Đề tài Đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của tộc người Mã Liềng ở bản Rào Tre (Hương Khê, Hà Tĩnh) từ năm 1958 đến năm 2009
Việt Nam - Tổ quốc của nhiều dân tộc. Các dân tộc cùng là con cháu của Lạc Long Quân - Âu Cơ, nở ra từ trăm trứng, nửa theo mẹ lên núi, nửa theo cha xuống biển, cùng mở mang gây dựng non sông “Tam sơn, tứ hải, nhất phần điền”, với rừng núi trùng điệp, đồng bằng sải cánh cò bay và biển Đông bốn mùa sóng vỗ; bờ cõi liền một dải từ chỏm Lũng Cú (Bắc) đến xóm Rạch Tàu (Nam), từ đỉnh Trường Sơn (Tây) đến quần đảo Trường Sa (Đông). Cùng chung sống lâu đời trên một đất nước, các dân tộc có truyền thống yêu nước đoàn kết giúp đỡ nhau trong chinh phục thiên nhiên và đấu tranh xã hội, suốt quá trình lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng phát triển đất nước.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, điều 5 đã ghi rõ: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề tài Đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của tộc người Mã Liềng ở bản Rào Tre (Hương Khê, Hà Tĩnh) từ năm 1958 đến năm 2009

LỜI CẢM ƠN Tác giả xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới thầy giáo, PGS Hoàng Văn Lân, PGS. TS Nguyễn Trọng Văn đã trực tiếp giảng dạy và hướng dẫn khoa học để tác giả hoàn thành luận văn. Tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Lịch sử, khoa Đào tạo Sau Đại học, trường Đại học Vinh đã nhiệt tình giảng dạy và giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và thực hiện luận văn. Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn tới Huyện ủy, UBND huyện Hương Khê, UBND xã Hương Liên, Tổ công tác biên phòng thuộc Đồn biên phòng 575, Bộ đội biên phòng Hà Tĩnh, các đồng chí Đại úy Nguyễn Văn Thiên, Nguyễn Văn Ngọ, Thạc sĩ Nguyễn Trí Sơn đã tạo điều kiện giúp đỡ tác giả trong quá trình khai thác tư liệu và nghiên cứu đề tài. Xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ quý báu đó! Tác giả xin gửi tới tất cả người thân và bạn bè lòng biết ơn sâu sắc. Luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, tác giả mong nhận được và biết ơn các ý kiến đóng góp của thầy cô giáo và các bạn. Vinh - 2010 Tác giả 0 BẢNG QUY ƯỚC KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN XHCN Xã hội chủ nghĩa NĐ-CP Nghị định-Chính phủ UBND Ủy ban nhân dân BCH Ban chấp hành NXB Nhà xuất bản UB KHXH Ủy ban khoa học xã hội 1 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 4 1. Lí do chọn đề tài. 4 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. 6 3. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu. 8 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 10 5. Đóng góp của luận văn. 11 6. Bố cục của luận văn. 12 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN CỦA TỘC NGƯỜI MÃ LIỀNG Ở HƯƠNG KHÊ (HÀ TĨNH) 13 1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên - xã hội. 13 1.1.1. Điều kiện tự nhiên. 13 1.1.2. Điều kiện xã hội. 20 1.2. Vài nét về các dân tộc thiểu số định cư trên địa bàn huyện Hương Khê (Hà Tĩnh). 24 1.2.1. Nhóm người Mường. 29 1.2.2. Nhóm người Lào. 30 1.2.3. Vấn đề xác định tộc danh Mã Liềng. 31 1.3. Khái quát lịch sử hình thành và quá trình phát triển của tộc người Mã Liềng ở Hương Khê (Hà Tĩnh). 36 1.3.1. Khái quát lịch sử hình thành của tộc người Mã Liềng. 36 1.3.2. Quá trình phát triển của tộc người Mã Liềng. 39 CHƯƠNG 2: ĐỜI SỐNG KINH TẾ - XÃ HỘI 47 2.1. Đời sống kinh tế. 47 2.1.1. Các hình thức khai thác nguồn lợi tự nhiên. 47 2.1.2 Kinh tế nông nghiệp. 54 2.1.3. Hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hoá. 59 2 2.1.4. Một vài nhận xét. 60 2.1.5. Một số ý kiến đề xuất. 61 2.2. Thực trạng vấn đề xã hội. 63 2.2.1. Quan hệ xã hội và tổ chức xã hội. 63 2.2.2. Quan hệ dòng họ. 68 2.2.3. Hôn nhân và gia đình. 69 2.2.4. Tình hình giáo dục, y tế và chăm sóc sức khoẻ của đồng bào. 73 2.2.5. Các vấn đề về xã hội cần được tập trung bảo tồn, phát triển. 76 CHƯƠNG 3: ĐỜI SỐNG VĂN HÓA 80 3.1. Đời sống văn hóa vật chất. 80 3.1.1 Trạng thái cư trú. 80 3.1.2. Trang phục và trang sức. 87 3.1.3. Văn hoá ẩm thực. 89 3.1.4. Các công cụ sản xuất và đồ dùng trong sinh hoạt gia đình. 92 3.2. Đời sống văn hoá tinh thần. 94 3.2.1. Tín ngưỡng. 94 3.2.2. Văn nghệ dân gian. 109 3.3. Một số ý kiến đề xuất. 115 KẾT LUẬN 119 TÀI LIỆU THAM KHẢO 124 PHỤ LỤC 133 3 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài. Việt Nam - Tổ quốc của nhiều dân tộc. Các dân tộc cùng là con cháu của Lạc Long Quân - Âu Cơ, nở ra từ trăm trứng, nửa theo mẹ lên núi, nửa theo cha xuống biển, cùng mở mang gây dựng non sông “Tam sơn, tứ hải, nhất phần điền”, với rừng núi trùng điệp, đồng bằng sải cánh cò bay và biển Đông bốn mùa sóng vỗ; bờ cõi liền một dải từ chỏm Lũng Cú (Bắc) đến xóm Rạch Tàu (Nam), từ đỉnh Trường Sơn (Tây) đến quần đảo Trường Sa (Đông). Cùng chung sống lâu đời trên một đất nước, các dân tộc có truyền thống yêu nước đoàn kết giúp đỡ nhau trong chinh phục thiên nhiên và đấu tranh xã hội, suốt quá trình lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng phát triển đất nước. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, điều 5 đã ghi rõ: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số”. Bảo vệ và phát huy giá trị truyền thống văn hóa dân tộc phải trở thành quốc sách, đặc biệt trong tình hình hiện nay, bởi vì nguy cơ hòa đồng cũng như nguy cơ sa sút đời sống tinh thần của xã hội có nguồn gốc từ sự mất gốc, từ đánh mất nền văn hóa dân tộc. Theo bảng danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam, do Tổng cục trưởng Tổng cục thống kê nước Cộng hòa XHCN Việt Nam công bố ngày 02 tháng 03 năm 1979, người Mã Liềng là một nhóm tộc người cùng với các nhóm Sách, Rục, Mày, A Rem hợp thành dân tộc Chứt, xếp thứ 44 trong tổng số 54 các dân tộc ở Việt Nam về dân số, thuộc nhóm ngôn ngữ Việt Mường, ngữ hệ Nam 4 Á, địa bàn cư trú tại tỉnh Hà Tĩnh và tỉnh Quảng Bình. Ở Hà Tĩnh chỉ có nhóm tộc người Mã Liềng định cư cách đây khoảng hơn 50 năm ở bản Rào Tre, xã Hương Liên, huyện Hương Khê với 30 hộ, 118 người. Trong khi các tỉnh miền biên giới Tây Bắc đã và đang cố gắng phục hồi, cứu giúp, lần mò tìm đường ra để cứu các dân tộc La Hủ, Mảng đang bên bờ vực diệt vong, thì hơn 50 năm nay, một tộc người tưởng chừng sắp biến mất đã được các đồng chí bộ đội Đồn biên phòng 575 Bộ đội Biên phòng Hà Tĩnh và chính quyền địa phương huyện Hương Khê ở vùng biên giới Hà Tĩnh giúp đỡ hồi sinh. Mã Liềng là một trong những nhóm tộc người kém phát triển nhất hiện nay. Tuy nhiên cho đến những năm gần đây cả giới nghiên cứu sử học, dân tộc học cũng như dư luận xã hội chưa biết hoặc chưa quan tâm nghiên cứu nhiều về nhóm người Mã Liềng. Do chỗ người Mã Liềng có dân số quá ít lại chưa xác định được nguồn gốc, chưa thống nhất được họ là người của dân tộc nào, có người cho rằng họ là nhóm người thuộc dân tộc Bru, có người coi tộc người này là một bộ phận của dân tộc Chứt, tuy nhiên người ta lại lầm tưởng rằng giới thiệu cơ bản về người Chứt dựa theo hiểu biết về nhóm tộc người Sách, Rục cũng đã là những hiểu biết về nhóm người Mã Liềng. Trong quá trình tìm kiếm tư liệu cũng như qua những lần thực tế nghiên cứu điền dã, chúng tôi nhận thấy rằng tộc người Mã Liềng và dân tộc Bru là hoàn toàn khác nhau và giữa các nhóm người khác nhau được gộp vào dân tộc Chứt, người Mã Liềng có những nét khác biệt riêng của họ. Họ giải thích họ là người Mã Liềng vì ngôn ngữ: Mã Liềng - M’liêng có nghĩa là người. Họ gọi họ là người như người của các dân tộc khác để tránh sự miệt thị, coi họ là người Rừng. Tộc người Mã Liềng thuộc dân tộc Chứt ở Hương Khê (Hà Tĩnh) là một bộ phận của dân tộc thiểu số ở Việt Nam có những đặc điểm riêng cần nghiên cứu. Cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu chuyên luận nào đề cập đến một cách đầy đủ, chi tiết về nguồn gốc, quá trình phát triển, về sự chuyển biến trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội của người Mã Liềng. Do vậy, đề tài “Đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của tộc người Mã Liềng ở bản Rào Tre (Hương Khê, 5 Hà Tĩnh) từ năm 1958 đến năm 2009” vừa nghiên cứu về lịch sử hình thành, phát triển và sự chuyển biến trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người Mã Liềng trên phạm vi bản Rào Tre, đồng thời, qua đó nghiên cứu vai trò của tộc người này đối với quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện Hương Khê. Với những lý do trên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của tộc người Mã Liềng ở bản Rào Tre (Hương Khê, Hà Tĩnh) từ năm 1958 đến năm 2009” để làm luận văn tốt nghiệp cao học của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. Từ trước đến nay, nghiên cứu về dân tộc Chứt trong đó có người Mã Liềng đã có một số tác giả trong và ngoài nước đề cập đến. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở trong nước có các tác giả Lê Quý Đôn với tác phẩm “Phủ biên tạp lục”, Quốc sử quán triều Nguyễn với tác phẩm “Đại Nam nhất thống chí”. Ngoài nước có một số học giả người Pháp như M.L. Cadiere với hai tác phẩm “Những thung lũng cao ở sông Gianh” và “Cuộc sống trong những đồn bốt nhỏ ở Quảng Bình”. Những năm 60 của thế kỷ XX, một số nhà nghiên cứu trong nước và ngoài nước mới quan tâm đến dân tộc Chứt một cách toàn diện. Về ngôn ngữ có Phạm Đức Dương, Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Tài, Nguyễn Văn Lợi, Sôkôlốpxkaia Về nhân chủng học, dân tộc học có Khổng Diễn, Nguyễn Đình Khoa, Ngô Vĩnh Bình, Nguyễn Văn Mạnh, Phan Hữu Dật Những tư liệu này là cơ sở khoa học cho việc xác định thành phần dân tộc Chứt. Tuy nhiên nhiều vấn đề về xác định nguồn gốc, về vấn đề tộc danh, quá trình hình thành, phát triển, đặc trưng văn hóa của các nhóm tộc người còn chưa được đi sâu nghiên cứu, nhất là đối với nhóm người Mã Liềng ở Hà Tĩnh cũng như ở Quảng Bình. Năm 2001, Sở Khoa học và Công nghệ Hà Tĩnh đã đầu tư cho Ban Miền núi di dân và phát triển vùng kinh tế mới Hà Tĩnh thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học “Bước đầu nghiên cứu thực trạng kinh tế, văn hóa, xã hội các dân tộc thiểu số ở vùng miền núi Hà Tĩnh và đề xuất giải pháp phát triển”. Tiếp đó năm 2002, Sở Văn hóa Thông tin và Bảo tàng Hà Tĩnh đã kết hợp thực hiện đề tài “Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của người Mã Liềng ở tỉnh Hà Tĩnh” do 6 Thạc sĩ Nguyễn Trí Sơn làm chủ nhiệm đề tài. Báo cáo khoa học của các đề tài này mới chỉ dừng lại ở việc đề cập đến một phần nào về kinh tế, văn hóa, xã hội của các dân tộc thiểu số ở Hà Tĩnh, trong đó có người Mã Liềng trong giai đoạn hiện nay và đề xuất một số giải pháp để bảo tồn, phát triển mà chưa đi sâu nghiên cứu về nguồn gốc hình thành, quá trình phát triển và sự chuyển biến trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người Mã Liềng. Gần đây trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo Hà Tĩnh, tạp chí văn hóa Hà Tĩnh, Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Tĩnh, Đài Truyền hình Việt Nam, báo Tuổi trẻ, báo Tiền Phong, báo Biên phòng, báo điện tử Vietnamnet, mạng Internet có đăng tải một số bài báo, ký sự, phóng sự đề cập đến cuộc sống của người Mã Liềng ở bản Rào Tre (Hương Khê, Hà Tĩnh) trong giai đoạn hiện nay như “Lập làng trên núi Cà Đay” trên báo Nông nghiệp Việt Nam, “Người Chứt dưới chân núi Giăng Màn” của Thái Văn Sinh (Tạp chí Hà Tĩnh số Xuân Canh Thìn năm 2000), “Người Mã Liềng dưới chân núi Cà Đay” (Báo Tuổi trẻ năm 2005), “Con đường mới của người Mã Liềng” ( Báo Tuổi trẻ năm 2007), “Cuộc hồi sinh của người Mã Liềng dưới chân núi Cà Đay” (báo Công an nhân dân 2007), ký sự “Kỳ bí người Chứt” trên Báo Biên Phòng tháng 2 năm 2009 Đây là những bài viết, phóng sự hết sức sơ lược đề cập đến cuộc sống, một số phong tục tập quán, hôn nhân gia đình, tang ma của người Mã Liềng và đề nghị Nhà nước cần quan tâm có một chủ trương bảo tồn bản sắc văn hóa của người Mã Liềng ở đây. Do đó, việc nghiên cứu “Đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người Mã Liềng ở bản Rào Tre (Hương Khê, Hà Tĩnh) từ năm 1958 đến năm 2009” tuy là một đề tài mang tính chất địa phương ở một phạm vi nhỏ nhưng lại là một đề tài hoàn toàn mới. Hy vọng luận văn sẽ đóng góp ít nhiều về mặt khoa học cũng như thực tiễn khi tìm hiểu về người Mã Liềng nói riêng cũng như truyền thống về đời sống kinh tế văn hóa dân tộc Chứt nói chung. 7 3. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu. 3.1. Nguồn tư liệu. Đề tài: “Đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của tộc người Mã Liềng ở bản Rào Tre (Hương Khê, Hà Tĩnh) từ năm 1958 đến năm 2009” là một đề tài mới được sử dụng các nguồn tài liệu sau đây: * Nguồn tư liệu dân tộc học. - Sách của Viện dân tộc học: “Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc)”, “Về vấn đề xác định thành phần các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam”, “Dân số các dân tộc ít người ở Việt Nam”, “Bản sắc văn hóa các dân tộc”, “Giữ gìn và bảo vệ bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam”.... - Các công trình nghiên cứu của các nhà dân tộc học: M.L Cadiere: “Những thung lũng cao ở sông Gianh” và “Cuộc sống trong những đồn bốt nhỏ ở Quảng Bình”; GS.TS Phan Hữu Dật: “Góp phần nghiên cứu dân tộc học Việt Nam”; Khổng Diễn: “Dân số và dân số tộc người ở Việt Nam”; Trần Trí Dõi: “Thực trạng kinh tế và văn hóa của ba nhóm tộc người đang có nguy cơ bị biến mất”; Bế Viết Đẳng: “Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi”; Tạ Long: “Về mối quan hệ cộng đồng tộc người giữa ba nhóm “Mày”, “Rục”, “Sách””; Nguyễn Văn Mạnh: “ Người Chứt ở Bình Trị Thiên” và “Người Chứt ở Việt Nam”; Võ Văn Tuyển: “Người Mã Liềng ở bản Rào Tre” - Các công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học: Phạm Đức Dương với “Về mối quan hệ thân thuộc giữa các ngôn ngữ thuộc nhóm Việt - Mường miền Tây tỉnh Quảng Bình”, Trần Trí Dõi: “Các giai đoạn lịch sử trong tiếng Việt”, Nguyễn Văn Tài, Nguyễn Văn Lợi * Nguồn tư liệu văn hóa: Các sách về văn hóa như “Việt Nam văn hóa sử cương” của Đào Duy Anh; “Cơ sở văn hóa Việt Nam” của Trần Quốc Vượng; “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm; “Văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh”, “Bản sắc văn hóa của người Nghệ Tĩnh”; “Hợp tuyển thơ văn các dân tộc thiểu số Việt Nam”, 8 “Truyện cổ các dân tộc miền núi Bắc trung bộ”; các tạp chí “Dân tộc và Thời đại”, “Văn hóa các dân tộc”, “Tạp chí Dân tộc học” . * Nguồn tư liệu địa phương. - Tư liệu thành văn: Các tài liệu do UBND tỉnh Hà Tĩnh; Cục Thống kê; Ban Tôn giáo, Dân tộc; Ban Miền núi di dân và phát triển vùng kinh tế mới Hà Tĩnh, Bảo tàng Hà Tĩnh, Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Hà Tĩnh xuất bản như: “Lịch sử Nghệ Tĩnh”; “Lịch sử Hà Tĩnh”; “Thống kê hộ đồng bào dân tộc tỉnh Hà Tĩnh”; “Bước đầu nghiên cứu thực trạng kinh tế, văn hóa, xã hội các dân tộc thiểu số ở vùng miền núi Hà Tĩnh và đề xuất giải pháp phát triển”; “Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của người Mã Liềng ở Hà Tĩnh”; “Niên giám thống kê Hà Tĩnh các năm 1989, 1999, 2009” Các tài liệu do UBND, Ban Dân vận, Phòng Tài nguyên và Môi trường, phòng Thống kê, phòng Văn hóa huyện Hương Khê, UBND xã Hương Liên xuất bản, báo cáo như: “Lịch sử Đảng bộ huyện Hương Khê”; “Hương Khê văn hóa và danh thắng”; “Hương Khê 135 năm” Các bản báo cáo công tác dân tộc, báo cáo tổng kết, các bảng thống kê, các Nghị quyết chỉ thị của các phòng ban thuộc UBND huyện, Huyện ủy và UBND xã Hương Liên. - Tư liệu hiện vật: Bao gồm nhà cửa, các vật dụng gia đình, các công cụ lao động, tranh ảnh sưu tầm, tự chụp của người Mã Liềng tại địa phương, ngoài ra còn khảo sát một số địa điểm mà người Mã Liềng đã từng sinh sống trước khi đến định cư tại Rào Tre. - Tư liệu truyền miệng: Tác giả đã trực tiếp gặp gỡ và trao đổi với các già làng, trưởng bản, những người có kinh nghiệm là người Mã Liềng, trao đổi với các đồng chí bộ đội biên phòng đang cắm bản giúp đỡ đồng bào Mã Liềng hòa nhập cuộc sống, các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian địa phương. Đặc biệt là gặp gỡ, trao đổi với một số người đã từng trực tiếp tìm ra người Mã Liềng và vận động bà con xuống núi sinh sống để từ đó đối chiếu, so sánh và có cái nhìn toàn diện hơn về nhóm người này. 9
File đính kèm:
de_tai_doi_song_kinh_te_van_hoa_xa_hoi_cua_toc_nguoi_ma_lien.doc