Tiểu luận Thực trạng công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện Than Uyên – Lai Châu

Hiến pháp năm 1992 của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

CHXHCNVN) đã khẳng định: Khiếu nại, tố cáo (KNTC) là một trong các

quyền cơ bản của công dân, quyền này được sử dụng không hạn chế ở bất cứ

lĩnh vực nào. Luật KNTC đã cụ thể hóa các quyền KNTC của công dân thành

những chế độ được thực thi trên thực tế (Luật KNTC đã được Quốc hội nước

CHXHCNVN thông qua ngày 2/2/1998, sửa đổi bổ sung năm 2004). Đây là

cơ sở pháp lý quan trọng để công dân thực hiện quyền KNTC của mình cũng

như các cơ quan nhà nước, trong đó các thanh tra các cấp, thanh tra cấp

huyện đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức tiếp dân, giải quyết KNTC

theo thẩm quyền quy định của pháp luật, góp phần phát huy dân chủ, tăng

cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích

hợp pháp của công dân, cơ quan tổ chức.

Giải quyết KNTC đúng quy định của pháp luật thể hiện bản chất tốt

đẹp của nhà nước ta. Những quyết định hành vi trái pháp luật của cơ quan,

cán bộ, công chức nhà nước hoặc công dân bị xử lý nghiêm minh thì quan hệ

giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước được củng cố ngày một vững chắc, dân

chủ được phát huy, tính tích cực sáng tạo của nhân dân được nâng cao. Trong

những năm qua thông qua công tác tiếp dân, nỗ lực giải quyết KNTC của các

cấp, các ngành nói chung, huyện Than Uyên nói riêng đã phát huy được tính

dân chủ trong đời sống xã hội, phát hiện ra nhiều tiêu cực, những bất cập, kẽ

hở trong cơ chế, chính sách của Nhà nước, các hoạt động. Các hoạt động này

đã góp phần khôi phục lại quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thu hồi

tiền, tài sản bị thất thoát về cho Nhà nước, tập thể và công dân bị chiếm đoạt

trái phép, xử lý kỷ luật cán bộ sai phạm, nghiêm khắc với những kẻ lợi dụng

dân chủ trong KNTC để trục lợi, kiến nghị các giải pháp, bổ sung sửa đổi cơ

chế chính sách cho Nhà nước, địa phương, củng cố lòng tin của quần chúng

nhân dân với Đảng và Nhà nước

pdf 22 trang chauphong 19/08/2022 3980
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận Thực trạng công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện Than Uyên – Lai Châu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Thực trạng công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện Than Uyên – Lai Châu

Tiểu luận Thực trạng công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện Than Uyên – Lai Châu
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG  
TIỂU LUẬN 
Thực trạng công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện 
Than Uyên – Lai Châu 
Lời nói đầu 
Hiến pháp năm 1992 của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 
CHXHCNVN) đã khẳng định: Khiếu nại, tố cáo (KNTC) là một trong các 
quyền cơ bản của công dân, quyền này được sử dụng không hạn chế ở bất cứ 
lĩnh vực nào. Luật KNTC đã cụ thể hóa các quyền KNTC của công dân thành 
những chế độ được thực thi trên thực tế (Luật KNTC đã được Quốc hội nước 
CHXHCNVN thông qua ngày 2/2/1998, sửa đổi bổ sung năm 2004). Đây là 
cơ sở pháp lý quan trọng để công dân thực hiện quyền KNTC của mình cũng 
như các cơ quan nhà nước, trong đó các thanh tra các cấp, thanh tra cấp 
huyện đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức tiếp dân, giải quyết KNTC 
theo thẩm quyền quy định của pháp luật, góp phần phát huy dân chủ, tăng 
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích 
hợp pháp của công dân, cơ quan tổ chức. 
Giải quyết KNTC đúng quy định của pháp luật thể hiện bản chất tốt 
đẹp của nhà nước ta. Những quyết định hành vi trái pháp luật của cơ quan, 
cán bộ, công chức nhà nước hoặc công dân bị xử lý nghiêm minh thì quan hệ 
giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước được củng cố ngày một vững chắc, dân 
chủ được phát huy, tính tích cực sáng tạo của nhân dân được nâng cao. Trong 
những năm qua thông qua công tác tiếp dân, nỗ lực giải quyết KNTC của các 
cấp, các ngành nói chung, huyện Than Uyên nói riêng đã phát huy được tính 
dân chủ trong đời sống xã hội, phát hiện ra nhiều tiêu cực, những bất cập, kẽ 
hở trong cơ chế, chính sách của Nhà nước, các hoạt động. Các hoạt động này 
đã góp phần khôi phục lại quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thu hồi 
tiền, tài sản bị thất thoát về cho Nhà nước, tập thể và công dân bị chiếm đoạt 
trái phép, xử lý kỷ luật cán bộ sai phạm, nghiêm khắc với những kẻ lợi dụng 
dân chủ trong KNTC để trục lợi, kiến nghị các giải pháp, bổ sung sửa đổi cơ 
chế chính sách cho Nhà nước, địa phương, củng cố lòng tin của quần chúng 
nhân dân với Đảng và Nhà nước. 
Bên cạnh những việc đã làm được trong công tác tiếp dân, giải quyết 
KNTC thì trong công tác này ở địa bàn huyện Than Uyên vẫn còn bộc lộ 
những bất cập, hạn chế đó là: Việc tổ chức tiếp dân ở một số phòng ban 
chuyên môn, cơ sở xã thị trấn còn chạy theo hình thức chưa tuân thủ các quy 
trình tiếp công dân, giải quyết KNTC một số nơi chưa đúng pháp luật hoặc 
giải quyết qua loa đại khái, kéo dài thời hạn giải quyết và né tránh, đùn đẩy 
giải quyết đơn thư gây ra những điểm “nóng” trong giải quyết KNTC, xử lý 
tình trạng những kẻ lợi dụng KNTC để vu cáo bôi nhọ chính quyền, những kẻ 
kích động lôi kéo quần chúng nhân dân nên cá biệt ở một số xã bất ổn do 
khiếu kiện gây ra. Xuất phát từ tình hình đó, cùng với sự giúp đỡ của các thầy 
cô trường Cán bộ thanh tra, và những kiến thức tiếp thu được, em đã chọn đề 
tài: “ Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư 
KNTC trên địa bàn huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu ” 
Do thời gian nghiên cứu đề tài cũng như hiểu biết và kinh nghiệm thực 
tế chưa nhiều, nên đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em 
rất mong nhận được sự chỉ bảo tận tình của các thầy cô trường cán bộ thanh 
tra và sự góp ý chân thành của đồng nghiệp để em hoàn thành bản tiểu luận 
này! 
Em xin chân thành cảm ơn! 
Hà nội, ngày 15 tháng 08 năm 2006 
 Học viên 
 Nguyễn Xuân Trường 
I. Đặc điểm chung 
Than uyên mang nét đặc thù của huyện miền núi vùng cao Tây Bắc, 
nằm men theo chân dãy núi Hoàng Liên Sơn, địa hình chia cắt bởi nhiều suối 
nhỏ và có một con sông chính là sông Nậm Mu. Là nơi sinh sống của 7 dân 
tộc: Thái, Kinh, H’mông, Dáy, Lào, Khơ mú, Dao. Kinh tế huyện thuần nông 
với tập quán canh tác lâu đời trên đất dốc của đồng bào dân tộc, hệ thống giao 
thông quốc lộ 32 chạy dọc theo huyện và quốc lộ 279 cắt ngang nối liền với 
các tỉnh bạn Lào Cai, Yên Bái, Sơn La. Ngoài ra, còn có hệ thống đường liên 
xã với 100% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã. nhờ có điều kiện địa lý, 
đặc biệt nhờ hệ thống suối, sông có lưu vực cao nên trên con sông Nậm Mu 
đang diễn ra công tác xây dựng 2 đập thủy điện lớn: Bản Chát, Huội Quảng 
trong hệ thống thuỷ điện quốc gia Tà Pú – Sơn La, những lợi ích tích cực của 
việc xây dựng hệ thống thủy điện cùng với thế mạnh các sản phẩm từ cây 
trồng nông nghiệp, công nghiệp hứa hẹn kinh tế huyện có sự chuyển biến 
mạnh mẽ, các nguồn thu được đa dạng từ kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp và 
dịch vụ. 
Cùng với sự phát triển kinh tế và sự quan tâm đầu tư đồng đều của Nhà 
nước từ các chương trình theo QĐ 186/CP, 135/CP, đầu tư tái định cư thủy 
điện làm cho diện mạo nông thôn Than Uyên ngày càng được đổi mới, có cơ 
sợ hạ tầng thủy điện, đường giao thông nông thôn, trường học, trạm xá và các 
công trình phúc lợi được đầu tư xây dựng góp phần nâng cao cuộc sống cho 
nhân dân. Tuy nhiên mặt trái của quá trình phát triển, ảnh hưởng không tốt 
như việc xây dựng thủy điện đã thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, các vấn đề 
nảy sinh từ việc mở rộng các tuyến quốc lộ, hệ thống đường nội thị đã làm 
phát sinh những tiêu cực, bất cập của cơ chế, chính sách trong giải phóng mặt 
bằng, tái định cư cho các hộ dân, cấp đất, mua bán đất đai trái phép, không 
đúng thẩm quyền, thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản,Từ các vấn đề 
này phát sinh khiếu nại, tố cáo. Nếu giải quyết không tốt dễ trở thành điểm 
nóng, ảnh hưởng đến các chương trình, công trình quốc gia, huyện, tỉnh. 
Từ đặc điểm trên Huyện ủy, HĐND, UBND huyện thường xuyên quan 
tâm chỉ đạo các cấp, các ngành, đặc biệt là cơ quan Thanh tra huyện trong 
công tác tổ chức tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền, triệt 
để trên địa bàn không để phát sinh điểm “nóng” về KNTC làm ảnh hưởng đến 
tình hình chung của huyện, góp phần ổn định an ninh, chính trị, trật tự an toàn 
xã hội, tạo tiền đề cho việc phát triển kinh tế – xã hội không ngừng nâng cao 
mọi mặt đời sống cho nhân dân. 
II. Thực trạng công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn 
huyện. 
1. Nhận định chung 
Những năm gần đây, các ngành, các cấp chính quyền địa phương huyện 
Than Uyên đã quan tâm chú trọng đến công tác tiếp dân, giải quyết KNTC 
đồng thời với việc đa dạng hóa hình thức và tuyên truyền vận động nhân dân 
chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà 
nước, nên tình hình khiếu nại tố cáo trên địa bàn huyện Than Uyên đã được 
giải quyết tương đối triệt để, kịp thời ngăn chặn tình trạng điểm nóng đơn thư. 
Các nội dung đơn thư tập trung trên địa bàn 2 thị trấn: Thị trấn Nông Trường, 
thị trấn Huyện, xã Mường Kim, Mường Khoa, Tà Hừa,. Trong đó, 60% 
chính sách đền bù và đất đai, còn lại là các nội dung khác. Các cơ quan chức 
năng đã xem xét giải quyết kịp thời đạt được kết quả cao trong. Tuy nhiên vẫn 
còn một số đơn thư có quá trình giải quyết kéo dài, điển hình như : Vụ việc 
các hộ dân khu chợ thị trấn Nông Trường mượn đất chợ kinh doanh khi Nhà 
nước thu hồi đất do mở rộng quốc lộ 32, khi giải phóng mặt bằng đòi yêu cầu 
bồi thường đất thổ cư ; các hộ dân khiếu kiện về cấp nhà thuộc dự án đường 
nội thị thị trấn Than Uyên; các cán bộ hưu trí khiếu kiện về thông báo dừng 
cấp lương hưu của BHXH tỉnh Lai Châu. Việc giải quyết kéo dài xuất phát từ 
một số nguyên nhân như: Nội dung khiếu kiện phức tạp liên quan đến nhiều 
cấp, nhiều ngành, cơ chế chính sách trong đền bù còn có nhiều bất cập trong 
việc xác định nguồn gốc đất, cấp nhà xây dựng, bên cạnh đó người đi khiếu 
kiện chưa thông hiểu chính sách pháp luật, cố chấp, bị kẻ xấu lôi kéo, xúi 
giục, dẫn đến đơn thư khiếu kiện vượt cấp, ảnh hưởng đến tình hình chung 
của địa phương. 
2. Kết quả tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo 
Thấy rõ được vai trò quan trọng trong việc tổ chức tiếp dân và giải 
quyết đơn thư, huyện ủy, HĐND, UBND huyện đã quan tâm chỉ đạo các cấp, 
các ngành trên địa bàn; vụ việc phát sinh đến đâu tập trung giải quyết dứt 
điểm đến đó, không để phát sinh thành điểm nóng, hạn chế công dân khiếu 
kiện vượt cấp. 
2.1. Công tác tiếp dân 
Tổ chức công tốt công tác tiếp dân là một việc làm cụ thể thể hiện quan 
điểm “Dân là gốc” của Đảng và Nhà nước ta, nơi tiếp dân là nới mà cán bộ, 
thủ trưởng các cấp nhận được các thông tin phản hồi về công việc, chính sách 
đã triển khai đến dân hiệu quả và những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của nó, 
lắng nghe tâm tư, nguyện vọng và những bức xúc của nhân dân thông qua đó 
để có những chính sách, cơ chế quản lý phù hợp và hiệu quả hơn. 
Việc tiếp dân là một khâu quan trọng đầu tiên trong quá trình giải quyết 
khiếu nại, tố cáo, đóng vai trò không nhỏ vào hiệu quả giải quyết KNTC. Do 
vậy làm tốt khoản này tức là đã làm tốt một bước quan trọng trong giải quyết 
đơn thư. Với ý nghĩa quan trọng đó nên HĐND – UBND huyện, UBND các 
xã thị trấn, các phòng ban chuyên môn của huyện đều có phòng tiếp dân; nơi 
tiếp dân, các địa điểm tiếp dân được bố trí ở nơi thuận tiện, khang trang, bố trí 
nơi tiếp dân và phòng tiếp dân riêng biệt. Tại nơi tiếp dân được bố trí đầy đủ 
các tài liệu pháp luật, văn bản, chính sách của Nhà nước, các chủ trương lớn 
của địa phương và các trang thiết bị văn phòng đầy đủ để có thể tiếp dân chu 
đáo, đồng thời có điều kiện lồng ghép công tác tuyên truyền pháp luật. 
Đối với phòng tiếp dân, HĐND – UBND huyện được trang bị đầy đủ 
các tiện nghi vật chất, tài liệu pháp luật. Ngoài ra có nội quy tiếp dân và bảng 
phân công tiếp dân của lãnh đạo HĐND – UBND theo tuần, trong đó thứ 4 
tuần thứ 2, 4 trong tháng chủ tịch UBND huyện và người được ủy quyền (các 
phó chủ tịch khi chủ tịch đi vắng), thứ 6 tuần thứ nhất trong tháng chủ tịch 
HĐND huyện (các phó chủ tịch, ủy viên HĐND khi chủ tịch đi vắng). 
Thường trực tiếp dân là tổ tiếp dân theo quyết định của Chủ tịch HĐND 
huyện, tổ trưởng là phó chánh thanh tra huyện, các tổ viên là những chuyên 
viên có kinh nghiệm, các phòng ban chuyên môn chính của huyện được thực 
hiện tiếp dân theo lịch phân công hàng ngày của tổ trưởng. 
Đối với chủ tịch UBND các xã thị trấn tiếp dân vào thứ 2, thứ 6 hàng 
tuần, các ngày còn lại bố trí tiếp dân thường xuyên nhằm tạo điều kiện thuận 
lợi cho công dân đến khiếu nại, tố cáo; phản ánh kiến nghị kịp thời. Các 
phòng ban huyện thường xuyên bố trí cán bộ trực tiếp dân luân phiên, kiêm 
nhiệm kịp thời ghi nhận những đơn thư và ghi nhận việc công dân đến cơ 
quan mình. 
Kết quả trong 2 năm 2004, 2005 huyện Than Uyên đã tiếp 1080 lượt 
công dân, trong đó phòng tiếp dân HĐND – UBND huyện tiếp 256 lượt 
người, xã thị trấn phòng ban chuyên môn tiếp 824 lượt. Nội dung công dân 
đến kiến nghị, đề nghị, khiếu nại, tố cáo tập trung trong lĩnh vực giải phóng 
mặt bằng, chính sách xã hội, tranh chấp đất đai. 
Như vậy các phòng tiếp dân đã làm tốt được vai trò tiếp nhận những ý 
kiến phản ánh, đơn thư KNTC, tuyên truyền giáo dục pháp luật và quan trọng 
hơn n ... i tượng, đảm bảo dân chủ, công khai, 
kịp thời. 
Phần II 
Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác tiếp dân, giải quyết KNTC 
trên địa bàn 
huyện Than Uyên 
Khiếu nại, tố cáo là vấn đề tất yếu của quá trình quản lý nhà nước, giải 
quyết tốt KNTC nhằm “an dân”, ổn định an ninh chính trị, tạo đà cho phát 
triển kinh tế – xã hội là mục đích của chính quyền các cấp và nhà nước ta nói 
chung. Để đạt được điều đó cần phát huy sức mạnh của các hệ thống chính trị 
chứ không riêng của cơ quan ngành nào. ngoài ra để nâng cao chất lượng đòi 
hỏi những nhận thức đầy đủ pháp luật về giải quyết KNTC cả nhưng người 
đứng đầu chính quyền, đơn vị và từ người đó khiếu kiện hạn chế tình trạng 
đơn thư tồn đọng, giải quyết đơn thư khi mới phát sinh tại cơ sở làm cho tình 
hình an ninh chính trị ổn định. 
Từ thực tiễn công tác tiếp dân giải quyết KNTC trên địa bàn huyện 
Than Uyên trong thời gian qua, cần tăng cường một số giải pháp nhằm nâng 
cao chất lượng giải quyết KNTC trong thời gian tới. 
1. Tăng cường sự lãnh chỉ đạo của Huyện ủy, HĐND, UBND huyện 
của các cấp ủy. 
Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác giải quyết 
KNTC, đối với nội dung và hình thức chỉ đạo, giữ nguyên tắc Đảng không 
làm thay vai trò quản lý nhà nước nhưng giữ định hướng dân chủ tập trung. 
Do vậy duy trì sự chỉ đạo của Đảng trong công tác giải quyết KNTC là hết 
sức quan trọng và cần thiết. 
Trong các cấp đảng cần có những định hướng đúng đắn trên cơ sở pháp 
luật, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, cơ chế chính sách và phong tục tập 
quan người địa phương. thống nhất trong phương thức giải quyết, xử lý 
nghiêm túc và triệt để những cán bộ đảng viên vi phạm. Kết hợp giữa xử lý và 
xây dựng chỉnh đốn Đảng, Thường vụ huyện ủy ngoài những định hướng giải 
quyết các vụ việc cụ thể thì cần có nhiệm vụ cụ thể cho cán bộ luân chuyển, 
ban chỉ đạo TW 62 và các cấp ủy tham gia trong quá trình giải quyết ở cơ sở 
nơi phát minh, nắm bắt tình hình, dự báo trước các nguy cơ tâm tư nguyện 
vọng của nhân dân. 
Hội đồng nhân dân cần tăng cường công tác giám sát đối với việc giải 
quyết KNTC của chính quyền các cấp các ngành. Đại biểu HĐND đã có mối 
liên hệ chặt chẽ với cử tri trên địa bàn thông qua hoạt động tiếp xúc. Đó là 
kênh thông tin quan trọng nắm bắt những bức xúc nổi cộm trong nhân dân, 
đại diện cho những nguyện vọng chính đáng của nhân dân và yêu cầu các cơ 
quan đơn vị tiếp nhận giải quyết theo chế độ chính sách. 
Công tác tiếp dân của các phòng tiếp dân trên địa bàn toàn huyện, cách 
thức và phương pháp cần có sự đổi mới hơn nữa theo tinh thần: kịp thời, 
khách quan, dân chủ, đúng luật và cởi mở. Thực hiện triệt để trách nhiệm tiếp 
dân và giải quyết KNTC của thủ trưởng các đơn vị qua đó làm đổi mới toàn 
diện và nâng cao hiệu quả giải quyết đơn thư, qua đó giảm những bức xúc và 
tăng niềm tin của nhân dân vào những chính sách của Đảng và Nhà nước. 
2. Nâng cao năng lực của cơ quan giải quyết KNTC 
2.1. Mỗi công dân khi đến nơi tiếp dân hoặc gửi thư KNTC đều có 
những bức xúc vì cho rằng quyền lợi của mình đã bị cá nhân, công chức, tổ 
chức xâm hại. Vì vậy các công chức, tổ chức đơn vị nhà nước có thẩm quyền 
khi tiếp công dân đến KNTC cần có thái độ cởi mở, lắng nghe và có ứng xử 
đúng mực. Trong quá trình giải quyết tôn trọng chứng cứ thực tế để có những 
quyết định giải quyết đúng đắn. Nghiêm khắc với thái độ hách dịch, coi 
thường với dân, xử lý triệt đê các trường hợp né tránh, đùn đẩy trách nhiệm , 
làm sai lệch kết quả, chủ quan kết luận duy ý chí. 
2.2. Đơn thư đến với các cấp có thẩm quyền theo nhiều nguồn khác 
nhau nhưng cần có bộ phận xử lý, bóc tách nội dung, nội dung khiếu nại, kiến 
nghị, đề nghị tố cáo để giao cho cá nhân cơ quan có trách nhiệm thẩm quyền 
giải quyết và trả lời trực tiếp cho công dân, tổ chức. Bộ phận xử lý đơn thư 
được hiểu ở cấp huyện đó chính là phòng tiếp dân UBND Huyện, các cơ quan 
đơn vị, xã, thị trấn là cán bộ được giao tiếp dân, kiêm nhiệm công tác này. 
qua đó có điều kiện thực hiện nâng cao nghiệp vụ, xử lý tốt đơn thư trùng lặp, 
không đủ điều kiện giải quyết và thuận lợi cho công tác thống kê báo cáo để 
có những đánh giá phân loại khoa học hơn. 
2.3. Tiếp tục rà soát, phân loại vụ việc, phân cấp triệt để việc giải quyết 
đơn thư KNTC theo thẩm quyền. Nắm chắc và hiểu rõ nguồn gốc phát sinh vụ 
việc, định hướng cách giải quyết ngay từ cơ sở, chú trọng và cải tiến khâu đối 
thoại trong giải quyết lần đầu đảm bảo thực hiện dân chủ, khách quan, thông 
qua kết quả để người dân hiểu công việc của chính quyền, chính sách của Nhà 
nước. 
2.4. Thanh tra huyện đóng vai trò chủ đạo trong công tác giải quyết 
KNTC theo thẩm quyền và tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn về 
nghiệp vụ, đôn đốc trách nhiệm giải quyết KNTC của cơ sở. Có sự khảo sát 
và hướng dẫn cho cơ sở giải quyết các vụ việc phức tạp, nhằm hạn chế thấp 
nhất đơn thư tái khiếu, vượt cấp. 
2.5. Thanh tra huyện cần phối hợp với các cơ quan chức năng trong 
khối nội chính để mở hoặc lồng ghép các chương trình tuyên truyền, hình 
thức và loại hình tuyên truyền về luật KNTC nói riêng và các bộ luật khác 
nói chung. 
Kiến nghị với các cấp có thẩm quyền ban hành, hỗ trợ chính sách, chế 
độ phụ cấp cho cán bộ tiếp dân, cán bộ tham gia giải quyết KNTC để cán bộ 
gắn bó với công việc và có điều kiện tập trung vào công tác. 
2.6. Các cấp, các ngành, chính quyền cơ sở cần có sự công khai, minh 
bạch, cơ chế chính sách trên các lĩnh vực ảnh hưởng trực tiếp đến người dân, 
cán bộ công chức như: Đất đai, tài chính, xây dựng cơ bản, các khoản thu chi 
đóng góp của nhân dân.Cơ chế phải rõ ràng, chính sách cụ thể và đến được 
với người dân, đúng đối tượng được hưởng. 
2.7. Thực hiện chuyên môn hóa từ công tác tiếp dân, giải quyết KNTC 
thông qua đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn, dài hạn cho đội ngũ cán bộ làm công 
tác tiếp dân và giải quyết KNTC. 
3. Tăng cường trách nhiệm của chính quyền cơ sở: 
Phần lớn đơn thư phát sinh từ cơ sở xã, ngành vì vậy muốn chuyển biến 
kết quả giải quyết KNTC thì trước hết những người lãnh đạo chính quyền cần 
có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về KNTC. 
Khi xảy ra khiếu nại, tố cáo chính quyền cơ sở phải kịp thời giải quyết 
không được ỷ lại, trông chờ cấp trên. Có như vậy mới thấy được những bất 
cập, yếu kém trong khâu chỉ đạo, điều hành công việc và phải dũng cảm nhìn 
thấy trách nhiệm dám nhận sai và sửa sai, không nên tìm mọi cách che đậy, 
phủ nhận sai phạm của mình. Vì việc đó sẽ dẫn đến tình trạng công dân bức 
xúc, tập hợp để khiếu nại. 
Kiện toàn và nâng cao năng lực, đảm bảo chế độ cho ban thanh tra nhân 
dân. Đây là hình thức giám sát của nhân dân thông qua đại diện do mình bầu 
ra để tham gia và xem xét trực tiếp việc thực hiện chính sách, pháp luật về 
giải quyết KNTC và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Hoạt động thanh tra 
nhân dân có hiệu quả giúp cho lãnh đạo cơ sở tập trung được ý kiến phản ánh 
của dân nhanh nhất. Từ đó thấy được yếu kém và bất cập công việc của chính 
quyền đang thực hiện, hạn chế được đơn thư khiếu nại, tố cáo từ cơ sở. 
4. Tăng cường sự phối kết hợp với các đoàn thể. 
Đề cao vai trò các tổ chức đoàn thể như: Hội nông dân; Hội cựu chiến 
binh; Hội phụ nữ; Hội người cao tuổi; Đoàn thanh niên. Trong công tác giải 
quyết đơn thư, tham gia vào quá trình này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp 
của hội viên khi tham gia KNTC và đồng thời đóng vai trò vận động, thuyết 
phục, tuyên truyền chính sách, pháp luật cho hội viên hiểu và thực hiện theo. 
Các tổ chức đoàn thể bố trí cán bộ có sự hiểu biết và khả năng tuyên 
truyền tham gia và công tác tiếp dân, giải quyết KNTC. Từ đó nắm bắt kịp 
thời tâm tư nguyện vọng cũng như những kiến nghị, phản ánh của đoàn viên 
hội viên. Nhằm phục vụ tốt cho công tác giải quyết KNTC. 
Kết luận 
Tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo là hoạt động quan trọng trong quá 
trình quản lý Nhà nước. Khiếu nại, tố cáo xảy ra trên mọi lĩnh vực của đời 
sống xã hội và liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành. Muốn giải quyết tốt 
công tác này cần huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị. Giải quyết 
khiếu nại, tố cáo đúng quy định của Pháp luật thể hiện bản chất tốt đẹp của 
Nhà nước ta. Những quyết định, hành vi trái pháp luật của cơ quan, cán bộ, 
công chức nhà nước hoặc công dân bị xử lý nghiêm minh thì quan hệ giữa 
nhân dân với Đảng và Nhà nước được củng cố ngày một vững chắc, dân chủ 
được phát huy, tính tích cực, sáng tạo của nhân dân được nâng cao. 
Thời gian qua các cấp, các ngành của huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu 
đã không ngừng cố gắng, nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cao trên 
địa bàn. Qua đó góp phần ổn định an ninh chính trị, tạo điều kiện thuận lợi 
cho phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được 
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện Than Uyên vẫn còn 
một số hạn chế cần khắc phục. Qua quá trình học tập lý luận và nghiên cứu 
thực tiễn công tác KNTC ở địa phương em đã rút ra một số bài học kinh 
nghiệm và đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết KNTC 
trong thời gian tới. Với quyết tâm của một cán bộ thanh tra, em mong muốn 
được đóng góp công sức mình cho công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo ở địa 
phương ngày một tốt hơn. Góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp kinh tế xã hội của 
huyện nhà. 
Tóm lại, việc đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giải quyết KNTC 
không chỉ đòi hỏi ở tầm vĩ mô (như cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà 
nước) mà bản thân mỗi cán bộ công chức cũng cần tự đổi mới, không ngừng 
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ theo hướng “chuyên sâu, chuyên 
nghiệp” đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa đất nước. 
mục lục 
 lời nói đầu 1 
Phần I: thực trạng công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện 
than uyên – lai châu 
3 
I. Đặc điểm chung. 3 
II. Thực trạng công tác tiếp dân giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa 
bàn huyện. 
4 
1. Nhận định chung. 4 
2. Kết quả tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo. 4 
2.1. Công tác tiếp dân. 5 
2.2. Công tác tiếp nhận giải quyết khiếu nại, tố cáo. 7 
3. Đánh giá kết quả tiếp dân giải quyết khiếu nại, tố cáo. 9 
3.1. Những mặt làm được. 9 
3.2. Những tồn tại hạn chế. 9 
3.3. Nguyên nhân hạn chế tồn tại. 10 
4. Bài học kinh nghiệm. 11 
4.1. Vai trò cấp uỷ Đảng, người đứng đầu cơ quan hành chính Nhà 
nước cấp xã, huyện. 
11 
4.2. Vai trò các đoàn thể. 12 
4.3. Vai trò của các cơ quan đơn vị, cơ sở xã. 12 
4.4. Vai trò của thanh tra huyện. 12 
4.5. Vai trò của tính công khai minh bạch trong các cơ chế chính sách. 13 
Phần II: một số giải pháp nhằm tăng cường công tác tiếp dân giải quyết khiếu nại, tố
cáo trên địa bàn huyện than uyên 
14 
1. Tăng cường sự chỉ đạo của huyện uỷ, HĐND, UBND huyện, của 
cấp uỷ. 
14 
2. Nâng cao năng lực cơ quan giải quyết khiếu nại, tố cáo. 15 
3. Tăng cường trách nhiệm của chính quyền cơ sở. 17 
4. Tăng cường sự phối kết hợp với các đoàn thể. 18 
 kết luận 19 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_thuc_trang_cong_tac_tiep_dan_giai_quyet_khieu_nai.pdf