Chuyên đề Tốt nghiệp Những bất cập và giải pháp hoàn thiện chế độ phân cấp quản lý nhân sự ngân hàng ở Việt nam trong điều kiện hiện nay

Với mục tiêu “quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, xây dựng

Ngân sách Nhà nước (NSNN) lành mạnh, củng cố kỷ luật tài chính, sử

dụng tiết kiệm, có hiệu quả tiền của của Nhà nước; tăng tích luỹ để thực

hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước theo định hướng XHCN, đáp

ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân;

đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối ngoại”, luật NSNN-một đạo luật quan

trọng trong hệ thống tài chính- đã được Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 9

thông qua ngày 20-3-1996; sau đó được sửa đổi, bổ sung bởi luật số

06/1998/QH 10 ngày 20-5-1998, đánh dấu mốc lịch sử quan trọng trong

công tác quản lý, điều hành NSNN ở nước ta, tạo cơ sở pháp lý cao nhất

cho hoạt động của NSNN.

Sau bốn năm thực hiện luật NSNN, thực tiễn đã khẳng định vai trò của

luật trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Hoạt động NSNN dần

được quan tâm không chỉ từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước mà còn từ

phía người dân và các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cũng dựa trên cơ sở

phản hồi từ phía người dân và doanh nghiệp, luật đã bộc lộ nhiều bất cập

không chỉ giữa văn bản và thực tế áp dụng mà cả những bất cập trong công

tác chỉ đạo điều hành. Một trong những nguyên nhân dẫn đến những bất

cập trên là việc quyết định phân chia nguồn thu, nhiệm vụ chi tiêu cho các

cấp ngân sách và phân giao nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan trong bộ

máy quản lý Nhà nước vẫn còn tồn tại nhiều nhược điểm cần xem xét lại.

Để góp phần tiếp tục hoàn chỉnh hơn nữa luật NSNN nói chung và chế

độ phân cấp quản lý nhân sách nói riêng, tác giả chọn đề tài: “Những bất

cập và giải pháp hoàn thiện chế độ phân cấp quản lý NSNN ở Việt nam

trong điều kiện hiện nay”. Từ đó muốn thông qua thực tiễn để làm sáng tỏ

những cái được và chưa được của chế độ phân cấp quản lý cả về phương

diện pháp lý (các văn bản liên quan đến NSNN) và công tác chỉ đạo điều

hành, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện luật, đáp ứng yêu

cầu phát triển kinh tế, xã hội trong thời kỳ đổi mới, phát huy tối đa hiệu6

quả của NSNN trong việc điều chỉnh nền kinh tế theo những mục tiêu đã

đặt ra.

pdf 57 trang chauphong 20/08/2022 10000
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chuyên đề Tốt nghiệp Những bất cập và giải pháp hoàn thiện chế độ phân cấp quản lý nhân sự ngân hàng ở Việt nam trong điều kiện hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyên đề Tốt nghiệp Những bất cập và giải pháp hoàn thiện chế độ phân cấp quản lý nhân sự ngân hàng ở Việt nam trong điều kiện hiện nay

Chuyên đề Tốt nghiệp Những bất cập và giải pháp hoàn thiện chế độ phân cấp quản lý nhân sự ngân hàng ở Việt nam trong điều kiện hiện nay
 3 
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP 
KHOA 
TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG 
Đề tài: “Những bất cập và giải pháp hoàn thiện chế độ phân cấp quản 
lý NSNN ở Việt nam trong điều kiện hiện nay”. 
 4 
mục lục 
Mở đầu 4 
Chương 1. hệ thống ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường 
I. Bản chất và vai trò của ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường 
5 
1.Bản chất của ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường 5 
2. Vai trò của ngân sách nhà nước trong nề kinh tế thị trường 6 
 2.1 Đặc điểm của cơ chế kinh tế thị trường 6 
 2.2 Vai trò của ngân sách nhà nước trong cơ chế thị trường 8 
II. hệ thống ngân sách nhà nước 10 
Chương 2. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước và thực trạng phân cấp quản lý 
ngân sách nhà nước ở việt nam 
I.Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước 13 
 1. Sự cần thiết và tác dụng của phân cấp quản lý ngân sách nhà nước 13 
 2. Khái niệm và các nguyên tắc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước 14 
 3 .Nội dung phân cấp quản lý ngân sách nhà nước 16 
II. Thực trạng phân cấp quản lý ngân sách nhà nước ở Việt nam 29 
Chương 3. Một số kiến nghị hoàn thiện chế độ phân cấp quản 43 
lý ngân sách nhà nước ở Việt nam hiện nay 
Kết luận 55 
 5 
Mở đầu 
 Với mục tiêu “quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, xây dựng 
Ngân sách Nhà nước (NSNN) lành mạnh, củng cố kỷ luật tài chính, sử 
dụng tiết kiệm, có hiệu quả tiền của của Nhà nước; tăng tích luỹ để thực 
hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước theo định hướng XHCN, đáp 
ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân; 
đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối ngoại”, luật NSNN-một đạo luật quan 
trọng trong hệ thống tài chính- đã được Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 9 
thông qua ngày 20-3-1996; sau đó được sửa đổi, bổ sung bởi luật số 
06/1998/QH 10 ngày 20-5-1998, đánh dấu mốc lịch sử quan trọng trong 
công tác quản lý, điều hành NSNN ở nước ta, tạo cơ sở pháp lý cao nhất 
cho hoạt động của NSNN. 
 Sau bốn năm thực hiện luật NSNN, thực tiễn đã khẳng định vai trò của 
luật trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Hoạt động NSNN dần 
được quan tâm không chỉ từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước mà còn từ 
phía người dân và các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cũng dựa trên cơ sở 
phản hồi từ phía người dân và doanh nghiệp, luật đã bộc lộ nhiều bất cập 
không chỉ giữa văn bản và thực tế áp dụng mà cả những bất cập trong công 
tác chỉ đạo điều hành. Một trong những nguyên nhân dẫn đến những bất 
cập trên là việc quyết định phân chia nguồn thu, nhiệm vụ chi tiêu cho các 
cấp ngân sách và phân giao nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan trong bộ 
máy quản lý Nhà nước vẫn còn tồn tại nhiều nhược điểm cần xem xét lại. 
 Để góp phần tiếp tục hoàn chỉnh hơn nữa luật NSNN nói chung và chế 
độ phân cấp quản lý nhân sách nói riêng, tác giả chọn đề tài: “Những bất 
cập và giải pháp hoàn thiện chế độ phân cấp quản lý NSNN ở Việt nam 
trong điều kiện hiện nay”. Từ đó muốn thông qua thực tiễn để làm sáng tỏ 
những cái được và chưa được của chế độ phân cấp quản lý cả về phương 
diện pháp lý (các văn bản liên quan đến NSNN) và công tác chỉ đạo điều 
hành, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện luật, đáp ứng yêu 
cầu phát triển kinh tế, xã hội trong thời kỳ đổi mới, phát huy tối đa hiệu 
 6 
quả của NSNN trong việc điều chỉnh nền kinh tế theo những mục tiêu đã 
đặt ra. 
Chương I: Hệ thống Ngân sách Nhà nước và phân cấp quản lý Ngân sách 
Nhà nước. 
I. Bản chất và vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường. 
1. Bản chất của NSNN. 
 Trong tiến trình lịch sử, NSNN với tư cách là một phạm trù kinh tế đã 
ra đời và tồn tại từ lâu. Là một công cụ Tài chính quan trọng của Nhà 
nước, NSNN xuất hiện dựa trên cơ sở hai tiền đề khách quan là tiền đề Nhà 
nước và tiền đề kinh tế hàng hoá- tiền tệ. 
 Trong lịch sử loài người, Nhà nước xuất hiện là kết quả của cuộc đấu 
tranh giai cấp trong xã hội. Nhà nước ra đời tất yếu kéo theo nhu cầu tập 
trung nguồn lực tài chính vào trong tay Nhà nước để làm phương tiện vật 
chất trang trải cho các chi phí nuôi sống bộ máy Nhà nước và thực hiện các 
chức năng kinh tế, xã hội của Nhà nước. Bằng quyền lực của mình, Nhà 
nước tham gia vào quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội. Trong điều 
kiện kinh tế hàng hoá- tiền tệ, các hình thức tiền tệ trong phân phối như: 
thuế bằng tiền, vay nợđược Nhà nước sử dụng để tạo lập quỹ tền tệ riêng 
có: NSNN. Như vậy, NSNN là ngân sách của Nhà nước, hay Nhà nước là 
chủ thể của ngân sách đó. 
 NSNN là khái niệm quen thuộc theo nghĩa rộng mà bất kỳ người dân 
nào cũng biết được, song lại có rất nhiều định nghĩa khác nhau về NSNN: 
 Theo quan điểm của Nga: NSNN là bảng thống kê các khoản thu và 
chi bằng tiền của Nhà nước trong một giai đoạn nhất định. 
 Một cách hiểu tương tự, người Pháp cho rằng: NSNN là toàn bộ tài 
liệu kế toán mô tả và trình bày các khoản thu và kinh phí của Nhà nước 
trong một năm. 
 7 
 Có thể thấy rằng các quan điểm trên đều cho thấy biểu hiện bên ngoài 
của NSNN và mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước và NSNN. 
 Trong hệ thống tài chính, NSNN là khâu chủ đạo, đóng vai trò hết sức 
quan trọng trong việc duy trì sự tồn tại của bộ máy quyền lực Nhà nước. 
Tại Việt nam, định nghĩa về NSNN được nêu rõ trong luật NSNN 
(20/3/1996): NSNN là toàn bộ các khoản thu và chi của Nhà nước trong 
dự toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được 
thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ 
của Nhà nước.(Điều1- luật NSNN). 
 Trong thực tiễn, hoạt động NSNN là hoạt động thu (tạo lập) và chi tiêu 
(sử dụng) quỹ tiền tệ của Nhà nước, làm cho nguồn tài chính vận động giữa 
một bên là các chủ thể kinh tế, xã hội trong quá trình phân phối tổng sản 
phẩm quốc dân dưới hình thức giá trị và một bên là Nhà nước. Đó chính là 
bản chất kinh tế của NSNN. Đứng sau các hoạt động thu, chi là mối quan 
hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể kinh tế, xã hội. Nói cách khác, 
NSNN phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các chủ thể trong 
phân phối tổng sản phẩm xã hội, thông qua việc tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ 
tập trung của Nhà nước, chuyển dịch một bộ phận thu nhập bằng tiền của 
các chủ thể đó thành thu nhập của Nhà nước và Nhà nước chuyển dịch thu 
nhập đó đến các chủ thể được thực hiện để thực hiện các chức năng, nhiệm 
vụ của Nhà nước. 
2. Vai trò của Ngân sách Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. 
2.1. Đặc điểm của cơ chế kinh tế thị trường. 
 Mọi hệ thống kinh tế đều được tổ chức theo cách này hay cách khác để 
huy động tối đa các nguồn lực của xã hội và sử dụng có hiệu quả nguồn lực 
đó nhằm sản xuất ra các hàng hoá và dịch vụ thoả mãn nhu cầu của xã hiội. 
Việc sản xuất ra những loại hàng hoá gì, được tiến hành theo phương pháp 
nào là tốt nhất, việc phân phối hàng hoá được sản xuất ra đáp ứng tốt cho 
 8 
nhu cầu của xã hội, đó là vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế, xã hội. Lực 
lượng nào quyết định những vấn đề cơ bản đó? Trong nền kinh tế mà 
người ta gọi là Kinh tế chỉ huy, các vấn đề cơ bản đó được cơ quan của 
Nhà nước quyết định. Còn trong nền kinh tế mà vấn đề cơ bản của nó do 
thị trường quyết định được gọi là Kinh tế thị trường. 
 Trong nền kinh tế hàng hoá có một loạt những quy luật kinh tế vốn có 
của nó hoạt động như: quy luật giá trị, quy luật cung- cầu, quy luật cạnh 
tranh, quy luật lưu thông tiền tệvà lợi nhuận là động lực cơ bản của sự 
vân động đó. Các quy luật biểu hiện sự tác động của mình thông qua thị 
trường. Nhờ sự vân động của hệ thống giá cả thị trường mà diễn ra sự thích 
ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ 
cấu nhu cầu của xã hội. 
 Có thể hiểu cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết kinh tế hàng hoá do 
sự tác động của các quy luật kinh tế, cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản 
của tổ chức kinh tế là sản xuất cái gì, như thế nào và cho ai. Cơ chế thi 
trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung cầu và giả cả thị trường. Thực 
tế khó đánh giá đầy đủ ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường. Nhìn 
chung nó có các ưu điểm cơ bản sau: 
 * Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và 
tạo đIều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền 
kinh tế phát triển năng động, phát huy được các nguồn lực của xã hội vào 
phát triển kinh tế. 
 * Cạnh tranh buộc nhà sản xuất phải hao phí lao động cá biệt đến 
mức thấp nhất có thể được bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ mới 
vào sản xuất, nhờ đó mà thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao 
năng suất lao động, nâng cao chất lượng và số lượng hàng hoá. 
 * Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát 
giữa khối lượng và cơ câú sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu xã 
 9 
hội, nhờ đó có thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và sản xuất về 
hàng ngàn, hàng vạn loại sản phẩm khác nhau. 
 * Trong cơ chế thị trường tồn tại sự đa dạng của các thị trường. Bên 
cạnh thị trường hàng hoá đã xuất hiện từ lâu là các thị trường về vốn, lao 
động phục vụ cho sản xuất kết hợp với hệ thống giá cả linh hoạt vận 
động theo quan hệ cung cầu của hàng hoá, dịch vụ. 
 Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội dã chứng minh rằng cơ chế thị 
trường là cơ chế điều tiết nền kinh tế hàng hoá đạt hiệu quả kinh tế cao. 
Song, cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự hoàn hảo mà chứa 
đựng trong nó nhều trục trặc. 
 Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp lá tối đa hoá lợi nhuận. 
Ngành nào, lĩnh vực nào có khả năng đem lại lợi nhuận cao thì các doanh 
nghiệp sẽ đổ xô vào sản xuất mặt hàng, lĩnh vực đó. Từ đó dẫn đến sự phát 
triển mất cân đối giữa các khu vực,các ngành nghề trong nền kinh tế quốc 
dân. 
 Hơn nữa, vì lợi nhuận, các doanh nghiệp sẵn sàng lạm dụng tài 
nguyên, gây ô nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội phải gánh 
chịu, do đó, hiệu quả kinh tế, xã hội không được đảm bảo. 
 Có những mục tiêu xã hội mà dù cơ chế thị trường hoạt động tốt 
cũng không thể đạt được. Sự tác động của cơ chế thị trường dẫn đến sự 
phân hoá giàu, nghèo, tác động xấu đến đạo đức và tình người. 
 Với một loạt các khuyết tật trên, ngày nay, trên thực tế không tồn tại cơ 
chế thị trường thuần tuý, mà thường có sự can thiệp của Nhà nước, khi đó 
nền kinh tế gọi là Nền kinh tế hỗn hợp. 
2.2. Vai trò của Ngân sách Nhà nước trong cơ chế thị trường. 
 10 
 Tất cả những khiếm khuyết của cơ chế thị trường đòi hỏi có sự can 
thiệp của Nhà nước là tất yếu, là một nhu cầu khách quan nhằm khôi phục 
lai những cân đối và mở đường cho sức sản xuất phát triển. 
 Trong cơ chế điều chỉnh của Nhà nước, bên trong kết cấu của nó, ngoài 
việc tổ chức một cách khoa học, thì những công cụ tài chính, tiền tệ, kế 
hoạch, luật pháp được coi là những công cụ điều chỉnh cơ bản và quan 
trọng. 
 NSNN là một trong những công cụ hữu hiệu để Nhà nước đIều chỉnh vĩ 
mô nền kinh tế, xã hội. Mục tiêu của NSNN không phải để Nhà nước đạt 
được lợi nhuận như các doanh nghiệp và cũng không phải để bảo vệ vị trí 
của mình trước các đối thủ cạ ... nh của cải cách quản lý thuế 
trong giai đoạn này là thúc đẩy sự tuân thủ tự nguyện các quy định về thuế 
của đối tượng nộp thuế, tăng cường hiệu quả công tác quản lý thuế và công 
tác thanh tra, kiểm tra thuế, thực hiện tự động hoá công tác xử lý thông tin 
thuế phát hiên nhanh chóng các trường hợp vi phạm về thuế mhằm hạn chế 
tình trạng trốn thuế, đảm bảo tăng thu cho NSNN. 
 Những đặc điểm của hệ thống quản lý thu thuế trong giai đoạn là: 
 Hệ thống thông tin tuyên truyền về thuế phải đầy đủ và thuận lợi cho đối 
tượng nộp thuế (ĐTNT), hệ thống chính sách, thủ tục và các mẫu biểu quy 
đinh về thuế phải đơn giản, dễ hiểu, đơn nghĩa đẻ ĐTNT có đủ khả năng 
thực hiện việc tự tính thuế, tự khai thuế của mình một cách chính xác, đầy 
đủ. 
 Hệ thống xử lý thông tin thuế trên máy tính là một yếu tố không thể thiếu 
được trong công tác quản lý hiện đại trên cơ sở tự tính thuế. Máy tính sẽ 
thực hiện đúng các chức năng tính toán theo các quy định về thuế, tính nợ, 
tính phạt với tốc độ nhanh chóng và chính xác, loại bỏ yếu tố chủ quan của 
cá nhân và phát hiện nhanh chóng những trường hợp không tuân thủ các 
quy định về thuế. 
 Việc áp dụng các hình thức phạt đối với các hành vi vi phạm sẽ được thực 
hiện nghiêm minh với sự trợ giúp đắc lực của hệ thống máy tính kịp thời 
cung cấp các thông tin về các trường hợp vi phạm về thuế (không kê khai 
thuế, kê khai sai thuế, không nộp đủ tiền thuế). 
 Công tác thanh tra, kiểm tra về thuế phải được tăng cường cùng với việc 
xây dựng hệ thống tự động phân tích thông tin, chọn lựa đối tượng cần 
kiểm tra, thanh tra thuế. Ngành thuế sẽ thực hiện cưỡng chế thuế đối với 
 54 
hành vi vi phạm để tăng cường tính hiệu lực của các quyết định xử phạt 
hành chính về thuế. 
 Cơ cấu tổ chức quản lý thu thuế của ngành thuế được xây dựng theo 
nguyên tắc chức năng, mỗi bộ phận khác nhau sẽ thực hiện các chức năng 
khác nhau trong quy trình quản lý thu thuế, giảm thiểu mối quan hệ trực 
tiếp giữa cá nhân cán bộ thuế với ĐTNT trong trường hợp ĐTNT chấp 
hành đúng các quy định về thuế. Trình độ cán bộ thuế được nâng cao và 
chuyên môn hoá theo từng chức năng. 
 Mô hình của hệ thống quản lý thu thuế trong giai đoạn này như sau: 
 Các doanh nghiệp và hộ kinh doanh lớn sẽ thực hiện tự tính, tự khai thuế. 
Các hộ kinh doanh nhỏ nộp thuế theo mức ấn định thuế của cơ quan 
thuếvới thủ tục nộp đơn giản (mưcs thuế được xác định trên cơ sở điếu tra 
kết quả kinh doanh trung bình năm). Mức thuế ấn định sẽ duy trì trong thời 
gian một năm. 
 Tất cả các đối tượng tự giác nộp thuế tai kho bạc. Cơ quan kho bạc nhận 
tiền thuế, xác nhận ĐTNT đã nộp thuế. Cuối ngày, kho bạc gửi tờ khai thuế 
và xác nhận nộp tỉền thuế và thông tin về số thuế đã nộp của các ĐTNT về 
cơ quan thuế. 
 Bộ phận xử lý tờ khai thuế, chứng từ thanh toán thuế của cơ quan thuế 
nhập tờ khai và chứng từ thanh toán thuế để phát hiện các trường hợp 
không nộp tờ khai thuế hoặc không nộp đủ thuế, phát thông báo nhắc nhở 
và cung cấp thông tin cho bộ phận thanh tra thuế, cưỡng chế thuế. 
 Bộ phận thanh tra thuế lựa chọn các đối tượng có hiện tượng nghi vấn để 
thực hiện kiểm tra, thanh tra về thuế và tiến hành xử lý các hành vi vi 
phạm. 
 Bộ phận cưỡng chế thuế sẽ thực hiện các biện pháp xử lý thu thuế đối với 
các trường hợp chây ỳ, trốn thuế. 
 55 
 Khi phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và xác định tỷ lệ phần trăm 
phân chia các khoản thu giữa ngân sác các cấp chính quyền địa phương 
và số bổ xung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới cần đảm 
bảo: 
* Về phân cấp nguồn thu: 
 - Coi trọng khu vực đáp ứng nhu cầu chi tại chỗ, khuyến khích khai thác 
thu và phải phù hợp với điều kiện, đặc điểm của từng vùng. Nguồn thu gắn 
liền với vai trò quản lý của cấp chính quyền nào thì phân cấp cho ngân 
sách chính quyền đó. Ví dụ: 
 + Các khoản thu từ doanh nghiệp nhà nước do Trung ương và cấp tỉnh 
quản lý, doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài, thuế thu nhập đối với 
người có thu nhập cao thì có thể phân cấp cho ngân sách cấp tỉnh. 
 + Thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp thu từ các hộ sản xuất 
kinh doanh ngoài quốc doanh có thể phân cấp cho ngân sách cấp huyện và 
cấp xã. 
 - Hạn chế phân cấp cho nhiều cấp đối với các nguồn thu có quy mô nhỏ, 
như thuế tiêu thụ đặc biệt háng sản xuất trong nước thu từ các mặt hàng bài 
lá, vàng mã, hàng mã có thể chỉ phân cấp cho ngân sách xã phường thị 
trấn 
 - Phân cấp tối đa các nguồn thu trên địa bàn để đảm bảo nhiệm vụ chi 
được giao, hạn chế bổ sung từ ngân sách cấp trên. 
 - Đảm bảo tăng tỷ lệ phần trăm (%) phân chia cho ngân sách cấp mình 
và ngân sách cấp dưới, không vượt quá tỷ lệ % phân chia quy định của cấp 
trên về từng khoản thu được phân chia. 
 * Về phân cầp nhiệm vụ chi: 
 Phân cấp nhiệm vụ chi đầu tư xây dựng cơ bản: 
 56 
 Việc phân cấp chi đầu tư xây dựng cơ bản các công trình kết cấu hạ 
tầng kinh tế- xã hội cho cấp huyện, xã, thị trấn phải căn cứ trình độ, khả 
năng quản lý và khối lượng vốn đầu tư. Uỷ ban nhân dân tỉnh trình Hội 
đồng nhân dân quyết định phân cấp chi đầu tư xây dung cơ bản cho cấp 
dưới. Trong phân cấp đối với thị xã, thành phố thuộc tỉnh phải có nhiệm vụ 
chi đầu tư xây dung các trường phổ thông quốc lập các cấp và các công 
trình phúc lợi công cộng, điện chiếu sáng, cấp thoát nước, giao thông nội 
thị, an toàn giao thông, vệ sinh đô thị; trên cơ sở phân cấp, xác định nhiệm 
vụ chi xây dung cơ bản cụ thể cho cấp dưới. 
 Do tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu giữa ngân sách các cấp và 
số bổ xung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dướiđược ổn định từ 3 
đến 5 năm nên vốn đầu tư cũng cần xác định và giao ổn định cho cấp dưới, 
phần không ổn định để tập trung ở ngân sách cấp tỉnh để chủ động bố trí 
tuỳ thuộc cân đối ngân sách hàng năm. 
 Việc quản lý vốn đầu tư được thực hiện như sau: 
 Vốn đầu tư của ngân sách cấp tỉnh được quản lý tại Cục đầu tư phát 
triển. 
 Vốn đầu tư thuộc ngân sách cấp huyện và xã được giao cho cơ quan 
tài chính và kho bạc nhà nước quản lý, cấp phát. 
 Nguồn vốn huy động từ sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân để xây 
dung các công trình kết cấu hạ tầng phải được quản lý chặt chẽ. Kết quả 
huy động và việc sử dụng nguồn huy động phải được quản lý công khai, có 
kiểm tra, kiểm soát và bảo đảm sử dụng đúng mục đích, đúng chế độ theo 
quy định của pháp luật. 
 Phân cấp chi thường xuyên về sự nghiệp giáo duc- đào tạo, y tế cho 
cấp huyện. 
 57 
 Việc phân cấp cho cấp huyện cần că cứ vào trình độ, khả năng quản lý 
của cấp huyện và nguồn thu trên địa bàn, đồng thời đảm bảo kế hoạch 
chung của tỉnh về phát triển giao dục- đào tạo và y tế. 
 Hàng năm, Sở giáo dục đào tạo, Sở y tế có trách nhiệm phối hợp với sở 
tài chính- vật giá lập dự tóan ngân sách toàn ngành trình UBND tỉnh dể 
UBND tỉnh trình HĐND quyết định. 
* Về số bổ xung của ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới: 
 Ngoài những quy định trong luạt, trong một số trường hợp cụ thể còn bổ 
xung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để thực hiện một số 
muc tiêu nhất định như: bổ sung để thực hiện các nhiệm vụ, dự án được 
xác định, bổ xung vốn xây dung cơ bản cho một số công trình quan trọng 
để khắc phục hậu quả của thiên tai, lũ lụt 
 Đối với bổ sung theo mục tiêu được giao hàng năm được giao tuỳ theo 
khả năng ngân sách cấp trên và yêu cầu về mục tiêu cụ thể ở từng tỉnh, 
huyện, xã, thị trấn, phường. 
 Chỉnh lý, sửa đổi, bổ xung một số quy định trong luật: 
 Kiến nghị về chỉnh lý, sửa đổi một số quy định trong chế độ phân cấp 
quản lý NSNN: 
 * Về phân định trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan 
 Tại điều 1 của luật NSNN đưa ra khái niệm về NSNN: “là toàn bộ 
khoản thu và chi trong dự toán do cơ quan có thẩm quyền quyết định”, 
cần phải quy định rõ “cơ quan có thẩm quyền” là cơ quan nào, chính phủ, 
bộ trưởng bộ tài chính, chủ tịch UBND cấp tỉnh Hiện nay có một số đề 
xuất nên nêu rõ: “NSNN do Quốc hội quyết định và giao cho chính phủ tổ 
chức chấp hành để đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước”. 
 58 
 Trong điều 21 khoản 3 của luật có quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của 
bộ Tài chính “đề xuất các biện pháp thực hiện chính sách tăng thu, tiết 
kiệm chi NSNN..”. Cần phải mở rộng nhiệm vụ và quyền hạn của bộ Tài 
chính trong đề xuất các biện pháp giảm thu hoặc tăng chi để khuyến khích 
phát triển kinh tế. Đồng thời đề cao vai trò của bộ Tài chính trong việc xác 
định biên chế đối với các bộ, ngành và đây là một trong những căn cứ quan 
trọng để phân bổ ngân sách chi thường xuyên. 
 * Về nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, ngành nên bỏ cơ chế phân bổ hạn 
mức kinh phí qua các bộ mà tập trung thu gọn vào một đầu mối là bộ tài 
chính, phân bổ đến tận đơn vị sử dụng NSNN (đơn vị cơ sở). Vì là các bộ, 
ngành quản lý nhà nước chuyên ngành, lĩnh vực nên sự tham gia của các 
bộ, ngành chủ quản chỉ là hướng dẫn các đơn vị cấp dưới lập dự toán và 
yêu cầu báo cáo, có quyền kiểm tra và phê duyệt quyết toán ngân sách 
ngành, lĩnh vực trước khi gửi bộ Tài chính.Đặc biệt cần nhấn mạnh trách 
nhiệm của các bộ, ngành trong việc xây dựng các tiêu chuẩn, định mức chi 
tiêu thích hợp trong phạm vi của mình- một nhiệm vụ đã và đang là cấp 
thiết trong giai đoạn hoàn thiện luật NSNN hiện nay- đảm bảo sự hợp lý 
giữa các chỉ tiêu giá trị và hiện vật. 
 *Về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND và UBND, việc quyết định dự 
toán, phân bổ và phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương sản xuất là 
một trong những quyền hết sức cơ bản của HĐND các cấp trong lĩnh vực 
ngân sách. để HĐND thực sự phát huy được quyền và nghĩa vụ này cần 
loại bỏ các quy định ràng buộc HĐND vào quá nhiều cơ quan quản lý cấp 
trên. Chẳng hạn như quy định HĐND phải căn cứ vào dự toán ngân sách 
được cấp trên giao mới quyết định dự toán ngân sách của mình, hoặc chủ 
tịch UBND cấp trên có quyền yêu cầu HĐND cấp dưới điều chỉnh lại dự 
toán ngân sách (điều 53 luật NSNN). 
 59 
 Kết luận 
 Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống NSNN và chế độ phân cấp quản 
lý NSNN là vô cùng quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Phân cấp quản lý 
NSNN dù chỉ là phương tiện, không phải là mục đích, là phương pháp giải 
quyết các quan hệ tài chính giữa các cấp chính quyền trong một thời kỳ cụ 
thể nhất định, chỉ khi có được một hệ thống NSNN và chế độ phân cấp 
NSNN hoàn thiện thì mới có thể tập trung đúng chính sách, đầy đủ, kịp 
thời các nguồn thu vào NSNN; phân phối và sử dụng hợp lý các khoản chi 
cho các nhu cầu phát triển kinh tế, văn hoá, quốc phòng và đời sống; thực 
hiện chủ động lập và chấp hành ngân sách, đề cao trách nhiệm của chính 
quyền các cấp. 
 Những phân tích trên về hệ thống và chế độ phân cấp quản lý NSNN dù 
chưa thực sự hoàn thiện nhưng rõ ràng những khiếm khuyết đã được chỉ ra 
cần được quan tâm và theo tác gỉa là hoàn toàn có thể khắc phục được. 
Đồng thời, trong quá trình hoạch định chính sách phân cấp cần đảm bảo 
những mục tiêu trọng yếu, chú ý giảm thiểu những tác động ngoại vi, tiêu 
cực đến những mục tiêu khác. 

File đính kèm:

  • pdfchuyen_de_tot_nghiep_nhung_bat_cap_va_giai_phap_hoan_thien_c.pdf