Đề án Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020

A. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG

I. Bối cảnh

Ngày nay, thế giới đã bước vào thập kỉ đầu tiên của thế kỉ 21 và đang

chứng kiến, thậm chí đang bị cuốn vào dòng thác của sự biến đổi vô cùng lớn

lao của xã hội loài người với đặc trưng là: toàn cầu hoá, công nghệ thông tin,

xã hội học tập. Có thể nói, toàn cầu hoá, sự đổi mới công nghệ, đặc biệt là

công nghệ thông tin và nhu cầu học tập suốt đời đã và đang thôi thúc và giúp

chúng ta tổ chức lại một cách cơ bản đời sống xã hội, đưa loài người đến với

nền kinh tế tri thức, bước vào nền văn minh trí tuệ.

Nhận thức rõ bối cảnh và xu thế phát triển của thời đại hiện nay, Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã xác định mục tiêu chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 – 2010) là`: “Đưa nước ta ra khỏi

tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của

nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công

nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công

nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường,

thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ

bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao .”.

Bối cảnh chung của thế giới, mục tiêu chiến lược của nước ta như vậy

đã trao cho nhà trường một trách nhiệm vô cùng vẻ vang và nặng nề, đó là

hình thành và phát triển những giá trị mới cho con người cả về khía cạnh nhân

văn và kĩ thuật. Hoàn thành trách nhiệm đó là nhiệm vụ của tất cả các môn

học và các hoạt động trong nhà trường nói chung và của việc dạy và học

ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam nói riêng. Kinh

nghiệm của các nước phát triển và các nước công nghiệp mới trên thế giới

cũng như trong khu vực châu Á - Thái Bình dương đã chỉ rõ, trong những

điều kiện cần thiết để hội nhập và phát triển thì ngoại ngữ là một công cụ,

phương tiện đắc lực và hữu hiệu trong tiến trình hội nhập và phát triển trong

thời đại ngày nay.

Từ sau khi nước nhà giành được độc lập đến nay, do những điều kiện

lịch sử, quan hệ ngoại giao và nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của từng

thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta đã tổ chức dạy và học một số

tiếng nước ngoài, trong đó phổ biến là bốn thứ tiếng: tiếng Anh, tiếng Pháp,

tiếng Nga và tiếng Trung Quốc. Việc dạy và học ngoại ngữ đã có những đóng

góp lớn lao đối với sự tiến bộ trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội của nước ta

trong suốt thời gian qua.

Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hoá và sự hội nhập quốc tế đang là

xu thế của thời đại và trong bối cảnh đổi mới, mở cửa hướng ra thế giới, làm4

bạn với các nước trên thế giới, chúng ta đã nhận thấy những bất cập của việc

dạy và học ngoại ngữ trước đòi hỏi của sự phát triển kinh tế và trước nhu cầu

hội nhập, mở rộng giao lưu vượt ra khỏi phạm vi quốc gia của đông đảo nhân

dân. Tình trạng lãng phí, kém hiệu quả của việc dạy và học ngoại ngữ, những

khó khăn trong việc trao đổi nguồn nhân lực trong phạm vi hợp tác song

phương hoặc đa phương đòi hỏi chúng ta phải xem xét một cách nghiêm

túc thực trạng dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân trong

những năm qua, từ đó nghiên cứu kĩ lưỡng, hoạch định một chiến lược dạy và

học ngoại ngữ vừa khả thi, vừa đáp ứng được những yêu cầu phát triển tương

lai của nước ta

pdf 49 trang chauphong 19/08/2022 11000
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề án Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề án Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020

Đề án Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 
ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC 
-------------------------- 
ĐỀ ÁN 
Hà nội – 2008 
 1
Mục lục 
 Trang 
Các chữ viết tắt 2 
A. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG 3 
I. Bối cảnh 3 
II. Thời cơ và thách thức 4 
III. Đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về 
 dạy và học ngoại ngữ 5 
IV. Kinh nghiệm dạy và học ngoại ngữ ở một số nước 
 trên thế giới và trong khu vực 6 
V. Thực trạng dạy và học ngoại ngữ ở nước ta hiện nay 10 
B. MỤC TIÊU - GIẢI PHÁP 25 
I. Các yêu cầu đối với đổi mới dạy và học ngoại ngữ 25 
II. Các nội dung đổi mới dạy và học ngoại ngữ 25 
III. Mục tiêu 32 
IV. Các nhóm giải pháp 33 
C. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN 38 
D. BỘ MÁY CHỈ ĐẠO VÀ PHÂN CÔNG TRÁCH NHIỆM 42 
I. Thành lập Ban điều hành Đề án 42 
II. Phân công trách nhiệm của các Bộ, ngành 42 
E. KINH PHÍ DỰ TOÁN 44 
F. KHÓ KHĂN DỰ KIẾN VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC 47 
 2
Các chữ viết tắt 
BTVH Bổ túc văn hoá 
CĐ Cao đẳng 
CP Chính phủ 
CT Chương trình 
DN Dạy nghề 
ĐH Đại học 
ĐVHT Đơn vị học trình 
GD&ĐT Giáo dục và đào tạo 
GDTX Giáo dục thường xuyên 
GDP Tổng sản phẩm quốc nội 
GV Giáo viên 
HS Học sinh 
KNLNN Khung năng lực ngoại ngữ 
NN Ngoại ngữ 
NN1 Ngoại ngữ một 
NN2 Ngoại ngữ hai 
NN1 CĐ/ĐH Ngoại ngữ một ở bậc cao đẳng/đại học 
NN2 CĐ/ĐH Ngoại ngữ hai ở bậc cao đẳng/đại học 
NXB Nhà xuất bản 
PHNN Phòng học ngoại ngữ 
PĐPT Phòng đa phương tiện 
QH Quốc hội 
SGK Sách giáo khoa 
SV Sinh viên 
TCCN Trung cấp chuyên nghiệp 
THCN Trung học chuyên nghiệp 
THCS Trung học cơ sở 
THPT Trung học phổ thông 
ThS Thạc sỹ 
TiH Tiểu học 
TP HCM Thành phố Hồ Chí Minh 
TS Tiến sỹ 
TTGDTX Trung tâm giáo dục thường xuyên 
TTN Trung tâm nguồn 
 3
A. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG 
I. Bối cảnh 
Ngày nay, thế giới đã bước vào thập kỉ đầu tiên của thế kỉ 21 và đang 
chứng kiến, thậm chí đang bị cuốn vào dòng thác của sự biến đổi vô cùng lớn 
lao của xã hội loài người với đặc trưng là: toàn cầu hoá, công nghệ thông tin, 
xã hội học tập. Có thể nói, toàn cầu hoá, sự đổi mới công nghệ, đặc biệt là 
công nghệ thông tin và nhu cầu học tập suốt đời đã và đang thôi thúc và giúp 
chúng ta tổ chức lại một cách cơ bản đời sống xã hội, đưa loài người đến với 
nền kinh tế tri thức, bước vào nền văn minh trí tuệ. 
 Nhận thức rõ bối cảnh và xu thế phát triển của thời đại hiện nay, Đại 
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã xác định mục tiêu chiến lược 
phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 – 2010) là`: “Đưa nước ta ra khỏi 
tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của 
nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công 
nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công 
nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường, 
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ 
bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao ...”. 
 Bối cảnh chung của thế giới, mục tiêu chiến lược của nước ta như vậy 
đã trao cho nhà trường một trách nhiệm vô cùng vẻ vang và nặng nề, đó là 
hình thành và phát triển những giá trị mới cho con người cả về khía cạnh nhân 
văn và kĩ thuật. Hoàn thành trách nhiệm đó là nhiệm vụ của tất cả các môn 
học và các hoạt động trong nhà trường nói chung và của việc dạy và học 
ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam nói riêng. Kinh 
nghiệm của các nước phát triển và các nước công nghiệp mới trên thế giới 
cũng như trong khu vực châu Á - Thái Bình dương đã chỉ rõ, trong những 
điều kiện cần thiết để hội nhập và phát triển thì ngoại ngữ là một công cụ, 
phương tiện đắc lực và hữu hiệu trong tiến trình hội nhập và phát triển trong 
thời đại ngày nay. 
Từ sau khi nước nhà giành được độc lập đến nay, do những điều kiện 
lịch sử, quan hệ ngoại giao và nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của từng 
thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta đã tổ chức dạy và học một số 
tiếng nước ngoài, trong đó phổ biến là bốn thứ tiếng: tiếng Anh, tiếng Pháp, 
tiếng Nga và tiếng Trung Quốc. Việc dạy và học ngoại ngữ đã có những đóng 
góp lớn lao đối với sự tiến bộ trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội của nước ta 
trong suốt thời gian qua. 
Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hoá và sự hội nhập quốc tế đang là 
xu thế của thời đại và trong bối cảnh đổi mới, mở cửa hướng ra thế giới, làm 
 4
bạn với các nước trên thế giới, chúng ta đã nhận thấy những bất cập của việc 
dạy và học ngoại ngữ trước đòi hỏi của sự phát triển kinh tế và trước nhu cầu 
hội nhập, mở rộng giao lưu vượt ra khỏi phạm vi quốc gia của đông đảo nhân 
dân. Tình trạng lãng phí, kém hiệu quả của việc dạy và học ngoại ngữ, những 
khó khăn trong việc trao đổi nguồn nhân lực trong phạm vi hợp tác song 
phương hoặc đa phương đòi hỏi chúng ta phải xem xét một cách nghiêm 
túc thực trạng dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân trong 
những năm qua, từ đó nghiên cứu kĩ lưỡng, hoạch định một chiến lược dạy và 
học ngoại ngữ vừa khả thi, vừa đáp ứng được những yêu cầu phát triển tương 
lai của nước ta. 
II. Thời cơ và thách thức 
1. Thời cơ 
Do chính sách mở cửa và sự phát triển kinh tế nhanh và ổn định của 
Việt Nam trong thời gian qua, việc dạy và học ngoại ngữ ở nước ta đang có 
những thời cơ hết sức quan trọng như sau: 
- Chủ trương mở cửa hội nhập và quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng chặt 
chẽ và rộng mở giữa nước ta và các nước trên thế giới, đặc biệt là với các 
nước có bản ngữ hoặc ngôn ngữ quốc gia phù hợp với ngoại ngữ được dạy và 
học trong hệ thống giáo dục quốc dân của nước ta, đã tạo tiền đề hết sức quan 
trọng cho việc tăng cường dạy và học ngoại ngữ với yêu cầu và chất lượng, 
hiệu quả ngày càng cao hơn trong giai đoạn tiếp theo. 
- Sự phát triển của khoa học kĩ thuật, đặc biệt là những thành tựu về công 
nghệ thông tin và truyền thông đã tạo ra những phương thức dạy học phù hợp 
với điều kiện và đối tượng người học như : dạy học từ xa, dạy học qua mạng 
... và những phương tiện dạy và học ngoại ngữ hiện đại, có hiệu quả như các 
phương tiện nghe nhìn, internet, e-learning, ... 
- Sự gia tăng số lượng các tổ chức quốc tế và các đối tác nước ngoài vào 
đầu tư ở nước ta, nhu cầu xuất khẩu lực lượng lao động tăng mạnh và nhịp độ 
giao lưu ngày càng cao về văn hóa, thể thao, nghệ thuật giữa nước ta và các 
nước trên thế giới đã tạo nên nhu cầu thành thạo ngoại ngữ đối với đội ngũ 
lao động các cấp, nhất là đối với thế hệ trẻ trong việc tiếp tục học tập, tìm 
kiếm cơ hội việc làm, sự thành công trong sự nghiệp, đồng thời cũng tạo nên 
sự thay đổi về nhận thức của xã hội đối với vai trò và tầm quan trọng của việc 
dạy và học ngoại ngữ. 
2. Thách thức 
Cùng với những thời cơ thuận lợi nêu trên, trong thời gian tới, việc dạy và học 
ngoại ngữ sẽ phải đương đầu với một số thách thức cơ bản sau: 
 5
- Nhu cầu của xã hội về ngoại ngữ, nhất là ngoại ngữ thông dụng trong 
giao dịch quốc tế ngày càng cao nhưng khả năng và điều kiện đầu tư của nhà 
nước và xã hội về cơ sở vật chất - thiết bị dạy học, đội ngũ giáo viên ... còn 
rất hạn hẹp. 
- Chủ trương mở cửa hội nhập, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ 
quốc tế, đặc biệt là quan hệ truyền thống giữa nước ta và những nước có bản 
ngữ hoặc ngôn ngữ quốc gia đang được dạy và học trong hệ thống giáo dục 
quốc dân của nước ta đòi hỏi phải mở rộng qui mô, phạm vi và số lượng ngoại 
ngữ cần dạy và học nhiều hơn nữa, nhưng trước mắt, chúng ta chỉ có thể tập 
trung đầu tư nguồn lực cho ngoại ngữ là ngôn ngữ thông dụng trong giao dịch 
quốc tế. 
- Sự tiến bộ về khoa học kĩ thuật và công nghệ thông tin - truyền thông 
đã tạo những tiền đề vật chất - kĩ thuật hết sức thuận lợi cho việc dạy và học 
ngoại ngữ với quy mô và trình độ cao hơn, nhưng trình độ ứng dụng những 
tiến bộ đó vào việc dạy và học ngoại ngữ còn rất hạn chế. 
III. Đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về dạy và học ngoại 
 ngữ 
 Xuất phát từ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của ngoại ngữ trong công 
cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, Đảng và Chính phủ đã có nhiều 
văn kiện về việc đẩy mạnh việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục 
quốc dân nước ta. 
Ngày 11 tháng 4 năm 1968, Thủ tướng Chính phủ đã ra chỉ thị số 
43/TTg về phương hướng và nhiệm vụ dạy và học ngoại ngữ ở các trường đại 
học, trung học chuyên nghiệp và các trường phổ thông. Chỉ thị nêu rõ dạy và 
học một ngoại ngữ ở các trường cấp II và phấn đấu dạy và học hai ngoại ngữ 
ở các trường cấp III. Các thứ tiếng được dạy là: tiếng Nga, tiếng Trung Quốc, 
tiếng Anh và tiếng Pháp. 
 Ngày 7 tháng 9 năm 1972, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 251-
TTg về việc cải tiến và tăng cường công tác dạy và học ngoại ngữ trong 
các trường phổ thông. Quyết định này tiếp tục khẳng định ngoại ngữ 
là một môn học cơ bản trong chương trình phổ thông từ cấp II trở 
lên, nhấn mạnh việc dạy và học đồng thời hai ngoại ngữ (một chính, 
một phụ) ở cấp III, mở các trường chuyên ngoại ngữ ở những nơi có điều 
kiện, thành lập một trung tâm chuyên nghiên cứu việc dạy và học ngoại ngữ. 
Điều 24 của Luật Giáo dục (1998) cũng khẳng định vị trí quan trọng 
của ngoại ngữ trong nội dung học vấn phổ thông và đề ra yêu cầu bảo đảm 
cho học sinh có kiến thức cơ bản về ngoại ngữ. 
 6
Nghị quyết số 40/2000/QH10 của Quốc hội khoá 10 về đổi mới chương 
trình giáo dục phổ thông đã yêu cầu xây dựng đề án dạy và học ngoại ngữ ở 
trường phổ thông đến năm 2010. 
Ngày 11/6/2001, Thủ tướng chính phủ ra Chỉ thị số 14/2001/CT-TTg 
về đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông, trong đó yêu cầu xây 
dựng đề án “Giảng dạy, học tập ngoại ngữ trong trường phổ thông.” 
Báo cáo của Chính phủ tại kì họp thứ 6 Quốc hội khoá XI (12/2004) 
cũng đã nêu lên một trong những giải pháp đẩy mạnh khả năng chủ động hợp 
tác quốc tế trong giáo dục là “Triển khai chiến lược dạy và học ngoại ngữ 
trong hệ thống giáo dục quốc dân, tập trung chủ yếu vào tiếng Anh, khuyến 
khích dạy và học ngoại ngữ thứ hai. Cho phép một số cơ sở giáo dục đại học 
và sau đại học giảng dạy song ngữ (bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài) ở 
một số môn học, ngành học.” 
Kỳ họp thứ 7 của Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật giáo dục (sửa 
đổi), trong đó có quy định tại Điều 7, mục 3 như sau: “Ngoại ngữ được quy 
định trong chương trình giáo dục là ngôn ngữ được sử dụng phổ biến trong 
giao dịch quốc tế. Việc tổ chức dạy ngoại ngữ trong nhà trường và cơ sở giáo 
dục khác cần bảo đảm để người học được học liên tục và có hiệu quả”. 
IV. Kinh nghiệm dạy và học ngoại ngữ ở một số nước trên thế giới và 
trong khu vực 
Từ nửa sau của thế kỷ 20, các nước trên thế giới đều nhận ra rằng sự 
cùng tồn tại hòa bình phụ thuộc vào việc hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia, 
sự coi trọng nhau như là những đối tác bình đẳng. Việc giao tiếp và trao đổi 
thông tin nhằm tăng cường hiểu biết giữa các nền kinh tế, xã hội và văn hóa 
đa dạng trở thành nền tảng cơ bản cho sự phát triển những chiến lược chung 
vì lợi ích của tất cả. Chỉ những c ... ộ, cơ quan có liên quan, các địa phương cụ thể hóa 
nội dung Đề án thành các chương trình, kế hoạch thực hiện chi tiết để chỉ 
đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện; kiểm tra, giám sát, đánh giá, tổng hợp kết 
quả triển khai thực hiện Đề án trong phạm vi cả nước theo hàng năm và từng 
giai đoạn, định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ; 
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan có liên quan thành lập Ban Chỉ đạo liên 
ngành để chỉ đạo triển khai thực hiện Đề án gồm đại diện lãnh đạo các Bộ, cơ 
quan có liên quan, do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo làm Trưởng ban; 
- Phối hợp với Bộ Nội vụ sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định về định 
mức biên chế giáo viên, giảng viên ngoại ngữ; các cơ chế, chính sách tuyển 
dụng, sử dụng, quản lý việc dạy học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc 
dân; 
- Chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ hướng dẫn triển khai công tác bồi dưỡng 
ngoại ngữ, thường xuyên cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. 
b) Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội có trách nhiệm: 
 43
Chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan có liên quan chỉ 
đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện Đề án trong lĩnh vực dạy nghề, phù hợp 
với lộ trình, kế hoạch triển khai chung do Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì 
hướng dẫn. 
c) Bộ kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm: 
- Chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo tổng hợp các kế hoạch 
triển khai hoạt động và đầu tư thực hiện Đề án theo hàng năm và từng giai 
đoạn để đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước, trình 
Thủ tướng Chính phủ theo quy định; 
- Phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động – 
Thương binh và Xã hội để tổng hợp, xây dựng các kế hoạch đầu tư ngân sách 
nhà nước đê ̉thực hiện Đề án. 
d) Bộ Tài chính có trách nhiệm: 
Chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ, cơ quan liên 
quan phân bổ, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc chi kinh phí thực hiện Đề án 
theo các quy định hiện hành của Luật Ngân sách nhà nước. 
 đ) Bộ Nội vụ có trách nhiệm: 
Chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu, hướng dẫn, ban 
hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản sửa đổi, bổ sung các 
quy định về cơ chế, chính sách tuyển dụng, sử dụng định mức biên chế giáo 
viên, giảng viên ngoại ngữ phù hợp trong hệ thống giáo dục quốc dân; 
e) Bộ Thông tin và Truyền thông có trách nhiệm: 
Chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các cơ quan thông 
tin truyền thông tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức toàn 
xã hội về các chương trình đổi mới công tác giáo dục, đào tạo ngoại ngữ trong 
hệ thống giáo dục quốc dân, đáp ứng yêu cầu mới; tạo môi trường văn hóa, 
điều kiện thuận lợi cho việc dạy và học ngoại ngữ. 
g) Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách 
nhiệm: 
- Chỉ đạo ngành giáo dục và đào tạo, các cơ quan chức năng ở địa 
phương xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch triển khai Đề án 
trên địa bàn; kiểm tra, giám sát, đánh giá, tổng hợp kết quả thực hiện Đề án tại 
địa phương, định kỳ báo cáo Ban Chỉ đạo Trung ương và Bộ Giáo dục và Đào 
tạo; 
 44
- Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ, cơ quan Trung ương 
để chỉ đạo thống nhất, đồng bộ, phù hợp với yêu cầu, kế hoạch chung toàn 
quốc việc triển khai thực hiện Đề án này trên địa bàn. 
h) Các cơ sở giáo dục có trách nhiệm: 
- Quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các hoạt động 
liên quan đến công tác đào tạo ngoại ngữ trong cơ sở mình, đáp ứng yêu cầu 
chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ Đề án đã đặt ra; 
- Tích cực, chủ động triển khai các nhiệm vụ trong thẩm quyền mà Đề án 
đã giao. 
E. KINH PHÍ DỰ TOÁN 
Kinh phí dự toán để thực hiện Đề án giai đoạn 2008 - 2020 là: 
9.738.000.000.000 đồng (Chín ngàn bảy trăm ba mươi tám tỷ đồng). Kinh 
phí này được phân chia theo giai đoạn và những nội dung chính như sau: 
I. Giai đoạn 2008 – 2010: 
TT Nội dung công việc Thời gian thực hiện 
Kinh phí 
(Triệu 
đồng) 
1. 
 Xây dựng chương trình và biên soạn sách giáo 
khoa ở phổ thông theo Chương trình 10 năm và 
chương trình, giáo trình, tài liệu dạy học cho các 
trường dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao 
đẳng, đại học và giáo dục thường xuyên. 
2008– 2009 
10.000 
2. Lựa chọn, thẩm định một số chương trình, sách 
giáo khoa, tài liệu dạy học ngoại ngữ của nuớc 
ngoài phù hợp với mục tiêu, yêu cầu dạy học ngoại 
ngữ ở Việt Nam để sử dụng. 
2008-2010 
2.000 
3. Xây dựng chương trình và tài liệu dạy và học 
ngoại ngữ tăng cường, chuyên ngữ và song ngữ ở 
một số môn học của giáo dục phổ thông, một số 
môn học, ngành học của cao đẳng, đại học. 
2008- 2009 3.000 
4. Đào tạo bổ sung và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên 
ngoại ngữ : 
 - Tiểu học năm học 2010 – 2011 
 - Trung học cơ sở năm học 2013 - 2014 
2008– 2010 
2009– 2012 
22.000 
62.000 
 45
5. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên ngoại ngữ 
giai đoạn 2007-2010 cho các trường dạy nghề, trung 
cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học. 
2008 - 2010 55.000 
6. Cung cấp trang thiết bị dạy học, xây dựng phòng 
học tiếng nước ngoài, phòng nghe nhìn và phòng đa 
phương tiện cho một số trường tiểu học, dạy nghề, 
trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học 
2008 - 2010 900.000 
7. Xây dựng và ban hành chính sách khuyến khích, 
thu hút các công dân Việt Nam giỏi ngoại ngữ và 
các giáo viên là người Việt Nam ở nước ngoài, các 
giáo viên bản ngữ, các giáo viên ngoại ngữ của các 
tổ chức tình nguyện của các nước như Anh, Mỹ, 
Ôtxtrâylia v.v... tham gia dạy học ngoại ngữ trong 
các trường học các cấp. 
2008 - 2010 5.000 
8. Xây dựng và ban hành chính sách xây dựng môi 
trường làm việc, văn hoá, thông tin theo hướng hỗ 
trợ sử dụng thường xuyên và hiệu quả ngoại ngữ, 
nâng cao động lực học ngoại ngữ trong thế hệ trẻ. 
2008 - 2010 1.000 
 Cộng 1.060.000 
II. Giai đoạn 2011 – 2015: 
TT Nội dung công việc Thời gian thực hiện 
Kinh phí 
(Triệu 
đồng) 
1. Đào tạo bổ sung và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên 
ngoại ngữ trung học phổ thông năm học 2016 - 
2017 
2011 - 
2015 
78.000 
2. Tiếp tục tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, nâng 
cao trình độ và năng lực ngoại ngữ của giáo viên 
ngoại ngữ ở các cấp học, trình độ đào tạo. 
2011 - 
2015 
250.000 
3. Tiếp tục xây dựng các phòng dạy và học ngoại 
ngữ, phòng nghe nhìn và phòng học đa phương tiện 
cho các trường học các cấp. 
2011 - 
2015 
4.000.000 
4. Tiếp tục tuyển dụng giáo viên bản ngữ, giáo viên 
tình nguyễn của các tổ chức quốc tế, Việt kiều tham 
gia dạy học ngoại ngữ 
2011 - 
2020 
50.000 
 Cộng 4.378.000 
 46
III. Giai đoạn 2016 – 2020: 
TT Nội dung công việc Thời gian thực hiện 
Kinh phí 
(Triệu 
đồng) 
1. Tiếp tục tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, nâng 
cao trình độ và năng lực ngoại ngữ của giáo viên 
ngoại ngữ ở các cấp học, trình độ đào tạo. 
2016 - 
2020 
250.000 
2. Tiếp tục xây dựng các phòng dạy và học ngoại 
ngữ, phòng nghe nhìn và phòng học đa phương tiện 
cho các trường học các cấp. 
2016 - 
2020 
4.000.000 
3. Tiếp tục tuyển dụng giáo viên bản ngữ, giáo viên 
tình nguyễn của các tổ chức quốc tế, Việt kiều tham 
gia dạy học ngoại ngữ 
2016 - 
2020 
50.000 
 Cộng 4.300.000 
 Số kinh phí nói trên dự kiến sẽ được cung cấp từ các nguồn kinh phí 
của các chương trình, đề án, dự án trong nước và các chương trình, dự án viện 
trợ, vay vốn có liên quan, cũng như từ các nguồn khác có thể huy động được, 
cụ thể là: 
- Một số Dự án thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia giáo dục và đào 
tạo giai đoạn 2006-2010: 
+ Dự án: “Đổi mới chương trình và nội dung sách giáo khoa”; 
+ Dự án: “Đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, tăng cường cơ sở vật 
chất các trường sư phạm”; 
+ Dự án: “Tăng cường cơ sở vật chất các trường học, các trung tâm 
kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp; xây dựng một số trường đại 
học, trung học chuyên nghiệp trọng điểm”; 
+ Dự án: "Dự án tăng cường năng lực đào tạo nghề". 
- Đề án: “Đào tạo Tin học và ứng dụng công nghệ thông tin, tăng cường 
năng lực ngoại ngữ trong các trường học”. 
- Đề án "Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý 
giáo dục giai đoạn 2005-2010". 
- Nguồn xã hội hóa giáo dục trong việc cung cấp trang thiết bị cho các 
cấp học, các bậc trình độ đào tạo (ước tính: 10 - 50% tổng kinh phí dự 
 47
toán cho đầu tư trang thiết bị dạy và học ngoại ngữ theo các cấp học, 
các bậc trình độ đào tạo). 
F. KHÓ KHĂN DỰ KIẾN VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC 
Trong quá trình triển khai Đề án, dự kiến sẽ gặp phải những khó khăn 
chính như sau: 
1. Thời lượng của Chương trình ngoại ngữ 10 năm được thiết kế trong Đề 
án là 1.155 tiết, được phân chia đối với các cấp học như sau : Tiểu học 4 
tiết/tuần, Trung học cơ sở 3 tiết/tuần, Trung học phổ thông 3 tiết/tuần. Như 
vậy so với các chương trình ngoại ngữ trước đây (Chương trình 3 năm và 
Chương trình 7 năm), thời lượng dạy và học ngoại ngữ đã tăng một cách đáng 
kể và chủ yếu tập trung cho các lớp 3, lớp 4, lớp 5 của cấp Tiểu học. Trong 
thực tế hiện nay, ngoại ngữ ở tiểu học là môn tự chọn, không bắt buộc, nên 
việc triển khai chương trình mới bắt đầu từ lớp 3 sẽ gặp nhiều khó khăn, nhất 
là việc đảm bảo thời lượng và đội ngũ giáo viên. 
Để khắc phục khó khăn sẽ gặp phải như trên, cần có những giải pháp sau: 
- Tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày ở Tiểu học để đảm bảo yêu cầu về thời 
lượng dạy học ngoại ngữ và các môn học khác. Trước mắt khuyến khích các 
trường tiểu học có đủ điều kiện và được sự ủng hộ của cha mẹ học sinh tham 
gia vào việc dạy học ngoại ngữ theo chương trình mới do Đề án đề xuất. 
- Từng bước triển khai chương trình ngoại ngữ mới với mức độ và phạm vi 
phù hợp để đảm bảo yêu cầu có đủ giáo viên ngoại ngữ. Trước hết, chỉ triển 
khai dạy và học theo chương trình mới ở những thành phố thị xã, thị trấn có 
cơ sở đào tạo giáo viên ngoại ngữ. Đồng thời cần có chính sách tuyển dụng, 
đãi ngộ và bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm phù hợp để thu hút những người có 
trình độ ngoại ngữ từ các lĩnh vực khác tham gia giảng dạy ngoại ngữ trong 
các trường tiểu học. Khuyến khích giáo viên ngoại ngữ được tham gia dạy học 
ở nhiều trường. 
2. Chương trình ngoại ngữ 10 năm dự kiến thí điểm vào năm học 2009 - 
2010 và triển khai chính thức ở lớp 3 Tiểu học từ năm học 2010 - 2011. Như 
vậy, thời gian chuẩn bị về chương trình và sách giáo khoa là hết sức gấp gáp. 
Nếu không có sự đầu tư thích hợp về thời gian và các nguồn lực khác thì sẽ 
phải triển khai chậm lại một thời gian. 
Để khắc phục khó khăn này, cần : 
 48
- Tổ chức tuyển chọn những người có đủ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư 
phạm, kinh nghiệm giảng dạy và biên soạn chương trình, sách giáo khoa tham 
gia vào đội ngũ tác giả xây dựng chương trình và biên soạn sách giáo khoa. 
- Cho phép các địa phương, các phòng giáo dục quận, huyện lựa chọn và 
quyết định sử dụng các sách giáo khoa ngoại ngữ phù hợp hiện có trong nước 
để dạy và học ngoại ngữ ở các trường tiểu học của địa phương mình theo 
chương trình ngoại ngữ mới, thống nhất trên cả nước. 
---//--- 

File đính kèm:

  • pdfde_an_day_va_hoc_ngoai_ngu_trong_he_thong_giao_duc_quoc_dan.pdf