Bài thu hoạch lớp Đảng viên mới

CÂU 1: Phân tích vì sao Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sự lựa chọn hợp quy luật, hợp lòng dân?

Trả lời:

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là bài học lớn xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam là con đường duy nhất đúng mà Đảng ta và dân tộc Việt Nam đã lựa chọn.

Độc lập dân tộc và CNXH là những vấn đề lý luận có ý nghĩa lịch sử và thời đại sâu sắc. Độc lập Dân tộc thực chất là vấn đề Dân tộc; Chủ nghĩa xã hội thực chất là vấn đề Giai cấp. Đây là hai vấn đề lớn, hai nguồn sức mạnh, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của Cách mạng VN.

Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức IV của Đảng, lần đầu tiên bài học này được nêu lên: "... giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội. Đó là đường lối, là sức mạnh, là nguồn gốc thắng lợi của cách mạng nước ta". Giữ vững mục tiêu Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội là nhân tố bản chất trong đường lối chiến lược cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thực tiễn cách mạng Việt nam gần một thế kỷ qua cho chúng ta nhận thức sâu sắc hơn bài học độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sự gắn kết giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng chính là con đường tất yếu khách quan, hợp với quy luật phát triển của đất nước, hợp lòng người. Đó là sự lựa chọn của Đảng, Bác Hồ và cũng chính là sự lựa chọn của nhân dân, của lịch sử!

Ngược dòng lịch sử đất nước ta:

Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên đấu tranh chống lại kẻ xâm lược. Nhưng đều bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và thất bại. Nguyên nhân chính là do không có đường lối cách mạng đúng đắn dưới sự chỉ đạo của một hệ tư tưởng tiên tiến, khoa học và cách mạng. Đó là sự khủng hoảng đường lối cứu nước.

Tháng 6 năm 1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh, Bác Hồ...) ra đi tìm đường cứu nước. Bôn ba khắp năm châu, bốn biển, vừa lao động, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư sản; tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp, sau đó trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.

doc 17 trang Minh Tâm 29/03/2025 160
Bạn đang xem tài liệu "Bài thu hoạch lớp Đảng viên mới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài thu hoạch lớp Đảng viên mới

Bài thu hoạch lớp Đảng viên mới
 CÂU 1: Phân tích vì sao Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sự lựa chọn hợp 
quy luật, hợp lòng dân?
 Trả lời:
 Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là bài học lớn xuyên suốt quá 
trình cách mạng Việt Nam là con đường duy nhất đúng mà Đảng ta và dân tộc 
Việt Nam đã lựa chọn.
 Độc lập dân tộc và CNXH là những vấn đề lý luận có ý nghĩa lịch sử và thời 
đại sâu sắc. Độc lập Dân tộc thực chất là vấn đề Dân tộc; Chủ nghĩa xã hội thực 
chất là vấn đề Giai cấp. Đây là hai vấn đề lớn, hai nguồn sức mạnh, vừa là mục 
tiêu, vừa là động lực của Cách mạng VN.
 Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức IV của Đảng, lần đầu tiên bài học 
này được nêu lên: "... giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội. 
Đó là đường lối, là sức mạnh, là nguồn gốc thắng lợi của cách mạng nước ta". 
Giữ vững mục tiêu Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội là nhân tố bản chất trong 
đường lối chiến lược cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
 Thực tiễn cách mạng Việt nam gần một thế kỷ qua cho chúng ta nhận thức 
sâu sắc hơn bài học độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sự gắn kết giữa 
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng chính là con đường tất yếu khách quan, 
hợp với quy luật phát triển của đất nước, hợp lòng người. Đó là sự lựa chọn của 
Đảng, Bác Hồ và cũng chính là sự lựa chọn của nhân dân, của lịch sử!
 Ngược dòng lịch sử đất nước ta:
 Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhân dân ta đã liên tiếp 
đứng lên đấu tranh chống lại kẻ xâm lược. Nhưng đều bị thực dân Pháp đàn áp tàn 
bạo và thất bại. Nguyên nhân chính là do không có đường lối cách mạng đúng đắn 
dưới sự chỉ đạo của một hệ tư tưởng tiên tiến, khoa học và cách mạng. Đó là sự 
khủng hoảng đường lối cứu nước.
 Tháng 6 năm 1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc, 
Hồ Chí Minh, Bác Hồ...) ra đi tìm đường cứu nước. Bôn ba khắp năm châu, bốn 
biển, vừa lao động, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách 
mạng tư sản; tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp, sau đó trở thành một 
trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
 Bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc diễn ra khi Người được 
đọc Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I Lênin 
vào tháng 7 năm 1920. Người đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc gắn với 
giải phóng giai cấp; giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, độc 
lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; cách mạng dân tộc từng nước gắn với phong 
trào cách mạng thế giới...Người khẳng định: “ Muốn cứu nước và giải phóng dân 
tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Từ đó, Người 
truyền bá Chủ nghĩa xã hội vào đất nước ta, sáng lập và rèn luyện Đảng ta, lãnh 
đạo Đảng và nhân dân ta giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Vì vậy, có thể 
nói đó là sự lựa chọn của lịch sử Việt Nam, của toàn dân tộc Việt Nam.
 Sự lựa chọn đó dựa trên hai căn cứ chủ yếu: ( ý này giải thích là vì sao?)
 Một là, cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 thành công 
đã mở ra thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội 
trên phạm vi toàn thế giới. Chính tính chất của thời đại mới đã tạo ra khả năng 
hiện thực cho những dân tộc đang còn lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Những khả năng hiện thực này đã đem lại nhận thức mới mẻ và triệt để trong quan 
niệm cũng như giải pháp để giải quyết vấn đề độc lập dân tộc.
 Hai là, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng triệt để giai cấp vô sản và 
nhân dân lao động khỏi bóc lột, áp bức, bất công, mới đem lại cuộc sống ấm no, tự 
do, hạnh phúc cho nhân dân và đưa nhân dân lao động trở thành những người làm 
chủ xã hội. Độc lập dân tộc chỉ có gắn với chủ nghĩa xã hội thì mới vững chắc. 
“Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ 
nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc” như Cương lĩnh 
năm 1991 của Đảng đã chỉ rõ.
 Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng cộng sản lãnh đạo đã 
khẳng định: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy 
nhất đúng đắn.
 Một là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập 
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
 Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, 
bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng 
dân tộc, dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ 
nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa 
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
 Ba là, thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới vì mục 
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, củng cố vững 
chắc hơn độc lập dân tộc, từng bước đưa nước ta lên chủ nghĩa xã hội.
 Trong giai đoạn Cách mạng mới, độc lập dân tộc không chỉ dừng lại là chủ 
quyền quốc gia, lãnh thổ. Độc lập dân tộc phải được xác định cụ thể hơn, rộng lớn 
hơn: Đó là độc lập về con đường phát triển, độc lập về kinh tế- xã hội, văn hóa... 
gắn độc lập dân tộc với những vấn đề toàn cầu, với quá trình đaphương hóa, đa 
dạng hóa các quan hệ quốc tế: "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của 
các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển". 
Bên cạnh đó Chủ nghĩa xã hội cần được nhận thức và điều chỉnh để phù hợp với 
xu thế của thời đại. Chủ nghĩa xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát 
triển. Đó là một quá trình với nhiều giai đoạn, bước đi phù hợp với thời đại. Đồng 
thời phải gắn CNXH với những đặc trưng cụ thể, với bản sắc của dân tộc và xu thế 
thời đại, với những bước đi vững chắc, cách làm phù hợp. Kết hợp độc lập dân tộc 
và CNXH cũng là một quá trình vận động của các nhân tố dân tộc, giai cấp, trong 
nước và quốc tế nhằm tác động đến hành trình của toàn dân tộc trên con đường đi 
tới mục tiêu xây dựng một xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn 
minh.
 Thực tiễn đã và đang chứng minh: Tương lại của nhân loại không phải là 
sự quay trở về với chủ nghĩa Tư bản đế quốc bằng chiến tranh, khủng bố và toàn 
cầu hóa kinh tế theo kiểu "cá lớn nuốt cá bé", hay bom và đại bác đi kèm viện trợ 
nhân đạo. Độc lập dân tộc kết hợp với Chủ nghĩa xã hội chính là tiền đề cho một 
nền hòa bình, độc lập và phát triển bền vững vì những giá trị nhân văn cho con 
người. Đó là quy luật của cách mạng Việt Nam và của nhân loại trên hành trình đi 
tới một xã hội văn minh hơn! Câu 2. Trình bày và phân tích một số nội dung chính của quan điểm: 
Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và nội dung, giải pháp phát huy sức mạnh 
toàn dân trong giai đoạn hiện nay?
 Trả lời:
 Đã là người Việt Nam có lẽ không ai không thuộc những câu thơ dạy về 
đoàn kết của Bác Hồ. Truyền thống lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh điều 
đó. Cho nên có lần Bác dạy: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. 
Trong thế giới không có gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân”.
 Đoàn kết toàn dân tộc là sự bảo vệ, giúp đỡ, tương trợ, tôn trọng lẫn nhau, 
tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển... của mọi giai tầng trong cộng đồng dân 
tộc, trong đó, các giai tầng xã hội hy sinh lợi ích riêng hay chấp nhận lợi ích của 
các giai tầng khác để bảo vệ lợi ích chung, lâu dài. 
 Đại hội XI khẳng định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh, động 
lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của 
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
 Thực tiễn cách mạng Việt Nam gần 1 thế kỷ qua là hiện thực sinh động chứng 
tỏ: phát huy sức mạnh toàn dân tộc là đường lối chiến lược cơ bản, lâu dài của 
cách mạng, là sự tiếp tục phát triển và hoàn thiện đường lối, quan điểm của Đảng 
trong điều kiện lịch sử mới.
 Qua 30 năm tiến hành kháng chiến chống ngoại xâm (1945 - 1975), truyền 
thống quý báu ấy đã được nâng lên tầm cao mới, trở thành động lực và sức mạnh 
chủ yếu của dân tộc ta, là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định đưa đến 
những thắng lợi vĩ đại của cách mạng nước ta từ năm 1930 đến nay.
 Vào những năm 80 của thế kỷ XX, đứng trước tình hình khủng hoảng kinh 
tế - xã hội trầm trọng, đổi mới trở thành yêu cầu có ý nghĩa sống còn đối với vận 
mệnh dân tộc. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đã hoạch định đường lối đổi mới 
đất nước, chỉ rõ bốn bài học kinh nghiệm lớn, trong đó bài học đầu tiên là: “Trong 
toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc’’, xây 
dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Thực hiện Nghị quyết 
Đại hội VI, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ tám đã ra Nghị quyết 8b 
(ngày 27-3-1990) về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan 
hệ giữa Đảng và nhân dân, trong đó nhấn mạnh quan điểm: cách mạng là sự 
nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. 
 Đến Đại hội VII của Đảng (năm 1991), lần đầu tiên trong Cương lĩnh xây 
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta khẳng định lấy 
khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nền tảng cho khối đại đoàn kết 
toàn dân tộc. Điều đó thể hiện: Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn về vị trí, vai 
trò của các giai tầng trong xã hội, nhất là của tầng lớp trí thức đối với sự nghiệp 
cách mạng nước ta trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát 
triển mạnh mẽ và kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát 
triển lực lượng sản xuất. Cương lĩnh (năm 1991) nêu năm bài học lớn được rút ra 
từ thực tiễn cách mạng, trong đó có bài học: “sự nghiệp cách mạng là của nhân 
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch 
sử" và “không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết 
toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế". Đại hội VII của Đảng chỉ rõ: “Cách 
mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Quan hệ giữa Đảng 
với nhân dân bao giờ cũng là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng. Nguồn sức mạnh làm nên thắng lợi của chúng ta chính là ở chỗ Đảng gắn 
bó mật thiết với nhân dân”; dân chủ “vừa là một mục tiêu vừa là một động lực của 
công cuộc đổi mới xã hội ta”.
 Tổng kết 10 năm đổi mới, Đại hội VIII của Đảng đã rút ra một trong những 
nguyên nhân trọng yếu dẫn đến thành công của Đảng trong hoạch định đường lối 
và thực hiện đường lối đổi mới: “Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến 
của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân 
dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó 
khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay”.
 Đại hội VIII tiếp tục khẳng định tinh thần của Đại hội VII và nêu cao 
phương châm: Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở lấy liên minh 
công nhân - nông dân - trí thức làm nền tảng, đoàn kết mọi người trong đại gia 
đình dân tộc Việt Nam dù sống ở trong nước hay đang định cư ở nước ngoài; có 
cơ chế và cách làm cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, 
dân kiểm tra”. 
 Đại hội IX có bước phát triển cụ thể hơn nữa về phát huy sức mạnh đại 
đoàn kết toàn dân: “Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng 
lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người 
trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi 
thành viên trong đại gia đình Việt Nam dù sống trong nước hay ở nước ngoài”; 
“lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công 
bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng”; “trên cơ sở liên minh vững chắc 
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Đại hội IX của 
Đảng nhấn mạnh: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn 
dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh 
đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng 
và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội” (15). Như vậy, trong thời 
kỳ mới, quan điểm nhất quán của Đảng ta là: đại đoàn kết toàn dân, đồng thuận 
mọi giai tầng, trên cơ sở giải quyết hài hòa các lợi ích, phát huy mọi tiềm năng và 
nguồn lực của toàn xã hội, là động lực chủ yếu để phát triển đất nước trong giai 
đoạn cách mạng mới.
 Nhằm cụ thể hóa tinh thần Nghị quyết Đại hội IX, Nghị quyết Hội nghị 
Trung ương 7 khóa IX về Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân 
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, coi đại đoàn kết toàn dân 
tộc là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp 
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ thực tiễn của công cuộc đổi mới, tư duy về đại 
đoàn kết toàn dân tộc của Đảng ta được phát triển lên một bước mới. Cụm từ “Đại 
đoàn kết toàn dân” được bổ sung, hoàn chỉnh thành “Đại đoàn kết toàn dân tộc” 
với ý nghĩa mở rộng đại đoàn kết, đoàn kết không chỉ đối với nhân dân ta ở trong 
nước mà còn với cả cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Từ tư duy 
đổi mới về vai trò của nhân dân, về vấn đề dân tộc trong thời kỳ mới, Đại hội X 
của Đảng khẳng định: “đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp 
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là 
đường lối chiến lược nhất quán của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, 
động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững 
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(16). Sau 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây 
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Đại hội XI 
của Đảng tiếp tục khẳng định: phát huy sức mạnh toàn dân tộc là thành tố thứ hai, 
sau thành tố về tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. 
Đây chính là hai thành tố quan trọng, quyết định thực hiện thành công những 
nhiệm vụ căn cốt nhất của toàn Đảng và toàn dân ta trong nhiệm kỳ 2011 - 2015, 
đó là: đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước 
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Phát huy sức mạnh 
toàn dân tộc là một thành tố được nêu trong chủ đề của Đại hội IX và Đại hội X, 
nay khẳng định lại không chỉ để nhấn mạnh mà còn nhằm làm sáng tỏ hơn bản 
chất và nội dung của vấn đề thông qua thực tiễn đổi mới. Sức mạnh toàn dân tộc là 
sức mạnh của cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối 
ngoại; sức mạnh của các thành phần kinh tế, các lực lượng chính trị, xã hội, các 
dân tộc, tôn giáo, các tầng lớp nhân dân trong nước và cộng đồng người Việt Nam 
định cư ở nước ngoài có cùng “mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, 
độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, 
văn minh làm điểm tương đồng; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành 
phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của 
dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung để tập 
hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội”.
 Nghị quyết Đại hội XI của Đảng là sự kết tinh trí tuệ và ý chí của toàn 
Đảng, toàn dân và toàn quân ta, thể hiện sự nhất quán kiên định tư tưởng chính trị 
và phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh - tư tưởng chính trị và phương pháp 
cách mạng dựa trên sự bố trí các lực lượng xã hội, trên cơ sở vận dụng nhuần 
nhuyễn quan điểm giai cấp, quan điểm dân tộc vào thực tiễn Việt Nam. Chủ tịch 
Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân, 
không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân”. 
 Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc trong Cách mạng Tháng 
Tám, với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, 
trước những vận hội mới, nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức đặt ra trước 
yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước, hơn bao giờ hết, Đảng cần tiếp 
tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững và củng cố khối đại 
đoàn kết toàn dân và sự đồng thuận của toàn xã hội trong tiến trình xây đựng đất 
nước hiện nay. Để đạt được mục tiêu đó, Đảng cần có những quyết sách nhằm 
động viên và tổ chức mọi tầng lớp nhân dân phát huy truyền thống yêu nước và 
lòng tự hào dân tộc, đưa đất nước vượt qua thách thức. 
 Với những thành quả cách mạng Việt Nam đã đạt được, dưới sự lãnh đạo 
đầy bản lĩnh, trí tuệ của một chính Đảng Cộng sản được lý luận Mác - Lê-nin và tư 
tưởng Hồ Chí Minh soi rọi, với sự quản lý điều hành năng động, sáng tạo của Nhà 
nước cách mạng Việt Nam, với tài năng, trí thông minh, đức tính cần cù, ý chí và 
khát vọng vươn lên mãnh liệt của nhân dân ta, tiếp tục vận dụng bài học phát huy 
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh lịch sử mới, chúng ta có đầy đủ 
cơ sở để vững tin vào sự hiện thực hóa mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam xã 
hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
 Thực tiễn của công cuộc đổi mới hiện nay đang đặt ra những vấn đề bức 
thiết mà Cương lĩnh trình Đại hội XI của Đảng phải tập trung làm rõ hơn cả về lý 
luận và thực tiễn nhằm thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc tạo nên sức mạnh to lớn hơn. Theo ý kiến của tôi, cần tổng kết thực tiễn sâu sắc hơn nữa về chiến lược 
đại đoàn kết để củng cố, tăng cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn 
dân thực hiện có hiệu quả Cương lĩnh 2011 (bổ sung, phát triển) và các văn kiện 
trình Đại hội XI của Đảng. Tôi xin đề xuất một số vấn đề, nội dung dưới đây.
 Một là, hoàn thiện nội dung nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và thực hiện đồng 
bộ, triệt để. Dân chủ càng mở rộng và thiết thực càng tạo sự đồng thuận xã hội và 
do đó sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường. Trong sự nghiệp xây 
dựng chủ nghĩa xã hội theo đường lối đổi mới, nội dung dân chủ xã hội chủ nghĩa 
phát triển và đòi hỏi phải nhận thức và thực hiện đúng đắn cả từ phía Nhà nước và 
cả từ phía người dân, để khắc phục những biểu hiện lệch lạc trong thực hiện dân 
chủ, hoặc dân chủ hình thức, hoặc dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây mất 
ổn định chính trị, xã hội. Thực hiện dân chủ không chỉ là kêu gọi, động viên mà 
nội dung dân chủ, quyền làm chủ của dân, phải được thể hiện trong chính sách, 
pháp luật và được bảo đảm bằng chính sách, pháp luật, quy chế. Nội dung dân chủ 
trong chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cần được cụ thể hóa, lượng hóa để người 
dân hiểu và thực hiện. Cần nhận thức và xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa dân chủ 
và tập trung dân chủ với kỷ luật, kỷ cương, pháp luật, dân chủ với trách nhiệm, 
nghĩa vụ công dân, dân chủ phải có lãnh đạo và lãnh đạo bằng phương pháp dân 
chủ, trên cơ sở phát huy dân chủ. Thực tế đã cho thấy, ở địa phương nào, lĩnh vực 
hoạt động nào, đơn vị nào thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa thì tạo được sự 
đồng thuận, ổn định và phát triển, củng cố được sự đoàn kết, thống nhất.
 Hai là, đại đoàn kết toàn dân tộc gắn liền với xây dựng và không ngừng 
hoàn thiện hệ thống chính trị của đất nước. Năng lực lãnh đạo, năng lực cầm 
quyền của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước được nâng cao chẳng 
những quyết định sự ổn định, phát triển của xã hội, đất nước mà còn củng cố vững 
chắc niềm tin của các giai cấp, dân tộc, các tầng lớp nhân dân làm cho sức mạnh 
đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng phát triển. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ 
nghĩa Việt Nam không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để mang 
lại lợi ích cho nhân dân, bảo đảm quyền lợi chính đáng, hợp pháp của mọi giai 
cấp, dân tộc, lực lượng xã hội, của các thành phần kinh tế, của mọi người dân, 
đồng thời bảo đảm, bảo vệ, phát triển lợi ích chung của dân tộc, đất nước. Đó là 
cái gốc của sự đoàn kết cộng đồng dân tộc và đồng thuận xã hội. Chính phủ đã 
quan tâm đặc biệt đến người nghèo, nông dân nghèo, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, 
vùng đặc biệt khó khăn nhằm giúp họ xóa đói, giảm nghèo. Theo đó, Chương trình 
135 (1998), Chương trình 134 (2004) đã thực hiện. Vì vậy, qua 10 năm thực hiện 
8 mục tiêu thiên niên kỷ do Liên hợp quốc đề ra, Việt Nam đã thực hiện có hiệu 
quả việc xóa bỏ tình trạng đói nghèo cùng cực, phổ cập tiểu học, thực hiện tốt bình 
đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ. Nhưng hiện nay, Nhà nước cũng cần 
quan tâm nhiều hơn đến công nhân, khi đời sống, thu nhập của một bộ phận công 
nhân còn thấp, làm sao để trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nước 
ngoài, công nhân không bị giới chủ bóc lột quá đáng. Đối với nông dân, cần thực 
hiện đồng bộ chính sách tam nông của Đảng gắn liền với công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Đối với trí thức, sự quan tâm đến 
điều kiện và đời sống vật chất là cần thiết, nhưng nhiều khi, sự động viên kịp thời, 
đánh giá và phát huy được năng lực thật sự của họ lại có tác dụng gấp nhiều lần. 
Các tổ chức Mặt trận, đoàn thể nhân dân cần đổi mới nhiều về nội dung, phương thức hoạt động. Sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị có 
ảnh hưởng to lớn đến củng cố đại đoàn kết toàn dân tộc.
 Ba là, chú trọng giáo dục, đào tạo, hoàn thiện con người Việt Nam trong 
thời đại mới, bởi con người là thành tố, là cái gốc vững bền của dân tộc và đất 
nước. Mỗi người, mỗi công dân cần phải nêu cao niềm tự hào, tự tôn dân tộc, bồi 
đắp tinh thần yêu nước, sống và làm việc có trách nhiệm đối với đất nước, vì sự 
hùng cường, vững bền của Tổ quốc. Không ngừng nâng cao học vấn, kiến thức, kỹ 
năng nghề nghiệp, thể chất và đạo đức. Thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động học 
tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ, hiện thân của khối đoàn kết toàn 
dân, Người luôn chăm lo chiến lược con người, nâng cao đạo đức, con người sống 
với nhau phải có tình nghĩa, mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người, 
không tham lam, lười biếng, ỷ lại.
Câu 3: Phân tích quan điểm phát triển nhanh và bền vững nêu trong chiến 
lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020?
Trả lời:
 Quan niệm phát triển bền vững xuất hiện từ những năm đầu thập kỷ 80 thế 
kỷ 20, được phổ biến rộng rãi vào năm 1987, với hàm ý tổng quát là sự phát 
triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại nhưng không gây trở ngại cho 
việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau. Đây là quá trình phải bảo đảm có sự 
kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển: phát triển kinh tế, 
phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
 Trong hai thập kỷ qua, trên bình diện quốc tế, vấn đề phát triển bền vững 
ngày càng được đặc biệt quan tâm, trở thành yêu cầu phát triển của toàn cầu. Đã 
có không ít hội nghị thượng đỉnh thảo luận về chủ đề này và đưa ra nhiều văn 
kiện, quyết sách quan trọng. 
 Ở nước ta, quan điểm phát triển nhanh và bền vững đã được nhận thức rất 
sớm và thể hiện trong nhiều chủ trương, nghị quyết của Đảng. Ngay từ Đại hội III 
năm 1960 và Đại hội IV năm 1976, Đảng ta đã đặt mục tiêu “tiến nhanh, tiến 
mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Đại hội VII thông qua Chiến lược 
Phát triển kinh tế - xã hội 1991 – 2000, nhấn mạnh “Tăng trưởng kinh tế phải gắn 
liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường”. Đại 
hội VIII nêu bài học “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã 
hội, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”. Chiến lược 
Phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 thông qua tại Đại hội IX khẳng định “Phát 
triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến 
bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Đại hội X nêu bài học về phát triển 
nhanh và bền vững, trong đó ngoài các nội dung phát triển kinh tế, xã hội, môi 
trường còn bổ sung yêu cầu phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ và 
xác định mục tiêu tổng quát của Kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 là “Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền vững hơn, gắn với phát 
triển con người”.
 Như vậy, quan điểm phát triển nhanh và bền vững đã sớm được Đảng và 
Nhà nước ta đặt ra với nội dung ngày càng hoàn thiện và đã trở thành một chủ 
trương nhất quán trong lãnh đạo, quản lý, điều hành tiến trình phát triển của đất 
nước trong nhiều thập kỷ qua. Nhà nước ta cũng đã có những cam kết mạnh mẽ về 
phát triển bền vững.
 Từ thực tiễn nêu trên, Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 nêu 
bài học “Đặc biệt coi trọng chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát 
triển giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng” và 
xác định “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững 
là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược”, với các nội dung chủ yếu là “Phải phát 
triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh 
kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng 
trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng 
đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng 
trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; 
nâng cao không ngừng chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế - 
xã hội phải luôn đi cùng với bảo vệ và cải thiện môi trường. Nước ta có điều 
kiện phát triển nhanh và yêu cầu phát triển nhanh cũng đang đặt ra hết sức cấp 
thiết; phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo 
nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn 
gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - 
xã hội. Phải đặc biệt quan tâm giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường 
quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn 
vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.”
 Để hiện thực hoá quan điểm phát triển nhanh và bền vững, phải thực hiện 
đồng bộ các định hướng phát triển đã nêu trong dự thảo Chiến lược, trong đó cần 
tập trung thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp sau:
 Một là, bằng các giải pháp và sức mạnh tổng hợp, kiên quyết giữ vững độc 
lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự 
an toàn xã hội, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, tạo môi trường hoà bình và 
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đất nước. Đây là điều kiện tiên quyết nhất 
cho sự phát triển nhanh và bền vững và cũng là một lợi thế của đất nước ta. 
 Hai là, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh 
tế; giữ vững an ninh lương thực, an ninh năng lượng và sự hoạt động an toàn, 
hiệu quả của các định chế tài chính.
 Thế hệ chúng ta đã từng chứng kiến những cuộc khủng hoảng lương thực, 
khủng hoảng năng lượng, mới đây là cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh 
tế toàn cầu xẩy ra trong các năm 2007 - 2009 và cuộc khủng hoảng nợ công ở một 
số nước hiện nay. Những cuộc khủng hoảng này là hậu quả của sự phát triển không bền vững, gây mất ổn định toàn cầu và tác động đến tăng trưởng của hầu 
hết các quốc gia, kinh tế thế giới suy giảm, thất nghiệp gia tăng, xung đột xã hội 
lan rộng...
 Ở nước ta, cùng với những bất cập, yếu kém trong quản lý vĩ mô, cuộc 
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động tiêu cực đến sự 
phát triển của đất nước, lạm phát tăng cao, tốc độ tăng trưởng suy giảm, đời sống 
nhân dân gặp khó khăn. Kinh nghiệm quốc tế cũng như của nước ta những năm 
qua cho thấy giữ vững an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh tài chính, 
kiểm soát được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn vừa là 
tiền đề để tăng trưởng nhanh vừa là nội dung của tăng trưởng bền vững, trở thành 
nhiệm vụ quan trọng nhất trong quản lý kinh tế của bất cứ quốc gia nào.
 Ba là, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để bảo đảm đạt tốc 
độ tăng trưởng cao đồng thời nâng cao chất lượng tăng trưởng.
 Bảo đảm tốc độ tăng trưởng cao, ổn định và không ngừng nâng cao chất 
lượng tăng trưởng là yếu tố quyết định nhất để phát triển nhanh và bền vững. Có 
đạt được tốc độ tăng trưởng cao, đất nước mới phát triển nhanh, rút ngắn khoảng 
cách với các nước, mới tạo được nguồn lực để phát triển các lĩnh vực xã hội, phát 
triển con người, đầu tư phát triển những khu vực khó khăn, thu hẹp khoảng cách 
phát triển giữa các vùng trong nước, mở rộng hệ thống phúc lợi và an sinh xã hội, 
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Với ưu thế về nguồn lực con người, chính 
trị xã hội ổn định, vị trí địa - kinh tế thuận lợi, lại là nước đi sau, chúng ta có điều 
kiện để phát triển nhanh. Mặt khác, có nâng cao chất lượng tăng trưởng mới tăng 
được hiệu suất sử dụng vốn và sức cạnh tranh của nền kinh tế, mới mở rộng được 
thị trường tiêu thụ trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt. Trên cơ sở đó, 
tạo ra giá trị gia tăng lớn cho đất nước, tăng khả năng tích luỹ từ nội bộ nền kinh 
tế, bảo đảm nguồn lực cho tăng trưởng cao và ổn định trong dài hạn.
 Yêu cầu cấp bách trong thời kỳ chiến lược tới là thực hiện tái cấu trúc nền 
kinh tế trên cả ba nội dung chính: tái cấu trúc các ngành sản xuất, dịch vụ gắn với 
các vùng kinh tế, phát triển công nghiệp hỗ trợ. Phải chuyển đổi mô hình tăng 
trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào sự gia tăng vốn đầu tư và nguồn nhân 
lực chất lượng thấp hiện nay sang kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng theo chiều rộng 
với tăng trưởng theo chiều sâu trên cơ sở áp dụng các tiến bộ về khoa học, công 
nghệ, chất lượng nguồn nhân lực và kỹ năng quản lý hiện đại. Trong mười năm 
tới, nhất là trong những năm đầu của thời kỳ chiến lược, chúng ta chưa thể từ bỏ 
hoàn toàn mô hình tăng trưởng theo chiều rộng. Vì, để tăng trưởng theo chiều sâu 
phải sử dụng công nghệ hiện đại và phải có nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là 
quá trình tích luỹ vốn và phát triển nguồn nhân lực trong từng doanh nghiệp và cả 
nền kinh tế. Hơn nữa, phát triển bền vững phải gắn với yêu cầu giải quyết việc làm 
và toàn dụng lao động trong khi nguồn lao động thiếu việc làm còn nhiều, nhất là 
ở khu vực nông thôn. Tuy nhiên, phải hành động khẩn trương, kiên quyết tạo lập 
đồng bộ các tiền đề để chuyển mạnh sang tăng trưởng theo chiều sâu ngay trong 
những năm đầu của thời kỳ chiến lược, trước hết là ở những lĩnh vực khoa học, 
công nghệ phát triển nhanh và nước ta có điều kiện. Đây là con đường cơ bản nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng; tái cấu trúc các doanh nghiệp, xây dựng 
lực lượng doanh nghiệp trong nước với nhiều thương hiệu mạnh, hiệu quả và có 
sức cạnh tranh cao; điều chỉnh chiến lược thị trường, coi trọng hơn thị trường 
trong nước đi đôi với việc tiếp tục đa dạng hoá, mở rộng thị trường nước 
ngoài. Thực hiện tốt các nội dung trên đây, chẳng những nâng cao được chất 
lượng tăng trưởng, khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế, hạn chế được các tác 
động tiêu cực trước những biến động từ bên ngoài, bảo đảm cho đất nước phát 
triển bền vững mà còn tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị 
toàn cầu, một xu thế phát triển trong nền kinh tế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.
 Cùng với việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, cải cách hành chính, 
cần phát huy có hiệu quả chức năng kiến tạo phát triển của nhà nước, nhất là trong 
thời kỳ đầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, thể hiện trong việc đề ra chính sách cơ cấu 
và định hướng phát triển vùng đúng đắn.
 Bốn là, phát triển các lĩnh vực văn hoá, xã hội hài hoà với phát triển kinh 
tế, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện 
tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển.
 Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, yếu tố làm nên giá trị ổn định, lâu 
bền của một quốc gia, hình thành bản sắc riêng có của một dân tộc. Văn hoá làm 
nên nguồn lực xã hội to lớn, thấm sâu vào quá trình phát triển. Sự phát triển của 
một thời đại ở bất kỳ quốc gia nào đều có dấu ấn khai sáng của văn hoá. Trên nền 
tảng văn hoá, con người không chỉ giải quyết mối quan hệ với đồng loại, ứng xử 
với môi trường thiên nhiên trong đời sống hiện tại mà còn giải quyết mối quan hệ 
với các thế hệ tương lai trong quá trình phát triển. Với ý nghĩa này, văn hoá không 
chỉ là kết quả của phát triển nhanh, bền vững mà còn là yếu tố tạo nên sự phát 
triển nhanh, bền vững. Phải đặt yêu cầu phát triển văn hóa ngang tầm và hài hòa 
với phát triển kinh tế. Tập trung xây dựng đời sống, lối sống và môi trường văn 
hóa lành mạnh. Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, vừa phát huy 
những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại để 
văn hoá thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát triển.
 Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là nội dung rất quan trọng của phát 
triển bền vững. Đây còn là tiêu chí thể hiện bản chất của chế độ ta. Sự bất bình 
đẳng và phân hoá giàu nghèo ở mức cao tạo nên xung đột xã hội ở không ít các 
quốc gia trên thế giới, làm suy giảm tăng trưởng. Vì vậy, Đảng ta chủ trương phải 
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách 
phát triển. Chúng ta sẽ tập trung hơn cho công cuộc xóa đói giảm nghèo, đa dạng 
hóa các nguồn lực và phương thức để thực hiện giảm nghèo bền vững. Khuyến 
khích làm giàu theo pháp luật, đồng thời hạn chế phân hoá giàu nghèo, chủ yếu 
thông qua chính sách điều tiết thu nhập, phát triển hệ thống phúc lợi xã hội và an 
sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế 
phân phối trong các doanh nghiệp, chính sách tiền lương, bảo đảm công bằng lợi 
ích, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

File đính kèm:

  • docbai_thu_hoach_lop_dang_vien_moi.doc