Đề tài Đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của tộc người Mã Liềng ở bản Rào Tre (Hương Khê, Hà Tĩnh) từ năm 1958 đến năm 2009

Việt Nam - Tổ quốc của nhiều dân tộc. Các dân tộc cùng là con cháu của Lạc Long Quân - Âu Cơ, nở ra từ trăm trứng, nửa theo mẹ lên núi, nửa theo cha xuống biển, cùng mở mang gây dựng non sông “Tam sơn, tứ hải, nhất phần điền”, với rừng núi trùng điệp, đồng bằng sải cánh cò bay và biển Đông bốn mùa sóng vỗ; bờ cõi liền một dải từ chỏm Lũng Cú (Bắc) đến xóm Rạch Tàu (Nam), từ đỉnh Trường Sơn (Tây) đến quần đảo Trường Sa (Đông). Cùng chung sống lâu đời trên một đất nước, các dân tộc có truyền thống yêu nước đoàn kết giúp đỡ nhau trong chinh phục thiên nhiên và đấu tranh xã hội, suốt quá trình lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng phát triển đất nước.

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, điều 5 đã ghi rõ: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số”.

doc 133 trang Minh Tâm 29/03/2025 120
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của tộc người Mã Liềng ở bản Rào Tre (Hương Khê, Hà Tĩnh) từ năm 1958 đến năm 2009", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề tài Đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của tộc người Mã Liềng ở bản Rào Tre (Hương Khê, Hà Tĩnh) từ năm 1958 đến năm 2009

Đề tài Đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của tộc người Mã Liềng ở bản Rào Tre (Hương Khê, Hà Tĩnh) từ năm 1958 đến năm 2009
 LỜI CẢM ƠN
 Tác giả xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới thầy giáo, PGS 
Hoàng Văn Lân, PGS. TS Nguyễn Trọng Văn đã trực tiếp giảng dạy và hướng 
dẫn khoa học để tác giả hoàn thành luận văn.
 Tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Lịch sử, 
khoa Đào tạo Sau Đại học, trường Đại học Vinh đã nhiệt tình giảng dạy và 
giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.
 Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn tới Huyện ủy, UBND huyện Hương Khê, 
UBND xã Hương Liên, Tổ công tác biên phòng thuộc Đồn biên phòng 575, 
Bộ đội biên phòng Hà Tĩnh, các đồng chí Đại úy Nguyễn Văn Thiên, Nguyễn 
Văn Ngọ, Thạc sĩ Nguyễn Trí Sơn đã tạo điều kiện giúp đỡ tác giả trong quá 
trình khai thác tư liệu và nghiên cứu đề tài.
 Xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ quý báu đó!
 Tác giả xin gửi tới tất cả người thân và bạn bè lòng biết ơn sâu sắc.
 Luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, tác giả mong nhận được và 
biết ơn các ý kiến đóng góp của thầy cô giáo và các bạn.
 Vinh - 2010
 Tác giả
 0 BẢNG QUY ƯỚC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
 TRONG LUẬN VĂN
 XHCN Xã hội chủ nghĩa
 NĐ-CP Nghị định-Chính phủ
 UBND Ủy ban nhân dân
 BCH Ban chấp hành
 NXB Nhà xuất bản
 UB KHXH Ủy ban khoa học xã hội
 1 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 4
1. Lí do chọn đề tài. 4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. 6
3. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu. 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 10
5. Đóng góp của luận văn. 11
6. Bố cục của luận văn. 12
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, QUÁ 
TRÌNH HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN CỦA TỘC NGƯỜI MÃ 
LIỀNG Ở HƯƠNG KHÊ (HÀ TĨNH) 13
1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên - xã hội. 13
1.1.1. Điều kiện tự nhiên. 13
1.1.2. Điều kiện xã hội. 20
1.2. Vài nét về các dân tộc thiểu số định cư trên địa bàn huyện 
Hương Khê (Hà Tĩnh). 24
1.2.1. Nhóm người Mường. 29
1.2.2. Nhóm người Lào. 30
1.2.3. Vấn đề xác định tộc danh Mã Liềng. 31
1.3. Khái quát lịch sử hình thành và quá trình phát triển của 
tộc người Mã Liềng ở Hương Khê (Hà Tĩnh). 36
1.3.1. Khái quát lịch sử hình thành của tộc người Mã Liềng. 36
1.3.2. Quá trình phát triển của tộc người Mã Liềng. 39
CHƯƠNG 2: ĐỜI SỐNG KINH TẾ - XÃ HỘI 47
2.1. Đời sống kinh tế. 47
2.1.1. Các hình thức khai thác nguồn lợi tự nhiên. 47
2.1.2 Kinh tế nông nghiệp. 54
2.1.3. Hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hoá. 59
 2 2.1.4. Một vài nhận xét. 60
2.1.5. Một số ý kiến đề xuất. 61
2.2. Thực trạng vấn đề xã hội. 63
2.2.1. Quan hệ xã hội và tổ chức xã hội. 63
2.2.2. Quan hệ dòng họ. 68
2.2.3. Hôn nhân và gia đình. 69
2.2.4. Tình hình giáo dục, y tế và chăm sóc sức khoẻ của đồng bào. 73
2.2.5. Các vấn đề về xã hội cần được tập trung bảo tồn, phát triển. 76
CHƯƠNG 3: ĐỜI SỐNG VĂN HÓA 80
3.1. Đời sống văn hóa vật chất. 80
3.1.1 Trạng thái cư trú. 80
3.1.2. Trang phục và trang sức. 87
3.1.3. Văn hoá ẩm thực. 89
3.1.4. Các công cụ sản xuất và đồ dùng trong sinh hoạt gia đình. 92
3.2. Đời sống văn hoá tinh thần. 94
3.2.1. Tín ngưỡng. 94
3.2.2. Văn nghệ dân gian. 109
3.3. Một số ý kiến đề xuất. 115
KẾT LUẬN 119
TÀI LIỆU THAM KHẢO 124
PHỤ LỤC 133
 3 MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
 Việt Nam - Tổ quốc của nhiều dân tộc. Các dân tộc cùng là con cháu của 
Lạc Long Quân - Âu Cơ, nở ra từ trăm trứng, nửa theo mẹ lên núi, nửa theo cha 
xuống biển, cùng mở mang gây dựng non sông “Tam sơn, tứ hải, nhất phần điền”, 
với rừng núi trùng điệp, đồng bằng sải cánh cò bay và biển Đông bốn mùa sóng 
vỗ; bờ cõi liền một dải từ chỏm Lũng Cú (Bắc) đến xóm Rạch Tàu (Nam), từ đỉnh 
Trường Sơn (Tây) đến quần đảo Trường Sa (Đông). Cùng chung sống lâu đời trên 
một đất nước, các dân tộc có truyền thống yêu nước đoàn kết giúp đỡ nhau trong 
chinh phục thiên nhiên và đấu tranh xã hội, suốt quá trình lịch sử dựng nước, giữ 
nước và xây dựng phát triển đất nước.
 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, điều 5 đã 
ghi rõ: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất 
của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện 
chính sách bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, 
chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc 
dân tộc và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của 
mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao 
đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số”.
 Bảo vệ và phát huy giá trị truyền thống văn hóa dân tộc phải trở thành quốc 
sách, đặc biệt trong tình hình hiện nay, bởi vì nguy cơ hòa đồng cũng như nguy cơ 
sa sút đời sống tinh thần của xã hội có nguồn gốc từ sự mất gốc, từ đánh mất nền 
văn hóa dân tộc.
 Theo bảng danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam, do Tổng cục 
trưởng Tổng cục thống kê nước Cộng hòa XHCN Việt Nam công bố ngày 02 
tháng 03 năm 1979, người Mã Liềng là một nhóm tộc người cùng với các nhóm 
Sách, Rục, Mày, A Rem hợp thành dân tộc Chứt, xếp thứ 44 trong tổng số 54 các 
dân tộc ở Việt Nam về dân số, thuộc nhóm ngôn ngữ Việt Mường, ngữ hệ Nam 
 4 Á, địa bàn cư trú tại tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Quảng Bình. Ở Hà Tĩnh chỉ có nhóm tộc 
người Mã Liềng định cư cách đây khoảng hơn 50 năm ở bản Rào Tre, xã Hương 
Liên, huyện Hương Khê với 30 hộ, 118 người. 
 Trong khi các tỉnh miền biên giới Tây Bắc đã và đang cố gắng phục hồi, 
cứu giúp, lần mò tìm đường ra để cứu các dân tộc La Hủ, Mảng đang bên bờ vực 
diệt vong, thì hơn 50 năm nay, một tộc người tưởng chừng sắp biến mất đã được 
các đồng chí bộ đội Đồn biên phòng 575 Bộ đội Biên phòng Hà Tĩnh và chính 
quyền địa phương huyện Hương Khê ở vùng biên giới Hà Tĩnh giúp đỡ hồi sinh. 
Mã Liềng là một trong những nhóm tộc người kém phát triển nhất hiện nay. Tuy 
nhiên cho đến những năm gần đây cả giới nghiên cứu sử học, dân tộc học cũng 
như dư luận xã hội chưa biết hoặc chưa quan tâm nghiên cứu nhiều về nhóm 
người Mã Liềng. Do chỗ người Mã Liềng có dân số quá ít lại chưa xác định được 
nguồn gốc, chưa thống nhất được họ là người của dân tộc nào, có người cho rằng 
họ là nhóm người thuộc dân tộc Bru, có người coi tộc người này là một bộ phận 
của dân tộc Chứt, tuy nhiên người ta lại lầm tưởng rằng giới thiệu cơ bản về người 
Chứt dựa theo hiểu biết về nhóm tộc người Sách, Rục cũng đã là những hiểu biết 
về nhóm người Mã Liềng. Trong quá trình tìm kiếm tư liệu cũng như qua những 
lần thực tế nghiên cứu điền dã, chúng tôi nhận thấy rằng tộc người Mã Liềng và 
dân tộc Bru là hoàn toàn khác nhau và giữa các nhóm người khác nhau được gộp 
vào dân tộc Chứt, người Mã Liềng có những nét khác biệt riêng của họ. Họ giải 
thích họ là người Mã Liềng vì ngôn ngữ: Mã Liềng - M’liêng có nghĩa là người. 
Họ gọi họ là người như người của các dân tộc khác để tránh sự miệt thị, coi họ là 
người Rừng.
 Tộc người Mã Liềng thuộc dân tộc Chứt ở Hương Khê (Hà Tĩnh) là một bộ 
phận của dân tộc thiểu số ở Việt Nam có những đặc điểm riêng cần nghiên cứu. 
Cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu chuyên luận nào đề cập đến một 
cách đầy đủ, chi tiết về nguồn gốc, quá trình phát triển, về sự chuyển biến trên các 
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội của người Mã Liềng. Do vậy, đề tài “Đời sống 
kinh tế, văn hóa, xã hội của tộc người Mã Liềng ở bản Rào Tre (Hương Khê, 
 5 Hà Tĩnh) từ năm 1958 đến năm 2009” vừa nghiên cứu về lịch sử hình thành, 
phát triển và sự chuyển biến trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người Mã 
Liềng trên phạm vi bản Rào Tre, đồng thời, qua đó nghiên cứu vai trò của tộc người 
này đối với quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện Hương Khê.
 Với những lý do trên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Đời sống kinh tế, văn 
hóa, xã hội của tộc người Mã Liềng ở bản Rào Tre (Hương Khê, Hà Tĩnh) từ 
năm 1958 đến năm 2009” để làm luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
 Từ trước đến nay, nghiên cứu về dân tộc Chứt trong đó có người Mã Liềng 
đã có một số tác giả trong và ngoài nước đề cập đến. Trước Cách mạng tháng 
Tám năm 1945 ở trong nước có các tác giả Lê Quý Đôn với tác phẩm “Phủ biên 
tạp lục”, Quốc sử quán triều Nguyễn với tác phẩm “Đại Nam nhất thống chí”. 
Ngoài nước có một số học giả người Pháp như M.L. Cadiere với hai tác phẩm 
“Những thung lũng cao ở sông Gianh” và “Cuộc sống trong những đồn bốt nhỏ 
ở Quảng Bình”. Những năm 60 của thế kỷ XX, một số nhà nghiên cứu trong nước 
và ngoài nước mới quan tâm đến dân tộc Chứt một cách toàn diện. Về ngôn ngữ 
có Phạm Đức Dương, Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Tài, Nguyễn Văn Lợi, 
Sôkôlốpxkaia Về nhân chủng học, dân tộc học có Khổng Diễn, Nguyễn Đình 
Khoa, Ngô Vĩnh Bình, Nguyễn Văn Mạnh, Phan Hữu Dật Những tư liệu này là 
cơ sở khoa học cho việc xác định thành phần dân tộc Chứt. Tuy nhiên nhiều vấn 
đề về xác định nguồn gốc, về vấn đề tộc danh, quá trình hình thành, phát triển, đặc 
trưng văn hóa của các nhóm tộc người còn chưa được đi sâu nghiên cứu, nhất là 
đối với nhóm người Mã Liềng ở Hà Tĩnh cũng như ở Quảng Bình.
 Năm 2001, Sở Khoa học và Công nghệ Hà Tĩnh đã đầu tư cho Ban Miền 
núi di dân và phát triển vùng kinh tế mới Hà Tĩnh thực hiện đề tài nghiên cứu 
khoa học “Bước đầu nghiên cứu thực trạng kinh tế, văn hóa, xã hội các dân tộc 
thiểu số ở vùng miền núi Hà Tĩnh và đề xuất giải pháp phát triển”. Tiếp đó năm 
2002, Sở Văn hóa Thông tin và Bảo tàng Hà Tĩnh đã kết hợp thực hiện đề tài 
“Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của người Mã Liềng ở tỉnh Hà Tĩnh” do 
 6 Thạc sĩ Nguyễn Trí Sơn làm chủ nhiệm đề tài. Báo cáo khoa học của các đề tài 
này mới chỉ dừng lại ở việc đề cập đến một phần nào về kinh tế, văn hóa, xã hội 
của các dân tộc thiểu số ở Hà Tĩnh, trong đó có người Mã Liềng trong giai đoạn 
hiện nay và đề xuất một số giải pháp để bảo tồn, phát triển mà chưa đi sâu nghiên 
cứu về nguồn gốc hình thành, quá trình phát triển và sự chuyển biến trong đời 
sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người Mã Liềng.
 Gần đây trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo Hà Tĩnh, tạp chí 
văn hóa Hà Tĩnh, Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Tĩnh, Đài Truyền hình Việt 
Nam, báo Tuổi trẻ, báo Tiền Phong, báo Biên phòng, báo điện tử Vietnamnet, 
mạng Internet có đăng tải một số bài báo, ký sự, phóng sự đề cập đến cuộc sống 
của người Mã Liềng ở bản Rào Tre (Hương Khê, Hà Tĩnh) trong giai đoạn hiện 
nay như “Lập làng trên núi Cà Đay” trên báo Nông nghiệp Việt Nam, “Người 
Chứt dưới chân núi Giăng Màn” của Thái Văn Sinh (Tạp chí Hà Tĩnh số Xuân 
Canh Thìn năm 2000), “Người Mã Liềng dưới chân núi Cà Đay” (Báo Tuổi trẻ 
năm 2005), “Con đường mới của người Mã Liềng” ( Báo Tuổi trẻ năm 2007), 
“Cuộc hồi sinh của người Mã Liềng dưới chân núi Cà Đay” (báo Công an nhân 
dân 2007), ký sự “Kỳ bí người Chứt” trên Báo Biên Phòng tháng 2 năm 2009 
Đây là những bài viết, phóng sự hết sức sơ lược đề cập đến cuộc sống, một số 
phong tục tập quán, hôn nhân gia đình, tang ma của người Mã Liềng và đề nghị 
Nhà nước cần quan tâm có một chủ trương bảo tồn bản sắc văn hóa của người Mã 
Liềng ở đây.
 Do đó, việc nghiên cứu “Đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người Mã 
Liềng ở bản Rào Tre (Hương Khê, Hà Tĩnh) từ năm 1958 đến năm 2009” tuy 
là một đề tài mang tính chất địa phương ở một phạm vi nhỏ nhưng lại là một đề tài 
hoàn toàn mới. Hy vọng luận văn sẽ đóng góp ít nhiều về mặt khoa học cũng như 
thực tiễn khi tìm hiểu về người Mã Liềng nói riêng cũng như truyền thống về đời 
sống kinh tế văn hóa dân tộc Chứt nói chung.
 7 3. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu.
3.1. Nguồn tư liệu.
 Đề tài: “Đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của tộc người Mã Liềng ở bản 
Rào Tre (Hương Khê, Hà Tĩnh) từ năm 1958 đến năm 2009” là một đề tài mới 
được sử dụng các nguồn tài liệu sau đây:
 * Nguồn tư liệu dân tộc học.
 - Sách của Viện dân tộc học: “Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh 
phía Bắc)”, “Về vấn đề xác định thành phần các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt 
Nam”, “Dân số các dân tộc ít người ở Việt Nam”, “Bản sắc văn hóa các dân 
tộc”, “Giữ gìn và bảo vệ bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam”....
 - Các công trình nghiên cứu của các nhà dân tộc học: M.L Cadiere: 
“Những thung lũng cao ở sông Gianh” và “Cuộc sống trong những đồn bốt nhỏ 
ở Quảng Bình”; GS.TS Phan Hữu Dật: “Góp phần nghiên cứu dân tộc học Việt 
Nam”; Khổng Diễn: “Dân số và dân số tộc người ở Việt Nam”; Trần Trí Dõi: 
“Thực trạng kinh tế và văn hóa của ba nhóm tộc người đang có nguy cơ bị biến 
mất”; Bế Viết Đẳng: “Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở 
miền núi”; Tạ Long: “Về mối quan hệ cộng đồng tộc người giữa ba nhóm 
“Mày”, “Rục”, “Sách””; Nguyễn Văn Mạnh: “ Người Chứt ở Bình Trị Thiên” 
và “Người Chứt ở Việt Nam”; Võ Văn Tuyển: “Người Mã Liềng ở bản Rào Tre” 
 - Các công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học: Phạm Đức Dương 
với “Về mối quan hệ thân thuộc giữa các ngôn ngữ thuộc nhóm Việt - Mường 
miền Tây tỉnh Quảng Bình”, Trần Trí Dõi: “Các giai đoạn lịch sử trong tiếng 
Việt”, Nguyễn Văn Tài, Nguyễn Văn Lợi 
 * Nguồn tư liệu văn hóa: 
 Các sách về văn hóa như “Việt Nam văn hóa sử cương” của Đào Duy Anh; 
“Cơ sở văn hóa Việt Nam” của Trần Quốc Vượng; “Tìm về bản sắc văn hóa Việt 
Nam” của Trần Ngọc Thêm; “Văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh”, “Bản sắc văn hóa 
của người Nghệ Tĩnh”; “Hợp tuyển thơ văn các dân tộc thiểu số Việt Nam”, 
 8 “Truyện cổ các dân tộc miền núi Bắc trung bộ”; các tạp chí “Dân tộc và Thời 
đại”, “Văn hóa các dân tộc”, “Tạp chí Dân tộc học” .
 * Nguồn tư liệu địa phương.
 - Tư liệu thành văn: 
 Các tài liệu do UBND tỉnh Hà Tĩnh; Cục Thống kê; Ban Tôn giáo, Dân tộc; 
Ban Miền núi di dân và phát triển vùng kinh tế mới Hà Tĩnh, Bảo tàng Hà Tĩnh, 
Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Hà Tĩnh xuất bản như: “Lịch sử Nghệ Tĩnh”; “Lịch sử 
Hà Tĩnh”; “Thống kê hộ đồng bào dân tộc tỉnh Hà Tĩnh”; “Bước đầu nghiên cứu 
thực trạng kinh tế, văn hóa, xã hội các dân tộc thiểu số ở vùng miền núi Hà Tĩnh 
và đề xuất giải pháp phát triển”; “Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của người 
Mã Liềng ở Hà Tĩnh”; “Niên giám thống kê Hà Tĩnh các năm 1989, 1999, 2009” 
 Các tài liệu do UBND, Ban Dân vận, Phòng Tài nguyên và Môi trường, 
phòng Thống kê, phòng Văn hóa huyện Hương Khê, UBND xã Hương Liên 
xuất bản, báo cáo như: “Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Khê”; “Hương Khê văn 
hóa và danh thắng”; “Hương Khê 135 năm” Các bản báo cáo công tác dân tộc, 
báo cáo tổng kết, các bảng thống kê, các Nghị quyết chỉ thị của các phòng ban 
thuộc UBND huyện, Huyện ủy và UBND xã Hương Liên.
 - Tư liệu hiện vật: 
 Bao gồm nhà cửa, các vật dụng gia đình, các công cụ lao động, tranh ảnh sưu 
tầm, tự chụp của người Mã Liềng tại địa phương, ngoài ra còn khảo sát một số địa 
điểm mà người Mã Liềng đã từng sinh sống trước khi đến định cư tại Rào Tre.
 - Tư liệu truyền miệng: 
 Tác giả đã trực tiếp gặp gỡ và trao đổi với các già làng, trưởng bản, những 
người có kinh nghiệm là người Mã Liềng, trao đổi với các đồng chí bộ đội biên 
phòng đang cắm bản giúp đỡ đồng bào Mã Liềng hòa nhập cuộc sống, các nhà 
nghiên cứu văn hóa dân gian địa phương. Đặc biệt là gặp gỡ, trao đổi với một số 
người đã từng trực tiếp tìm ra người Mã Liềng và vận động bà con xuống núi sinh 
sống để từ đó đối chiếu, so sánh và có cái nhìn toàn diện hơn về nhóm người này.
 9

File đính kèm:

  • docde_tai_doi_song_kinh_te_van_hoa_xa_hoi_cua_toc_nguoi_ma_lien.doc