Đề án Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020
A. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
I. Bối cảnh
Ngày nay, thế giới đã bước vào thập kỉ đầu tiên của thế kỉ 21 và đang
chứng kiến, thậm chí đang bị cuốn vào dòng thác của sự biến đổi vô cùng lớn
lao của xã hội loài người với đặc trưng là: toàn cầu hoá, công nghệ thông tin,
xã hội học tập. Có thể nói, toàn cầu hoá, sự đổi mới công nghệ, đặc biệt là
công nghệ thông tin và nhu cầu học tập suốt đời đã và đang thôi thúc và giúp
chúng ta tổ chức lại một cách cơ bản đời sống xã hội, đưa loài người đến với
nền kinh tế tri thức, bước vào nền văn minh trí tuệ.
Nhận thức rõ bối cảnh và xu thế phát triển của thời đại hiện nay, Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã xác định mục tiêu chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 – 2010) là`: “Đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công
nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường,
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ
bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao .”.
Bối cảnh chung của thế giới, mục tiêu chiến lược của nước ta như vậy
đã trao cho nhà trường một trách nhiệm vô cùng vẻ vang và nặng nề, đó là
hình thành và phát triển những giá trị mới cho con người cả về khía cạnh nhân
văn và kĩ thuật. Hoàn thành trách nhiệm đó là nhiệm vụ của tất cả các môn
học và các hoạt động trong nhà trường nói chung và của việc dạy và học
ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam nói riêng. Kinh
nghiệm của các nước phát triển và các nước công nghiệp mới trên thế giới
cũng như trong khu vực châu Á - Thái Bình dương đã chỉ rõ, trong những
điều kiện cần thiết để hội nhập và phát triển thì ngoại ngữ là một công cụ,
phương tiện đắc lực và hữu hiệu trong tiến trình hội nhập và phát triển trong
thời đại ngày nay.
Từ sau khi nước nhà giành được độc lập đến nay, do những điều kiện
lịch sử, quan hệ ngoại giao và nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của từng
thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta đã tổ chức dạy và học một số
tiếng nước ngoài, trong đó phổ biến là bốn thứ tiếng: tiếng Anh, tiếng Pháp,
tiếng Nga và tiếng Trung Quốc. Việc dạy và học ngoại ngữ đã có những đóng
góp lớn lao đối với sự tiến bộ trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội của nước ta
trong suốt thời gian qua.
Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hoá và sự hội nhập quốc tế đang là
xu thế của thời đại và trong bối cảnh đổi mới, mở cửa hướng ra thế giới, làm4
bạn với các nước trên thế giới, chúng ta đã nhận thấy những bất cập của việc
dạy và học ngoại ngữ trước đòi hỏi của sự phát triển kinh tế và trước nhu cầu
hội nhập, mở rộng giao lưu vượt ra khỏi phạm vi quốc gia của đông đảo nhân
dân. Tình trạng lãng phí, kém hiệu quả của việc dạy và học ngoại ngữ, những
khó khăn trong việc trao đổi nguồn nhân lực trong phạm vi hợp tác song
phương hoặc đa phương đòi hỏi chúng ta phải xem xét một cách nghiêm
túc thực trạng dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân trong
những năm qua, từ đó nghiên cứu kĩ lưỡng, hoạch định một chiến lược dạy và
học ngoại ngữ vừa khả thi, vừa đáp ứng được những yêu cầu phát triển tương
lai của nước ta
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề án Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC -------------------------- ĐỀ ÁN Hà nội – 2008 1 Mục lục Trang Các chữ viết tắt 2 A. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG 3 I. Bối cảnh 3 II. Thời cơ và thách thức 4 III. Đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về dạy và học ngoại ngữ 5 IV. Kinh nghiệm dạy và học ngoại ngữ ở một số nước trên thế giới và trong khu vực 6 V. Thực trạng dạy và học ngoại ngữ ở nước ta hiện nay 10 B. MỤC TIÊU - GIẢI PHÁP 25 I. Các yêu cầu đối với đổi mới dạy và học ngoại ngữ 25 II. Các nội dung đổi mới dạy và học ngoại ngữ 25 III. Mục tiêu 32 IV. Các nhóm giải pháp 33 C. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN 38 D. BỘ MÁY CHỈ ĐẠO VÀ PHÂN CÔNG TRÁCH NHIỆM 42 I. Thành lập Ban điều hành Đề án 42 II. Phân công trách nhiệm của các Bộ, ngành 42 E. KINH PHÍ DỰ TOÁN 44 F. KHÓ KHĂN DỰ KIẾN VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC 47 2 Các chữ viết tắt BTVH Bổ túc văn hoá CĐ Cao đẳng CP Chính phủ CT Chương trình DN Dạy nghề ĐH Đại học ĐVHT Đơn vị học trình GD&ĐT Giáo dục và đào tạo GDTX Giáo dục thường xuyên GDP Tổng sản phẩm quốc nội GV Giáo viên HS Học sinh KNLNN Khung năng lực ngoại ngữ NN Ngoại ngữ NN1 Ngoại ngữ một NN2 Ngoại ngữ hai NN1 CĐ/ĐH Ngoại ngữ một ở bậc cao đẳng/đại học NN2 CĐ/ĐH Ngoại ngữ hai ở bậc cao đẳng/đại học NXB Nhà xuất bản PHNN Phòng học ngoại ngữ PĐPT Phòng đa phương tiện QH Quốc hội SGK Sách giáo khoa SV Sinh viên TCCN Trung cấp chuyên nghiệp THCN Trung học chuyên nghiệp THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông ThS Thạc sỹ TiH Tiểu học TP HCM Thành phố Hồ Chí Minh TS Tiến sỹ TTGDTX Trung tâm giáo dục thường xuyên TTN Trung tâm nguồn 3 A. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG I. Bối cảnh Ngày nay, thế giới đã bước vào thập kỉ đầu tiên của thế kỉ 21 và đang chứng kiến, thậm chí đang bị cuốn vào dòng thác của sự biến đổi vô cùng lớn lao của xã hội loài người với đặc trưng là: toàn cầu hoá, công nghệ thông tin, xã hội học tập. Có thể nói, toàn cầu hoá, sự đổi mới công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và nhu cầu học tập suốt đời đã và đang thôi thúc và giúp chúng ta tổ chức lại một cách cơ bản đời sống xã hội, đưa loài người đến với nền kinh tế tri thức, bước vào nền văn minh trí tuệ. Nhận thức rõ bối cảnh và xu thế phát triển của thời đại hiện nay, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã xác định mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 – 2010) là`: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao ...”. Bối cảnh chung của thế giới, mục tiêu chiến lược của nước ta như vậy đã trao cho nhà trường một trách nhiệm vô cùng vẻ vang và nặng nề, đó là hình thành và phát triển những giá trị mới cho con người cả về khía cạnh nhân văn và kĩ thuật. Hoàn thành trách nhiệm đó là nhiệm vụ của tất cả các môn học và các hoạt động trong nhà trường nói chung và của việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam nói riêng. Kinh nghiệm của các nước phát triển và các nước công nghiệp mới trên thế giới cũng như trong khu vực châu Á - Thái Bình dương đã chỉ rõ, trong những điều kiện cần thiết để hội nhập và phát triển thì ngoại ngữ là một công cụ, phương tiện đắc lực và hữu hiệu trong tiến trình hội nhập và phát triển trong thời đại ngày nay. Từ sau khi nước nhà giành được độc lập đến nay, do những điều kiện lịch sử, quan hệ ngoại giao và nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của từng thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta đã tổ chức dạy và học một số tiếng nước ngoài, trong đó phổ biến là bốn thứ tiếng: tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga và tiếng Trung Quốc. Việc dạy và học ngoại ngữ đã có những đóng góp lớn lao đối với sự tiến bộ trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội của nước ta trong suốt thời gian qua. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hoá và sự hội nhập quốc tế đang là xu thế của thời đại và trong bối cảnh đổi mới, mở cửa hướng ra thế giới, làm 4 bạn với các nước trên thế giới, chúng ta đã nhận thấy những bất cập của việc dạy và học ngoại ngữ trước đòi hỏi của sự phát triển kinh tế và trước nhu cầu hội nhập, mở rộng giao lưu vượt ra khỏi phạm vi quốc gia của đông đảo nhân dân. Tình trạng lãng phí, kém hiệu quả của việc dạy và học ngoại ngữ, những khó khăn trong việc trao đổi nguồn nhân lực trong phạm vi hợp tác song phương hoặc đa phương đòi hỏi chúng ta phải xem xét một cách nghiêm túc thực trạng dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân trong những năm qua, từ đó nghiên cứu kĩ lưỡng, hoạch định một chiến lược dạy và học ngoại ngữ vừa khả thi, vừa đáp ứng được những yêu cầu phát triển tương lai của nước ta. II. Thời cơ và thách thức 1. Thời cơ Do chính sách mở cửa và sự phát triển kinh tế nhanh và ổn định của Việt Nam trong thời gian qua, việc dạy và học ngoại ngữ ở nước ta đang có những thời cơ hết sức quan trọng như sau: - Chủ trương mở cửa hội nhập và quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng chặt chẽ và rộng mở giữa nước ta và các nước trên thế giới, đặc biệt là với các nước có bản ngữ hoặc ngôn ngữ quốc gia phù hợp với ngoại ngữ được dạy và học trong hệ thống giáo dục quốc dân của nước ta, đã tạo tiền đề hết sức quan trọng cho việc tăng cường dạy và học ngoại ngữ với yêu cầu và chất lượng, hiệu quả ngày càng cao hơn trong giai đoạn tiếp theo. - Sự phát triển của khoa học kĩ thuật, đặc biệt là những thành tựu về công nghệ thông tin và truyền thông đã tạo ra những phương thức dạy học phù hợp với điều kiện và đối tượng người học như : dạy học từ xa, dạy học qua mạng ... và những phương tiện dạy và học ngoại ngữ hiện đại, có hiệu quả như các phương tiện nghe nhìn, internet, e-learning, ... - Sự gia tăng số lượng các tổ chức quốc tế và các đối tác nước ngoài vào đầu tư ở nước ta, nhu cầu xuất khẩu lực lượng lao động tăng mạnh và nhịp độ giao lưu ngày càng cao về văn hóa, thể thao, nghệ thuật giữa nước ta và các nước trên thế giới đã tạo nên nhu cầu thành thạo ngoại ngữ đối với đội ngũ lao động các cấp, nhất là đối với thế hệ trẻ trong việc tiếp tục học tập, tìm kiếm cơ hội việc làm, sự thành công trong sự nghiệp, đồng thời cũng tạo nên sự thay đổi về nhận thức của xã hội đối với vai trò và tầm quan trọng của việc dạy và học ngoại ngữ. 2. Thách thức Cùng với những thời cơ thuận lợi nêu trên, trong thời gian tới, việc dạy và học ngoại ngữ sẽ phải đương đầu với một số thách thức cơ bản sau: 5 - Nhu cầu của xã hội về ngoại ngữ, nhất là ngoại ngữ thông dụng trong giao dịch quốc tế ngày càng cao nhưng khả năng và điều kiện đầu tư của nhà nước và xã hội về cơ sở vật chất - thiết bị dạy học, đội ngũ giáo viên ... còn rất hạn hẹp. - Chủ trương mở cửa hội nhập, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế, đặc biệt là quan hệ truyền thống giữa nước ta và những nước có bản ngữ hoặc ngôn ngữ quốc gia đang được dạy và học trong hệ thống giáo dục quốc dân của nước ta đòi hỏi phải mở rộng qui mô, phạm vi và số lượng ngoại ngữ cần dạy và học nhiều hơn nữa, nhưng trước mắt, chúng ta chỉ có thể tập trung đầu tư nguồn lực cho ngoại ngữ là ngôn ngữ thông dụng trong giao dịch quốc tế. - Sự tiến bộ về khoa học kĩ thuật và công nghệ thông tin - truyền thông đã tạo những tiền đề vật chất - kĩ thuật hết sức thuận lợi cho việc dạy và học ngoại ngữ với quy mô và trình độ cao hơn, nhưng trình độ ứng dụng những tiến bộ đó vào việc dạy và học ngoại ngữ còn rất hạn chế. III. Đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về dạy và học ngoại ngữ Xuất phát từ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của ngoại ngữ trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, Đảng và Chính phủ đã có nhiều văn kiện về việc đẩy mạnh việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân nước ta. Ngày 11 tháng 4 năm 1968, Thủ tướng Chính phủ đã ra chỉ thị số 43/TTg về phương hướng và nhiệm vụ dạy và học ngoại ngữ ở các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và các trường phổ thông. Chỉ thị nêu rõ dạy và học một ngoại ngữ ở các trường cấp II và phấn đấu dạy và học hai ngoại ngữ ở các trường cấp III. Các thứ tiếng được dạy là: tiếng Nga, tiếng Trung Quốc, tiếng Anh và tiếng Pháp. Ngày 7 tháng 9 năm 1972, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 251- TTg về việc cải tiến và tăng cường công tác dạy và học ngoại ngữ trong các trường phổ thông. Quyết định này tiếp tục khẳng định ngoại ngữ là một môn học cơ bản trong chương trình phổ thông từ cấp II trở lên, nhấn mạnh việc dạy và học đồng thời hai ngoại ngữ (một chính, một phụ) ở cấp III, mở các trường chuyên ngoại ngữ ở những nơi có điều kiện, thành lập một trung tâm chuyên nghiên cứu việc dạy và học ngoại ngữ. Điều 24 của Luật Giáo dục (1998) cũng khẳng định vị trí quan trọng của ngoại ngữ trong nội dung học vấn phổ thông và đề ra yêu cầu bảo đảm cho học sinh có kiến thức cơ bản về ngoại ngữ. 6 Nghị quyết số 40/2000/QH10 của Quốc hội khoá 10 về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đã yêu cầu xây dựng đề án dạy và học ngoại ngữ ở trường phổ thông đến năm 2010. Ngày 11/6/2001, Thủ tướng chính phủ ra Chỉ thị số 14/2001/CT-TTg về đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông, trong đó yêu cầu xây dựng đề án “Giảng dạy, học tập ngoại ngữ trong trường phổ thông.” Báo cáo của Chính phủ tại kì họp thứ 6 Quốc hội khoá XI (12/2004) cũng đã nêu lên một trong những giải pháp đẩy mạnh khả năng chủ động hợp tác quốc tế trong giáo dục là “Triển khai chiến lược dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, tập trung chủ yếu vào tiếng Anh, khuyến khích dạy và học ngoại ngữ thứ hai. Cho phép một số cơ sở giáo dục đại học và sau đại học giảng dạy song ngữ (bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài) ở một số môn học, ngành học.” Kỳ họp thứ 7 của Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật giáo dục (sửa đổi), trong đó có quy định tại Điều 7, mục 3 như sau: “Ngoại ngữ được quy định trong chương trình giáo dục là ngôn ngữ được sử dụng phổ biến trong giao dịch quốc tế. Việc tổ chức dạy ngoại ngữ trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác cần bảo đảm để người học được học liên tục và có hiệu quả”. IV. Kinh nghiệm dạy và học ngoại ngữ ở một số nước trên thế giới và trong khu vực Từ nửa sau của thế kỷ 20, các nước trên thế giới đều nhận ra rằng sự cùng tồn tại hòa bình phụ thuộc vào việc hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia, sự coi trọng nhau như là những đối tác bình đẳng. Việc giao tiếp và trao đổi thông tin nhằm tăng cường hiểu biết giữa các nền kinh tế, xã hội và văn hóa đa dạng trở thành nền tảng cơ bản cho sự phát triển những chiến lược chung vì lợi ích của tất cả. Chỉ những c ... ộ, cơ quan có liên quan, các địa phương cụ thể hóa nội dung Đề án thành các chương trình, kế hoạch thực hiện chi tiết để chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện; kiểm tra, giám sát, đánh giá, tổng hợp kết quả triển khai thực hiện Đề án trong phạm vi cả nước theo hàng năm và từng giai đoạn, định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ; - Chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan có liên quan thành lập Ban Chỉ đạo liên ngành để chỉ đạo triển khai thực hiện Đề án gồm đại diện lãnh đạo các Bộ, cơ quan có liên quan, do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo làm Trưởng ban; - Phối hợp với Bộ Nội vụ sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định về định mức biên chế giáo viên, giảng viên ngoại ngữ; các cơ chế, chính sách tuyển dụng, sử dụng, quản lý việc dạy học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân; - Chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ hướng dẫn triển khai công tác bồi dưỡng ngoại ngữ, thường xuyên cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. b) Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội có trách nhiệm: 43 Chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan có liên quan chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực hiện Đề án trong lĩnh vực dạy nghề, phù hợp với lộ trình, kế hoạch triển khai chung do Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì hướng dẫn. c) Bộ kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm: - Chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo tổng hợp các kế hoạch triển khai hoạt động và đầu tư thực hiện Đề án theo hàng năm và từng giai đoạn để đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước, trình Thủ tướng Chính phủ theo quy định; - Phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội để tổng hợp, xây dựng các kế hoạch đầu tư ngân sách nhà nước đê ̉thực hiện Đề án. d) Bộ Tài chính có trách nhiệm: Chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ, cơ quan liên quan phân bổ, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc chi kinh phí thực hiện Đề án theo các quy định hiện hành của Luật Ngân sách nhà nước. đ) Bộ Nội vụ có trách nhiệm: Chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu, hướng dẫn, ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản sửa đổi, bổ sung các quy định về cơ chế, chính sách tuyển dụng, sử dụng định mức biên chế giáo viên, giảng viên ngoại ngữ phù hợp trong hệ thống giáo dục quốc dân; e) Bộ Thông tin và Truyền thông có trách nhiệm: Chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo các cơ quan thông tin truyền thông tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức toàn xã hội về các chương trình đổi mới công tác giáo dục, đào tạo ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, đáp ứng yêu cầu mới; tạo môi trường văn hóa, điều kiện thuận lợi cho việc dạy và học ngoại ngữ. g) Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm: - Chỉ đạo ngành giáo dục và đào tạo, các cơ quan chức năng ở địa phương xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch triển khai Đề án trên địa bàn; kiểm tra, giám sát, đánh giá, tổng hợp kết quả thực hiện Đề án tại địa phương, định kỳ báo cáo Ban Chỉ đạo Trung ương và Bộ Giáo dục và Đào tạo; 44 - Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ, cơ quan Trung ương để chỉ đạo thống nhất, đồng bộ, phù hợp với yêu cầu, kế hoạch chung toàn quốc việc triển khai thực hiện Đề án này trên địa bàn. h) Các cơ sở giáo dục có trách nhiệm: - Quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các hoạt động liên quan đến công tác đào tạo ngoại ngữ trong cơ sở mình, đáp ứng yêu cầu chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ Đề án đã đặt ra; - Tích cực, chủ động triển khai các nhiệm vụ trong thẩm quyền mà Đề án đã giao. E. KINH PHÍ DỰ TOÁN Kinh phí dự toán để thực hiện Đề án giai đoạn 2008 - 2020 là: 9.738.000.000.000 đồng (Chín ngàn bảy trăm ba mươi tám tỷ đồng). Kinh phí này được phân chia theo giai đoạn và những nội dung chính như sau: I. Giai đoạn 2008 – 2010: TT Nội dung công việc Thời gian thực hiện Kinh phí (Triệu đồng) 1. Xây dựng chương trình và biên soạn sách giáo khoa ở phổ thông theo Chương trình 10 năm và chương trình, giáo trình, tài liệu dạy học cho các trường dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và giáo dục thường xuyên. 2008– 2009 10.000 2. Lựa chọn, thẩm định một số chương trình, sách giáo khoa, tài liệu dạy học ngoại ngữ của nuớc ngoài phù hợp với mục tiêu, yêu cầu dạy học ngoại ngữ ở Việt Nam để sử dụng. 2008-2010 2.000 3. Xây dựng chương trình và tài liệu dạy và học ngoại ngữ tăng cường, chuyên ngữ và song ngữ ở một số môn học của giáo dục phổ thông, một số môn học, ngành học của cao đẳng, đại học. 2008- 2009 3.000 4. Đào tạo bổ sung và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên ngoại ngữ : - Tiểu học năm học 2010 – 2011 - Trung học cơ sở năm học 2013 - 2014 2008– 2010 2009– 2012 22.000 62.000 45 5. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên ngoại ngữ giai đoạn 2007-2010 cho các trường dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học. 2008 - 2010 55.000 6. Cung cấp trang thiết bị dạy học, xây dựng phòng học tiếng nước ngoài, phòng nghe nhìn và phòng đa phương tiện cho một số trường tiểu học, dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học 2008 - 2010 900.000 7. Xây dựng và ban hành chính sách khuyến khích, thu hút các công dân Việt Nam giỏi ngoại ngữ và các giáo viên là người Việt Nam ở nước ngoài, các giáo viên bản ngữ, các giáo viên ngoại ngữ của các tổ chức tình nguyện của các nước như Anh, Mỹ, Ôtxtrâylia v.v... tham gia dạy học ngoại ngữ trong các trường học các cấp. 2008 - 2010 5.000 8. Xây dựng và ban hành chính sách xây dựng môi trường làm việc, văn hoá, thông tin theo hướng hỗ trợ sử dụng thường xuyên và hiệu quả ngoại ngữ, nâng cao động lực học ngoại ngữ trong thế hệ trẻ. 2008 - 2010 1.000 Cộng 1.060.000 II. Giai đoạn 2011 – 2015: TT Nội dung công việc Thời gian thực hiện Kinh phí (Triệu đồng) 1. Đào tạo bổ sung và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên ngoại ngữ trung học phổ thông năm học 2016 - 2017 2011 - 2015 78.000 2. Tiếp tục tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ và năng lực ngoại ngữ của giáo viên ngoại ngữ ở các cấp học, trình độ đào tạo. 2011 - 2015 250.000 3. Tiếp tục xây dựng các phòng dạy và học ngoại ngữ, phòng nghe nhìn và phòng học đa phương tiện cho các trường học các cấp. 2011 - 2015 4.000.000 4. Tiếp tục tuyển dụng giáo viên bản ngữ, giáo viên tình nguyễn của các tổ chức quốc tế, Việt kiều tham gia dạy học ngoại ngữ 2011 - 2020 50.000 Cộng 4.378.000 46 III. Giai đoạn 2016 – 2020: TT Nội dung công việc Thời gian thực hiện Kinh phí (Triệu đồng) 1. Tiếp tục tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ và năng lực ngoại ngữ của giáo viên ngoại ngữ ở các cấp học, trình độ đào tạo. 2016 - 2020 250.000 2. Tiếp tục xây dựng các phòng dạy và học ngoại ngữ, phòng nghe nhìn và phòng học đa phương tiện cho các trường học các cấp. 2016 - 2020 4.000.000 3. Tiếp tục tuyển dụng giáo viên bản ngữ, giáo viên tình nguyễn của các tổ chức quốc tế, Việt kiều tham gia dạy học ngoại ngữ 2016 - 2020 50.000 Cộng 4.300.000 Số kinh phí nói trên dự kiến sẽ được cung cấp từ các nguồn kinh phí của các chương trình, đề án, dự án trong nước và các chương trình, dự án viện trợ, vay vốn có liên quan, cũng như từ các nguồn khác có thể huy động được, cụ thể là: - Một số Dự án thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo giai đoạn 2006-2010: + Dự án: “Đổi mới chương trình và nội dung sách giáo khoa”; + Dự án: “Đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, tăng cường cơ sở vật chất các trường sư phạm”; + Dự án: “Tăng cường cơ sở vật chất các trường học, các trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp; xây dựng một số trường đại học, trung học chuyên nghiệp trọng điểm”; + Dự án: "Dự án tăng cường năng lực đào tạo nghề". - Đề án: “Đào tạo Tin học và ứng dụng công nghệ thông tin, tăng cường năng lực ngoại ngữ trong các trường học”. - Đề án "Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005-2010". - Nguồn xã hội hóa giáo dục trong việc cung cấp trang thiết bị cho các cấp học, các bậc trình độ đào tạo (ước tính: 10 - 50% tổng kinh phí dự 47 toán cho đầu tư trang thiết bị dạy và học ngoại ngữ theo các cấp học, các bậc trình độ đào tạo). F. KHÓ KHĂN DỰ KIẾN VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC Trong quá trình triển khai Đề án, dự kiến sẽ gặp phải những khó khăn chính như sau: 1. Thời lượng của Chương trình ngoại ngữ 10 năm được thiết kế trong Đề án là 1.155 tiết, được phân chia đối với các cấp học như sau : Tiểu học 4 tiết/tuần, Trung học cơ sở 3 tiết/tuần, Trung học phổ thông 3 tiết/tuần. Như vậy so với các chương trình ngoại ngữ trước đây (Chương trình 3 năm và Chương trình 7 năm), thời lượng dạy và học ngoại ngữ đã tăng một cách đáng kể và chủ yếu tập trung cho các lớp 3, lớp 4, lớp 5 của cấp Tiểu học. Trong thực tế hiện nay, ngoại ngữ ở tiểu học là môn tự chọn, không bắt buộc, nên việc triển khai chương trình mới bắt đầu từ lớp 3 sẽ gặp nhiều khó khăn, nhất là việc đảm bảo thời lượng và đội ngũ giáo viên. Để khắc phục khó khăn sẽ gặp phải như trên, cần có những giải pháp sau: - Tổ chức dạy học 2 buổi/ ngày ở Tiểu học để đảm bảo yêu cầu về thời lượng dạy học ngoại ngữ và các môn học khác. Trước mắt khuyến khích các trường tiểu học có đủ điều kiện và được sự ủng hộ của cha mẹ học sinh tham gia vào việc dạy học ngoại ngữ theo chương trình mới do Đề án đề xuất. - Từng bước triển khai chương trình ngoại ngữ mới với mức độ và phạm vi phù hợp để đảm bảo yêu cầu có đủ giáo viên ngoại ngữ. Trước hết, chỉ triển khai dạy và học theo chương trình mới ở những thành phố thị xã, thị trấn có cơ sở đào tạo giáo viên ngoại ngữ. Đồng thời cần có chính sách tuyển dụng, đãi ngộ và bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm phù hợp để thu hút những người có trình độ ngoại ngữ từ các lĩnh vực khác tham gia giảng dạy ngoại ngữ trong các trường tiểu học. Khuyến khích giáo viên ngoại ngữ được tham gia dạy học ở nhiều trường. 2. Chương trình ngoại ngữ 10 năm dự kiến thí điểm vào năm học 2009 - 2010 và triển khai chính thức ở lớp 3 Tiểu học từ năm học 2010 - 2011. Như vậy, thời gian chuẩn bị về chương trình và sách giáo khoa là hết sức gấp gáp. Nếu không có sự đầu tư thích hợp về thời gian và các nguồn lực khác thì sẽ phải triển khai chậm lại một thời gian. Để khắc phục khó khăn này, cần : 48 - Tổ chức tuyển chọn những người có đủ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, kinh nghiệm giảng dạy và biên soạn chương trình, sách giáo khoa tham gia vào đội ngũ tác giả xây dựng chương trình và biên soạn sách giáo khoa. - Cho phép các địa phương, các phòng giáo dục quận, huyện lựa chọn và quyết định sử dụng các sách giáo khoa ngoại ngữ phù hợp hiện có trong nước để dạy và học ngoại ngữ ở các trường tiểu học của địa phương mình theo chương trình ngoại ngữ mới, thống nhất trên cả nước. ---//---
File đính kèm:
- de_an_day_va_hoc_ngoai_ngu_trong_he_thong_giao_duc_quoc_dan.pdf