mạnh xuất khẩu: 
• Xây dựng các mặt h ... cam kết, nhằm tạo áp lực buộc các DN trong nước vươn lên, 
nâng cao năng lực cạnh tranh gay gắt khi thực hiện mở cửa thị trường, tự do hóa 
thương mại, dịch vụ. Đồng thời cần thiết nghiên cứu và ban hành một số loại thuế mới 
nhằm bảo vệ thị trường nội địa và đảm bảo cạnh tranh lành mạnh như: thuế chống bán 
phá giá, thuế đối kháng 
 Bốn là, các biện pháp ưu tiên, ưu đãi, miễn giảm rất có ý nghĩa đối với việc khuyến 
khích đầu tư, thực hiện điều tiết vĩ mô, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, và thực hiện 
các chính sách xã hội, đặc biệt là trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế. Tuy nhiên, 
cần xác định thời hạn miễn giảm cụ thể, sau đó hạn chế và chuyển dần sang thực hiện 
các biện pháp khác để đảm bảo tính trung lập và vai trò phân bổ các nguồn lực của 
thuế, đảm bảo tính công bằng và đảm bảo các cam kết với WTO. 
 -Đối với thuế xuất khẩu: 
 Để đảm bảo khuyến khích tối đa hoạt động xuất khẩu, chỉ thực hiện thu thuế xuất 
khẩu đối với các mặt hàng xuất khẩu mà VN đã có thị trường ổn định hoặc là nguyên 
liệu thô cần cho sản xuất trong nước như quặng thô, phế liệu kim loại...Cần điều chỉnh 
theo hướng giảm và tiến tới bỏ thuế xuất khẩu đối với một số mặt hàng như may mặc, 
da giày, nông sản chế biến để khuyến khích xuất khẩu. 
 - Thuế nhập khẩu: 
o Giảm bớt số mức thuế nhập khẩu và mức thuế cao nhất: hiện nay nước ta 
có 18 mức thuế nhập khẩu, mức thuế cao nhất là 60%. Để phù hợp với 
yêu cầu hội nhập ta phải giảm dần mức thuế cao nhất và giảm số lượng 
mức thuế. Về lâu dài, mức thuế phù hợp với yêu cầu AFTA là 0 - 5%, 
nhưng trước mắt ta phải giảm dần, song đối với các mặt hàng mà nước ta 
không có tiềm năng lợi thế và chưa có khả năng sản xuất trong những 
năm sắp tới, những mặt hàng là nguyên liệu vật tư quan trọng và chủ yếu 
cho sản xuất các ngành có thế mạnh cạnh tranh và xuất khẩu...thì cần xây 
dựng mức thuế nhập khẩu thấp hơn mức bảo hộ cấp I. Trong tương lai, 
biểu thuế nhập khẩu hoàn thiện là 8 mức 0%, 3%, 5%, 10%, 20%, 30%, 
40% và 50%. Đồng thời mức thuế cao nhất là 60% cũng được giảm 
xuống còn 50%. 
o Cần xác định rõ mức thuế nhập khẩu tạm thời cho các loại hàng hóa đặc 
biệt: trong luật thuế hiện hành chúng ta chưa có quy định về mức thuế 
tạm thời đối với một số loại hàng nhập khẩu mà giá bán của nước xuất 
khẩu quá thấp so với giá thành của hàng hóa nhằm gây rối hoặc có tính 
chất đe dọa sự phát triển sản xuất trong nước. Vì vậy cần phải có quy 
định về thuế suất tạm thời nhằm chống lại tình trạng bán phá giá, hoặc 
hộ giá để nhằm cạnh tranh không lành mạnh. 
 Đây là những biện pháp đối phó với những hành động cạnh tranh không lành mạnh 
trong thương mại quốc tế được nhiều nước áp dụng. 
 - Cần rà soát biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để phát hiện những điều bất hợp 
lý, trên cơ sơ đó hiệu chỉnh danh mục, mức thuế xuất khẩu nhập khẩu cho phù hợp, 
chuẩn xác nhằm hạn chế việc áp dụng sai thuế suất. 
 - Tiến hành thực hiện Hiệp định xác định trị giá hải quan theo WTO. Giá tính thuế 
nhập khẩu phải dựa trên cơ sơ mức giá trung bình trên thị trường thế giới hoặc mức giá 
được ghi trong hợp đồng nhập khẩu. 
 - Tăng cường bồi dưỡng đào tạo nâng cao trình độ nhận thức, khả năng vận dụng 
và tổ chức thực hiện luật pháp của các cán bộ ngành thuế và ngành hải quan. Bên 
cạnh các biện pháp giáo dục, kỷ luật hành chính, cần chú ý tới việc gắn trách nhiệm 
với lợi ích vật chất đối với các cán bộ này. Cần đổi mới, trang bị 
phương tiện làm việc của đội ngũ tuần tra chống buôn lậu trốn thuế. Cải tiến quy trình 
thu thuế xuất nhập khẩu, góp phần thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu hợp lý phục vụ 
cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 
Hiện: Bộ Công thương vừa có quy định cho phép 35 loại hàng hóa được sản xuất 
từ các nước có chung biên giới nhập khẩu vào Việt Nam dưới hình thức mua, 
bán, trao đổi hàng hóa cư dân biên giới thời kỳ 2010 – 2012. 
Các loại hàng hóa này sẽ được miễn thuế nhập khẩu và các loại thuế khác (nếu 
có) với giá trị không quá 2 triệu đồng/người/lượt, trong thời gian từ 1/6/2010 tới hết 
ngày 31/12/2012. 
Việc cắt giảm thuế xuất khẩu, nhập khẩu theo biểu thuế mới ban hành kèm theo 
Thông tư 216/TT-BTC nằm trong lộ trình cắt giảm thuế quan theo cam kết của Việt 
Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Cụ thể, các mức thuế suất được 
cắt giảm hơn so với mức thuế hiện hành từ 1% đến 6%, trong đó mức giảm chủ yếu là 
2% - 3%. 
Theo biểu thuế mới, có tổng cộng 1.654 dòng thuế phải thực hiện cắt giảm theo cam 
kết WTO. Trong số các nhóm hàng giảm theo cam kết và gộp thuế, đối với các nhóm 
hàng có kim ngạch nhập khẩu lớn nhất là xăng dầu, ô tô xe máy, linh kiện và máy móc 
trang thiết bị, sắt thép thì các mức thuế cho các nhóm này đều là mức trần WTO (trừ 
xăng dầu). 
Đọc thêm: 
Hiện tại, Việt Nam đã thực hiện các chương trình cắt giảm thuế theo yêu cầu 
của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), thực hiện tự do hóa thương mại và 
đầu tư vào APEC đến năm 2020. 
Từ ngày 11/1/2007 nước ta đã chủ động thực hiện các cam kết ràng buộc 
toàn bộ Biểu thuế nhập khẩu gồm 10.689 dòng thuế, mức giảm bình quân từ 
17,4% xuống còn 13,4% với lộ trình thực hiện sau 5 đến 7 năm và công bố cắt 
giảm 1.812 dòng thuế nhập khẩu với mức thuế suất giảm bình quân là 14,5%. 
Từ 1/1/2008, theo cam kết với WTO, sẽ có khoảng 1.700 dòng thuế được cắt 
giảm, với mức giảm phổ biến từ 1- 6%, mức giảm này không chênh lệch quá 
lớn so với sắc thuế hiện hành. Từ năm 2009 sẽ tiếp tục giảm khoảng 2.000 
dòng thuế của hơn 20 nhóm hàng với mức tối đa khoảng 2%. Trong những 
năm tới, thực hiện các cam kết với WTO Việt Nam tiếp tục cắt giảm thuế suất 
nhiều hơn đối với hàng nghìn dòng thuế, không chỉ có thế mà thực hiện cắt 
giảm thuế quan và hàng rào phi thuế quan theo nhưng cam kết song phương 
và khu vực. 
Như vậy, tuy việc cắt giảm hàng loạt các dòng thuế theo các cam kết đa 
phương và song phương, khu vực và thế giới được thực hiện ngày càng sâu 
rộng đối với hàng nhập khẩu thì kim ngạch nhập khẩu vẫn tăng, thể hiện ở 
hiện tượng nhập siêu năm 2007 là 14,1200 tỷ USD và 6 tháng đầu năm nay 
đã vượt cả năm trước đây. Nguyên nhân của số thu NSNN tăng mạnh trong 
thời gian qua, do hiện tượng nhập siêu gia tăng nhanh chóng từ khi Việt Nam 
trở thành thành viên chính thức của WTO. 
Giải pháp khắc phục nhập siêu 
Quá trình thực hiện các hiệp định thương mại song phương, khu vực và đa 
phương (trong đó có WTO) thì việc giảm thuế suất ngày càng sâu rộng đối với 
hàng nhập khẩu là một tất yếu khách quan. Việc cắt giảm các dòng thuế suất 
này trong thời gian gần đây của nước ta là một trong những nguyên nhân dẫn 
đến hiện tượng nhập khẩu tăng cao, đã dẫn đến nhập siêu lớn đe dọa cân đối 
nền kinh tế vĩ mô, làm tăng tỷ giá ngoại hối và còn tác động đến lạm phát cao 
ở trong nước. Vì vậy, việc triển khai một số một số giải pháp quản lý nhập 
khẩu mới phù hợp với quy định của WTO là hết sức cần thiết. 
Việc giảm thuế quan theo các cam kết đa phương, khu vực và song phương 
có mặt tích cực như giảm chi phí đầu vào cho nhiều sản phẩm trong nước, tạo 
sức thúc ép các doanh nghiệp phải đổi mới, nâng cao sức cạnh tranh để giữ 
vững thị trường và hơn thế còn khai thác thuận lợi để đẩy mạnh xuất khẩu (do 
cũng được các thành viên WTO giảm thuế và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan 
đối với hàng hoá Việt Nam). Bởi vậy, giải pháp hàng đầu là nâng cao sức 
cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Trên cơ sở 
sản xuất, kinh doanh, quy mô thương mại trong nước và xuất khẩu đều phát 
triển mạnh thì nguồn thu NSNN sẽ tăng trưởng nhanh và bền vững. 
Trong năm 2008 và những năm tới, tình trạng nhập siêu còn trầm trọng hơn 
do hậu quả của chính sách bảo hộ thời kỳ tiền gia nhập WTO. Trong điều kiện 
thực hiện chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, hội nhập nền kinh 
tế khu vực và thế giới, cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý phù hợp với bối 
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là chức năng bảo hộ của thuế nhập 
khẩu cần được điều chỉnh lại cho phù hợp. Trước mắt cần xây dựng Biểu thuế 
nhập khẩu cho phù hợp với định hướng bảo vệ có chọn lọc đối với ngành 
hàng kinh tế trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Các dòng thuế nhập 
khẩu cần điều chỉnh theo hướng bảo vệ, hỗ trợ những ngành sản xuất có khả 
năng cạnh tranh trong một điều kiện với một thời hạn và xuất khẩu trên thị 
trường khu vực và thế giới, góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cầu kinh tế, 
định hướng phát triển các ngành kinh tế phù hợp với mục tiêu đặt ra. Bảo hộ 
cũng cần có lộ trình giảm dần, có như vậy chính sách bảo hộ mới có tác dụng 
nâng cao sức cạnh tranh mà vẫn không phải triệt tiêu sức canh tranh của 
hàng hóa trong nước. Về lâu dài, việc điều hành chính sách thuế nhập khẩu 
nên dựa trên quan điểm coi đó là một công cụ bảo hộ sản xuất trong nước 
chứ không phải là một nguồn thu quan trọng. Có như vậy, thuế suất thuế nhập 
khẩu mới đáp ứng được là một hàng rào hữu hiệu để hạn chế nhập siêu và 
bảo hộ sản xuất trong nước. Đây là xu hướng tất nhiên khi thực hiện những 
cam kết quốc tế về hội nhập khu vực và quốc tế, đặc biệt là quy định của 
WTO. 
Về lâu dài, cần có phương án cụ thể để thuế hóa các hàng rào phi thuế quan 
nhằm đáp ứng một nguyên tắc hàng đầu của WTO là chỉ bảo hộ bằng thuế 
quan, mọi hàng rào phi thuế quan phải được loại bỏ. Việc thuế hóa cần được 
tiến hành theo tiến độ và phương án cân nhắc cụ thể, sẽ tránh cho nền kinh tế 
gặp phải những biến động đột ngột khi phải loại bỏ ngay hàng rào phi thuế 
quan và thay bằng hàng rào thuế quan, nhất là trong trường hợp chưa có giải 
pháp hữu hiệu khác để bảo vệ hợp lý nền sản xuất nội địa và ngăn chặn gian 
lận thương mại.Bên cạnh đó, phải đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực 
hiện thuận lợi hóa thương mại, đặc biệt về thủ tục hải quan cần nhanh chóng 
áp dụng rộng thủ tục hải quan điện tử, kết hợp các tiêu chí quản lý rủi ro và 
hoạt động quản lý tuân thủ vì lượng hàng hóa thông quan ngày một tăng 
mạnh. 
Ngoài ra, việc thay đổi thói quen xuất khẩu hàng hóa giá FOB và nhập khẩu hàng hóa 
giá CIF bằng xuất khẩu giá CIF và nhập khẩu giá FOB tạo điều kiện cho các doanh 
nghiệp Việt Nam thu được tiền bảo hiểm và cước tàu, xuất khẩu theo giá CIF cũng 
khuyến khích doanh nghiệp bảo hiểm và vận tải Việt Nam phát triển mạnh hơn. Việc 
xuất khẩu theo điều kiện CIF và nhập khẩu theo điều kiện FOB không còn quá mới mẻ 
với các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, do thói quen và do thiếu thông tin nên các 
doanh nghiệp chưa lưu ý đúng mức về vấn đề này. Vấn đề thay đổi thói quen là khó 
nhưng không phải không thực hiện được mà cần có sự quyết tâm của cộng đồng doanh 
nghiệp cũng như công tác tuyên truyền, vận động, áp dụng những biện pháp khuyến 
khích của chính phủ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. www.tailieu.vn 
2. www.vietbao.vn 
3. www.wto.org 
4. Đỗ Đức Bình( 2002), Giáo trình kinh tế quốc tế, Nhà xuat ban LAo 
động- Xã hội, Hà nội 
5. Bộ thương mại(2005) chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kì 
2001-2010 

File đính kèm:

  • pdfde_tai_chinh_sach_ngoai_thuong_viet_nam_hien_nay.pdf