Kinh tế phát triển nâng cao - Từ cái nhìn của Lý Quang Diệu “Nếu có vị trí số một ở Đông Nam Á thì đó phải là Việt Nam mới xứng đáng. bởi so sánh về địa chính trị, tài nguyên, con người Việt Nam không thể xếp sau một nước nào trong khu vực” và định hướng

Giới thiệu: Trong hơn 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, cựu Thủ tướng quá cố Lý Quang Diệu đã từng nhiều lần đến Việt Nam. Lần đầu tiên vào tháng 4/1992, thăm Hà Nội, TP.HCM và Đồng Nai, trò chuyện thân mật cả ngày với Thủ tướng Võ Văn Kiệt, tiếp xúc với Tổng bí thư Đỗ Mười, cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng, cựu Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh... Sau đó, ông liên tục trở lại Việt Nam vào tháng 11/1993, 3/1995, và 11/1997... Đặc biệt, trong chuyến thăm Việt Nam vào năm 2007 của ông Lý Quang Diệu đã để lại nhiều ấn tượng đặc biệt về tình hữu nghị giữa hai nước.

Ông dự đoán, Việt Nam trong 5 năm tới sẽ bắt kịp tốc độ của các nước trong khu vực. Việt Nam sẽ tăng trưởng mạnh như Singapore, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Australia, và New Zealand. Việt Nam đã mất nhiều thời gian, bỏ lỡ một số cơ hội. Bây giờ, Việt Nam phải bù đắp cho cơ hội đã mất đó, "cần bù đắp và tiến kịp". Ông còn nhấn mạnh rằng “Nếu có vị trí số một ở Đông Nam Á thì đó phải là Việt Nam. Bởi so sánh về địa chính trị, tài nguyên, con người, Việt Nam không thể xếp sau nước nào trong khu vực”. Vậy hiện tại chúng ta đã có những gì và chưa được những gì? Liệu chúng ta có đi đúng định hướng chưa ? Và chúng ta cần làm những gì cho chặn đường tương lai, mà nền kinh tế phía trước dự báo có nhiều biến động của các nước siêu cường kinh tế và sự phụ thuộc của các nước đang phát triển như Việt Nam vào vòng xoáy đó.

Bài viết nhìn nhận từ thời kỳ mở cửa cho đến hướng phát triển tăng trưởng kinh tế, bài viết sử dụng phương pháp lịch sử, định tính trên cơ sở phân tích, so sánh.

doc 10 trang Minh Tâm 29/03/2025 140
Bạn đang xem tài liệu "Kinh tế phát triển nâng cao - Từ cái nhìn của Lý Quang Diệu “Nếu có vị trí số một ở Đông Nam Á thì đó phải là Việt Nam mới xứng đáng. bởi so sánh về địa chính trị, tài nguyên, con người Việt Nam không thể xếp sau một nước nào trong khu vực” và định hướng ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kinh tế phát triển nâng cao - Từ cái nhìn của Lý Quang Diệu “Nếu có vị trí số một ở Đông Nam Á thì đó phải là Việt Nam mới xứng đáng. bởi so sánh về địa chính trị, tài nguyên, con người Việt Nam không thể xếp sau một nước nào trong khu vực” và định hướng

Kinh tế phát triển nâng cao - Từ cái nhìn của Lý Quang Diệu “Nếu có vị trí số một ở Đông Nam Á thì đó phải là Việt Nam mới xứng đáng. bởi so sánh về địa chính trị, tài nguyên, con người Việt Nam không thể xếp sau một nước nào trong khu vực” và định hướng
 ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM
 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
 KHOA KINH TẾ
 KINH TẾ PHÁT TRIỂN NÂNG CAO
Từ cái nhìn của Lý Quang Diệu “Nếu có vị trí số một ở Đông Nam 
Á thì đó phải là Việt Nam mới xứng đáng. Bởi so sánh về địa chính 
 trị, tài nguyên, con người việt nam không thể xếp sau một nước 
 nào trong khu vực” và định hướng phát triển kinh tế.
 GVHD: PGS, TS Nguyễn Chí Hải
 HVCH: Trần Duy Lâm
 MSHV: 101021607 Từ cái nhìn của Lý Quang Diệu “Nếu có vị trí số một ở Đông nam 
Á thì đó phải là Việt Nam mới xứng đáng. Bởi so sánh về địa chính 
 trị, tài nguyên, con người việt nam không thể xếp sau một nước 
 nào trong khu vực” và định hướng phát triển kinh tế.
 GVHD: PGS. TS Nguyễn Chí Hải
 HVTH: Trần Duy Lâm
 MSHV: 101021607
Giới thiệu: Trong hơn 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, cựu Thủ 
tướng quá cố Lý Quang Diệu đã từng nhiều lần đến Việt Nam. Lần đầu tiên vào tháng 
4/1992, thăm Hà Nội, TP.HCM và Đồng Nai, trò chuyện thân mật cả ngày với Thủ 
tướng Võ Văn Kiệt, tiếp xúc với Tổng bí thư Đỗ Mười, cựu Thủ tướng Phạm Văn 
Đồng, cựu Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh... Sau đó, ông liên tục trở lại Việt Nam vào 
tháng 11/1993, 3/1995, và 11/1997... Đặc biệt, trong chuyến thăm Việt Nam vào năm 
2007 của ông Lý Quang Diệu đã để lại nhiều ấn tượng đặc biệt về tình hữu nghị giữa 
hai nước.
 Ông dự đoán, Việt Nam trong 5 năm tới sẽ bắt kịp tốc độ của các nước trong khu 
vực. Việt Nam sẽ tăng trưởng mạnh như Singapore, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, 
Australia, và New Zealand. Việt Nam đã mất nhiều thời gian, bỏ lỡ một số cơ hội. Bây 
giờ, Việt Nam phải bù đắp cho cơ hội đã mất đó, "cần bù đắp và tiến kịp". Ông còn 
nhấn mạnh rằng “Nếu có vị trí số một ở Đông Nam Á thì đó phải là Việt Nam. Bởi so 
sánh về địa chính trị, tài nguyên, con người, Việt Nam không thể xếp sau nước nào 
trong khu vực”. Vậy hiện tại chúng ta đã có những gì và chưa được những gì? Liệu 
chúng ta có đi đúng định hướng chưa ? Và chúng ta cần làm những gì cho chặn đường 
tương lai, mà nền kinh tế phía trước dự báo có nhiều biến động của các nước siêu 
cường kinh tế và sự phụ thuộc của các nước đang phát triển như Việt Nam vào vòng 
xoáy đó. 
 Bài viết nhìn nhận từ thời kỳ mở cửa cho đến hướng phát triển tăng trưởng kinh 
tế, bài viết sử dụng phương pháp lịch sử, định tính trên cơ sở phân tích, so sánh.
 Từ khóa: Kinh tế Việt Nam, thời kỳ đổi mới, Lý Quang Diệu, cải cách.
1. Chiến lược thời mở cửa
Năm 1858 khi quân đội Pháp nổ những phát súng đầu tiên. Xâm chiếm Việt Nam thì 
Vua Tự Đức lo lắng kinh hãi vẫn chưa biết đối phó thế nào trước kẻ thù. Thì cũng trong 
khoảng thời gian ấy năm 1854 một đất nước xa xôi cách chúng ta vài ngàn dặm ở phía 
bắc cùng chịu ảnh hưởng về văn hóa tương tự như Việt Nam, đồng thời cũng đang rơi 
vào sự dòm ngó từ các nước phương Tây xâm lược đó chính là Nhật Bản nơi mà có 
Nhật hoàng Minh Trị với tầm nhìn của mình là phải “mở cửa” mới có thể ngang hàng 
về phát triển khoa học, quân sự , kinh tế. Quả thật, lịch sử đã chứng minh tài năng của 
ông chưa đầy 40 năm sau, hạm đội của Ông đã đánh tan tác hạm đội hùng mạnh của 
Nga. Điều gì, đã làm nên sự khác biệt giữa hai nước khi có cùng chung xuất phát điểm, 
có phải chăng đó chính là sự sợ hãi, thiển cận là tự mãn của cái cũ mà không có sự 
khao khát của cái mới? Bước vào những năm cuối thế kỉ XX khi mà cuộc chơi chinh phục làm chủ thị 
trường không còn là quân sự đạn pháo nữa mà nó là cuộc chiến kinh tế không súng nổ 
đạn bay, không máu đổ. Nhưng đó là cuộc chiến sống còn mang tính toàn cầu, một 
trong những điểm nóng đó chính là khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Và chúng ta 
năm giữa điểm nóng đó. Điều may mắn là chúng ta không di theo vết xe cũ, chúng ta đã 
“Mở” cửa. Đi cùng với nó là hàng trăm, hàng ngàn câu hỏi được đặt ra. Cuối cùng nên 
bắt đầu từ đâu? Thu hút ngoại lực để bồi dưỡng nội lực, tạo ra lợi thế biến thách thức 
thành cơ hội là hai thành tố quan trọng trên con đường hội nhập.
 Con đường phát triển của nền kinh tế Việt Nam không bằng phẳng, trải qua 
những khó khăn thăng trầm rồi dẫn đến những sai lầm đáng tiếc. Điển hình 1985 cuộc 
cải cách Giá – Lương – Tiền làm cho nền kinh tế kiệt quệ, nhưng việc bãi bỏ ngăn sông 
cấm chợ cho phép kinh tế tư nhân mở rộng và phát triển là một liều thuốc hồi sinh cho 
các hoạt động kinh tế. Đến năm 1988, hậu quả quá trình mất cân đối kinh tế vĩ mô mãn 
tính khiến nền kinh tế lại lâm vào một thời kì lạm phát suy thoái tồi tệ, đồng tiền bị mất 
giá nghiêm trọng dẫn đến tình trạng đổ bể tín dụng đồng loạt vào những năm 1990-
1991. Đó là những vấp ngã mang tính chủ quan duy ý chí và điều ngạc nhiên mỗi lần 
thất bại thì nền kinh tế của Việt Nam lại lớn hơn và mạnh hơn.
 Nếu có thể tổng kết điều gì đã làm nên sự kỳ diệu của nền kinh tế Việt Nam thì 
chỉ bằng một chữ thôi, bạn sẽ chọn chữ nào? Riêng đối với tôi, đó là chữ “Mở”. Giống 
như chữ “Hỏa” mà Gia Cát Lượng và Chu Du đã chọn lựa trong trận Xích Bích đánh 
tan Tào Tháo. Có những lĩnh vực kinh tế mà chữ Mở đã làm nên những điều kì diệu 
như chiếc đũa thần. Cuộc cải cách ngân hàng 1989-1990, kể từ ngày ban hành hai pháp 
lệnh ngân hàng 1990, hệ thống ngân hàng mới đã không ngừng phát triển cả về lượng 
và chất. Nó đã giúp chúng ta bước qua cơn khủng hoảng và chính hệ thống này thực 
hiện kỳ tích đẩy tốc độ phát triển GDP trong ba năm liền lên trên 8% năm, gấp đôi tốc 
độ tăng trưởng những năm trước đó.
 Cánh cửa mở của hệ thống ngân hàng Việt Nam đã mở rộng cho khu vực kinh tế 
tư nhân. Sau những trục trặc của hệ thống hợp tác tín dụng non trẻ và thiếu kinh 
nghiệm. Nhờ chính sách Mở của nhà nước và sự phát triển của ngân hàng thương mại, 
từ năm 1993, kinh tế tư nhân đã phát triển nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng. Tỷ 
trọng thu ngân sách nhà nước từ khu vực kinh tế tư nhân từ 6% lên trên 11%. Riêng 
năm 2008, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp vào GDP gần 47%; trong đó có 
phần đóng góp quan trọng của kinh tế tư nhân và từ một số địa phương như TP. Hồ Chí 
Minh, Cần Thơ. Bên cạnh đó hoạt động ngoại thương và đầu tư nước ngoài có một vị 
trí quan trọng ngày càng lớn trong tiến trình và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt 
Nam. Cho đến nay theo Bộ kế hoạch và Đầu tư, đã có 9500 dự án đầu tư nước ngoài 
tổng vốn 98 tỷ đô.
 Nhưng hội nhập kinh tế đòi hỏi nâng cao năng lực cạnh tranh. Khi điều kì diệu 
đã đi qua, chúng ta phải đương đầu với những khó khăn mới. Ngoại thương tuy phát 
triển mạnh, nhưng vấn nạn nhập siêu kéo dài đang là một bài toán khó trong nổ lực 
phục hồi các cân đối vĩ mô. Sự lựa chọn giữa lạm phát và tăng trưởng vẫn là một sự lựa 
chọn đầy khó khăn, và mục tiêu tăng trưởng trong ổn định vẫn còn là sứ mệnh bất khả 
thi của chính sách tiền tệ quốc gia. Và trên hết, hiệu quả đầu tư và năng lực cạnh tranh 
của nền kinh tế tăng nhanh hệ số ICOR, từ con số 2,5 năm 1989 tăng lên 8,5 năm 2009 
và hiện nay 6,82 năm 2015. Ngân hàng Thế giới đã khuyến cáo rằng Việt Nam không nên trông cậy vào 
nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài và chưa biết khi nào phục hồi mà nên quan 
tâm khơi dậy đồng vốn trong nước. Thật sự đáng lo ngại, khi mà đồng vốn là vấn đè cốt 
lõi cho nền kinh tế, chúng ta cần phát huy của nội lực kinh tế bao gồm nhiều yếu tố: lao 
động, tài nguyên, đất đai, kỹ thuật, công nghệ và trong đó đồng vốn có vai trò quan 
trọng nhất. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được quyết định bởi khối lượng đồng vốn được 
tích lũy của nền kinh tế và được đưa vào đầu tư. Nền kinh tế muốn huy động đồng vốn 
từ bên trong cần phải phá vỡ những tắc nghẽn đang là nguyên nhân khiến nó bị bất 
động, không sinh sôi sôi nảy nỡ được đưa vào dòng chảy của đầu tư. 
 Tại một nước nông nghiệp như Việt Nam, tâm lý trữ vàng là phổ biến như cất 
trữ trong két sắt, chôn giấu dưới nền nhà là cực kì nguy hiểm và có tác hại đến nền kinh 
tế và nó là trở ngại đầu tiên cần vượt qua mà người dân đang thực hành tiết kiệm. Nếu 
chúng ta có thể đưa được phân nữa số đó vào hệ thống ngân hàn, nguồn vốn có sẵn để 
phục vụ cho sự vận hành thường nhật của nền kinh tế sẽ gia tăng bội phần, và nếu 
nguồn vốn được huy động ngày càng lớn với một giá phí thấp, sẽ rất thuận lợi cho việc 
giảm lãi suất ngân hàng với kết quả mang lại là giúp tang trưởng tín dụng và đầu tư 
trong nước. Nhu cầu vốn, cũng chính là bài thuốc cho doanh nghiệp tư nhân. Chúng ta 
không thể nói phát huy ngoại lực nếu các doanh nghiệp trong nước muốn phát triển sản 
xuất lại không nhận được những nguồn tài trợ trung và dài hạn cho dự án của mình. 
Mặt khác, yêu cầu phát huy nội lực còn có một đòi hỏi rất cấp bách là làm tan băng các 
khoản nợ tín dụng quá hạn và khó đòi. Trong cơn sốt đầu tư phát triển sản xuất, bất 
động sản thì số vốn tín dụng đã chết cứng trong hàng ngàn căn nhà, kho, xưởng 
máy...Những khoản nợ này cần được làm sống dậy, bằng cách tạo cho chúng tính lưu 
động cần thiết qua những công cụ nợ. Nhưng trước hết và quan trọng nhất là các biện 
pháp kích thích sự luân chuyển các tài sản đó. 
 Theo K. Marx mọi sự vật luôn vận động và phát triển, điều này đúng không chỉ 
trong triết học mà còn cả ngay định luật cho xã hội và kinh tế học. Nền kinhh tế tăng 
trưởng nhanh khi nào các hoạt đọng kinh tế vận hành thông suốt, không trở ngại. Giá trị 
của các loại tài sản, hàng hóa trong nền kinh tế được gia tăng chính là nhờ sự vân động 
của các loại tài sản, hàng hóa đó. Do vậy, muốn phát huy nội lực kinh tế đất nước, trước 
hết cần phải khai thông dòng chảy cho các yếu tố nội lực.
 Từ khi đất nước thống nhất đến nay chúng ta có quá nhiều vấn đề cần giải quyết 
nhưng yếu tố nội sinh là hòa giải, hòa hợp dân tộc vẫn chỉ là một điều mơ ước. Nhưng 
giờ đây, khi đối mặt với sự xâm phạm bờ cõi từ Biển Đông, cơ may hòa giải hòa hợp, 
đại đoàn kết dân tộc lại xuất hiện. Hàng chục triệu trái tim người Việt đang hướng về 
một mục tiêu chung và bảo vệ tổ quốc chủ quyền thiêng liêng của dân tộc. Bây giờ 
chúng ta có dân số đứng thứ 14 trên thế giới, một lãnh thổ dài hàng ngàn dặm và một 
thềm lục địa trù phú. Chúng ta không còn là một nước nhỏ và càng không thể là một 
quốc gia yếu hèn. Khi cơ may cho một sự đoàn kết vĩ đại, một sự đồng tầm hiệp lực của 
trên 90 triệu người Việt của một nước Việt thống nhất đang xuất hiện, cơ may ấy không 
thê bỏ lỡ. Đó là cơ hội ngàn năm có một cho dân tộc Việt. Đó là cơ hôi để Việt Nam trở 
thành một quốc gia hùng cường, có một chỗ đứng xứng đáng trên thế giới này. Hãy 
nhìn vào Singpore của Lý Quang Diệu nếu không có sự đoàn kết, ý chí từ người dân 
nước này thì Lý Quang Diệu có tài giỏi cách mấy cũng chỉ là phí sức, càng không thể 
biến một đầm lầy Đông Nam Á thành Singpore của ngày nay. 2. Xây dựng cơ chế thị trường và quản lý nhà nước định hướng XHCN
 Theo PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng: “Có thể còn khá sớm khi nói đến những đóng 
góp về lý luận và thực tiễn của Việt Nam để khẳng định một mô hình phát triển kinh tế 
của nhân loại. Nhưng cùng với thực tiễn sinh động của gần 30 năm đổi mới, những 
hiểu biết và sự trải nghiệm phương thức vận hành của nền kinh tế thị trường đã cho 
thấy những sự phát triển về lý luận của nước ta về kinh tế thị trường định hướng XHCN 
ngày càng sâu sắc hơn và được khẳng định”. Quả thật như vậy, chúng ta đã có những 
thành tích kinh tế đáng nể khi nền kinh tế mới bắt đầu chuyển sang cơ chế thị trường. 
Tuy vây, chúng ta chỉ mới có một thị trường sản phẩm tương đối phát triển, còn thị 
trường các yếu tố sản xuất như đất đai, lao động, tiền vốn, vẫn còn ở mức sơ cấp.
 Phát triển hoàn chỉnh cơ chế thị trường không chỉ ở chỗ thiết lập về mặt hình 
thức, các loại thị trường, mà quan trọng hơn, còn là phát huy tốt những đặc tính căn bản 
của nó. Thứ nhất là tính lưu chuyển, yếu tố cần thiết cho sự vận hành thông suốt của thị 
trường. Một thị trường chỉ hoạt động tốt khi nào sản phẩm của nó được lưu thông 
không trở ngại từ người sản xuất cho đến người tiêu dùng, từ người bán cho đến người 
mua. Từ đó, sản phẩm sẽ đạt đến mức tối ưu “thuận mua vừa bán”. Tại đây thấy được 
vai trò ccủa Nhà nước cho những ngày đổi mới bãi bỏ cấm chợ ngăn sông mà thị 
trường nông phẩm mới thực sự hình thành, kích thích sản xuất nông nghiệp, biến Việt 
Nam từ nước nhập khẩu gạo thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Bên cạnh đó 
thì còn những thị trường đang khuất tất như thị trường đất đai, tuy có vẻ ì xèo ban đầu 
nhưng càng về sau thì đâu lại vào đấy, không đề cập đến các vấn đề biến động của thị 
trường mà là do quyền sở hữu đất đai của công dân chưa thực sự rõ ràng, dẫn đến các 
thủ tục phiền hà hành chính, phức tạp trong chuyển nhượng quyền sử dụng đất của 
người dân. Thị trường vốn trên thực tế đã xuất hiện nhưng mới ở giai đoạn sơ cấp, các 
sản phẩm của thị trường này (cổ phiếu, trái phiếu) chưa được trao đổi mua bán dễ dàng 
vì chưa có thị trường chứng khoán thứ cấp. Không thể phát triển được thị trường nếu 
không có sự lưu chuyển các sản phẩm, và ngược lại. Đăc tính thứ hai là tính cạnh tranh. 
Chính nhờ sự cạnh tranh nhiều người bán và giữa nhiều người mua mà chất lượng sản 
phẩm ngày càng được nâng cao, mức giá ngày càng giảm thấp. Sự cạnh tranh đòi hỏi 
một sân chơi ngang bằng và một luật chơi công bằng, trong đó người bán và người mua 
đều được đối xử bình đẳng trong quan hệ mua bán. Thực tế đã kiểm nghiệm điều đó. 
Một hệ thống ngân hàn thương mại với nhiều ngân hàng hoạt động cạnh tranh nhau 
khiến ngày hôm nay khách hàng được phục vụ tốt hơn trước đấy rất nhiều, nhân viên 
ngân hàng được đào tạo tốt hơn, phong cách hoạt động chuyên nghiệp hơn, kỹ thuật 
nghiệp vụ được nâng cao hơn. 
 Tuy nhiên, xây dựng một sân chơi ngang bằng và một luât chơi công bằng để 
tiến tới một cơ chế thị trường hoàn chỉnh không phải là một tiến trình dễ dàng. Những 
ưu đãi, đặc quyền và độc quyền đang dành cho khu vực kinh tế quốc doanh bãi bỏ, bù 
biết rằng việc bãi bỏ các ưu quyền đó có lợi trước hết cho chính xí nghiệp quốc doanh 
và càng có lợi hơn cho nền kinh tế. Các xí nghiệp được gọi là chủ đạo này cần phải trải 
qua thời kỳ tập sự cạnh tranh trong nước trước khi có thể tham gia vào đấu trường quốc 
tế. Hơn nữa, dành đăc quyền đặc lợi cho các xí nghiệp quốc doanh sẽ dẫn đến việc dành 
đặc quyền cho các nhà đầu tư nước ngoài đang tìm kiếm lợi thế trong liên doanh với họ. 
Đó không phải là con đường đi đến một sân chơi ngang bằng, mà là nguyện vọng chung 
của các thành phàn kinh tế khác trong nước khi sắp phải tham gia vào trò chơi thị 
trường toàn cầu. Chúng ta lẽ ra có thể đưa nền kinh tế tiến nhanh hơn trên con đường thị trường 
hóa nếu nhận thức rằng cơ chế thị trường chỉ là một công cụ vận hành nền kinh tế tót 
hơn các mô hình khác. Cơ chế thị trường không phải là con đẻ của người Mỹ, cũng như 
kinhtees chỉ huy không phải là độc quyền của người Nga. Thị trường xuất hiện trước 
Adam Smith rất lâu và thậm chí chủ nghĩa tư bản Mỹ từng đe dọa hủy diệt cơ chế thị 
trường ở Mỹ bằng quá trình tập trung tư bản độc quyền nếu không bị hạn chế bởi đạo 
luật chống tổ hợp nổi tiếng. Điều này cho thấy ngay chính ở Mỹ, nơi mà tự do kinh tế 
không ngừng được đề cao, người ta cũng không ngần ngại sử dụng vai trò quản lý của 
Nhà nước để điều chỉnh những trục trặc, lệch lạc trong quá trình phát triển của thị 
trường do các thành viên thiếu tôn trọng luật chơi vì lợi ích riêng của họ.
 Vấn đề là không nên xem xét cơ chế thị trường và vai trò quản lý của Nhà nước 
là hai mặt đối nghịch. Quản lý nhà nước không phải nhằm hạn chế hay tiêu diệt cơ chế 
thị trường mà nhằm tạo điều kiện cho sự vận hành thông suốt, phát huy những mặt 
mạnh, những tác dụng tích cực của nó đối với nền kinh tế để rồi sau đó, thực hiện việc 
tái phân phối hợp lý hợp lý các thành quả kinh tế mà nó mang lại, vì mục tiêu công 
bằng xã hội. Trong thời đại cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu như hiện nay, Nhà nước 
phải tự xác định vai trò của mình là tác nhân kích thích tăng trưởng kinh tế. Quản lý 
nhà nước phải nhằm tạo ra động lực cho phát triển, đồng thời điều hòa các lợi ích kinh 
tế xã hội mà không làm mất đi các động lực đó. Muốn hái được quả ngon, người trồng 
cây phải chịu khó bón phân, tưới nước, tỉa lá, bắt sâu 
 Cơ chế thị trường có quy luật vận hành của nó. Nếu quy luật đó được các bên 
tham gia trò chơi tôn trọng, thị trường sẽ hoạt động tốt và có lợi cho mọi người, ngược 
lại, nó sẽ bị trục trặc và có thể trở thành một trò chơi mà tổng là một số âm., có nghĩa 
tất cả mọi người tham gia đều bị thiệt hại dù it hay nhiều. Nhưng người ta ít khi sẵn 
sàng tôn trọng quy luật vận động của thị trường, người ta chỉ tôn trọng luật pháp vì tính 
cưỡng chế của pháp luật. Muốn thi trường được hoạt động tốt, luật pháp phải quy định 
sự tôn trọng quy luật thị trường. Bằng không, sẽ là một điều cức kì nguy hiểm nếu chơi 
trò chơi thị trường mà không có luật chơi còn người chơi thì không biết và không tôn 
trọng luật chơi. Nhìn lại lịch sử cải cách kinh tế ở các nước thuộc Liên Xô cũ và Đông 
Âu đã đem lại sự thất vọng cho công chúng, đưa xã hội rơi vào chia rẽ và bất ổn triền 
miên. Bản chất của sự bất ổn đó liên miên quan đến việc giải quyết mối quan hệ giữa 
kinh tế thị trường và hiệu lực của nhà nước pháp quyền. Vai trò của nhà nước pháp 
quyền và chức năng điều tiết khá quan trọng đối với sự vận hành của kinh tế thị trường. 
“ Tuy nhiên phải nhìn nhận rằng, việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN – theo 
như đánh giá tại Đại hội Đảng lần thứ XI, chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và 
quản lý đất nước. Bên cạnh đó, công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí vẫn còn 
nghiêm trọng và những biểu hiện tinh vi, phức tạp chưa được ngăn chặn, đẩy ùi, gây 
bức xúc xã hội”. Cần đánh giá lại vai trò chủ dạo của kinh tế nhà nước, tự làm khó 
trong quan hệ kinh tế quóc tế và sự công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Đặc 
trưng của kinh tế thị trường định hướng XHCN đó là một nền kinh tế thị trường hiện 
đại, có nhiều khu vực vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý, điều tiết của nhà 
nước. 
 Kinh tế thị trường đã chứng tỏ sức sống tiềm tàng và những khả năng thích ứng 
với nhiều biến thể khác nhau. Vì vậy, cần nhận tức đúng xác định các rủi ro của kinh tế 
thị trường mang đến như khủng hoảng, suy thoái. Sức tăng trưởng cao, đồng thời nguy 
cư khủng hoảng và suy thoái lớn là những đặc tính cố hữu của kinh tế thị trường, chỉ 
trong điều kiện xác định đúng đắn định hướng phát triển của nó, giải quyết tốt mối quan hệ định hướng XHCN và kinh tế thị trường thì mới có thể thực hiện được những mục 
tiêu đặt ra.
3. Định hướng phát triển.
 Đã có nhiều dự báo khác nhau đều tiên đoán tốc đọ tăng trưởng trong những 
năm sắp tới của Việt Nam sẽ trên 8%/ năm. Tuy nhiên cũng không ít những cảnh báo. 
Con thuyền kinh tế Việt Nam cần được hoàn chỉnh và củng cố để chuẩn bị vượt biển 
lớn ra khơi. Củng cố và hoàn chỉnh con thuyền cần những cải cách. Các chuong trình 
cải cách không hề thiếu trong chiến ược phát triển của chúng ta. Một cách công khai, 
chúng ta cũng tỏ ra không hề thiếu quyết tâm cải cách. Trong nhiều thập niên, cải cách 
tiếp nối cải cách, nhiều kết quả đáng khích lệ nhưng trên thực tế, chúng đã không đạt 
đến những thành công như mong đợi. Song với mong muốn của cộng đồng dân tộc, 
chúng ta đã tiến quá chậm trên con đường hướng đến thịnh vượng. Chúng ta đi chậm vì 
chưa xây dựng được một nền kinh tế có chi phí thấp và hiệu quả cao.
 Cải cách hành chính chưa thể nói là thành công trong mục tiêu biến bộ máy hành 
chính thành một lực đẩy, đưa chi phí hành chính xuống thấp, tuy rằng thủ tục hành 
chính ngày nay có bớt phức tạp hơn và nhanh chóng hơn. Nhưng nó không đủ đơn giản 
và nhanh chóng để giúp doanh nghiệp Việt Nam tang cường sức mạnh cạnh tranh và 
sớm bắt kịp các đồng nghiệp của họ ngay trong ASEAN. Để thành công, cải cách hành 
chính không thể được quan niệm chỉ là một bài toán kỹ thuật một dấu hay một cửa. Cải 
các hành chính phải là một bài toán về thay đổi tư duy, từ thái đọ hành xử quyền lực 
sang thi hành trách nhiệm, từ mục tiêu quản lý sang mục tiêu hỗ trợ, từ chức năng ngăn 
chặn sang chức năng thúc đẩy, từ đối kháng lợi ích sang hợp nhất lợi ích. Bộ máy nhà 
nước là chân ga của nền kinh tế, không phải là chân thắng. Người đân và doanh nghiệp 
không cần đến mức công chức là đầy tớ của nhân dân như khẩu hiệu đã nằm lòng, họ 
chỉ cần công chức là những nhà kỹ trị chuyên nghiệp có tinh thần trách nhiệm cao, hiểu 
rằng họ là những công dân đã nộp thuế cho Nhà nước và cần được đối xử xứng đáng. 
Cải cách hành chính đòi hỏi một ý chí chính trị mạnh mẽ, một quyết tâm cao của những 
nhà lãnh đạo đất nước vì lợi ích chung của cộng đồng dân tộc. Cải cách hành chính 
thành công sẽ tạo ra môi trường hấp dẫ đầu tư, cả trong lẫn ngoài nước. Đầu tư hiệu quả 
sẽ đẩy nhanh tốc đọ tăng trưởng.
 Hiệu quả đầu tư không chỉ là kết quả của đổi mới quá trình công nghệ và tăng 
năng suất lao động. Nó còn là hệ quả của việc tiết kiệm và sử dụng tốt hơn các yếu tố 
sản xuất: đồng vốn, tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực và trong lâu dài, môi trường 
sống. Tất cả những điều đó quyết định chỉ số ICOR của đầu tư, một chỉ số rất tương 
đối.
 Nếu hệ thống ngân hàng nước ta chỉ có thể cung cấp ddoongwf vốn tín dụng với 
giá cao hơn trong tương quan so sánh với một hệ thống khác, nó sẽ không hỗ trợ tốt cho 
các doanh nghiệp nước ta làm ra và bán được sản phẩm của họ trên một thị trường đầy 
cạnh tranh, dù đó là thị trường quốc tế hay quốc nội Nhung cung cấp được đồng vốn giá 
thấp không phải là vấn đề duy nhất, hệ thống ngân hàng Việt Nam còn phải đưa được 
đồng vốn đó vào tay những doanh nghiệp sử dụng chúng với hiệu quả cao hơn, những 
doanh nghiệp trong khu vực tư doanh. Các nhà phân tích đều đánh cao việc Việt Nam 
thúc đẩy nhanh chương trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước trong mục tiêu cấu 
trúc lại khu vực kinh tế quốc doanh. Kinh nghiệm taih nhiều nước chứng minh rằng các 
doanh nghiệp tư nhân thường hoạt động hiệu quả hơn, ít lãng phí hơn và nhạy bén hơn 
cac đòi hỏi cấp bách của thị trường so với các xí nghiệp Nhà nước. Tuy bài toán về nguồn nhân lực mới chính là bài toán then chốt quyết định năng 
lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam đồng thời quyết định độ bền và chất lượng của 
tăng trưởng. Chúng ta đang đối mặt với hai bài toán khó về nhân lực. Một là tình trạng 
thiêu nhân lực chuyên môn để phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao và các 
ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, quản lý, tiếp thị Hai là tình trạng thừa lao động 
giản đơn tại nông thôn và vùng vem đo thị. David Koh, trong bài viết nhan đề “Việt 
Nam cần có lộ trình bay riêng” trên tạp chí kinh tế Viễn Đong tháng 12/2006 nhận 
định: “Mặc dù tỷ lện biết chữ lên đến 90% dân số, chất lượng giáo dục Việt Nam – 
ngay cả ở trình độ cơ bản – vẫn còn nhiều điều cần mong đợi”. Điều này cho thấy 
nguồn nhân lực sắp tới sẽ không đáp ứng được yêu cầu của tăng trưởng kinh tế và dự 
thảo Việt Nam sẽ phải sớm nhập khẩu lao động chuyên môn không phải là không có cơ 
sở. Một kịch bản nghịch lý rất có thể xảy ra là trong khi phải nhập khẩu lao động, tỷ lệ 
lao động không có công ă việc làm ổn định trong nước lại sẽ tăng. Sự chênh lệch giàu 
nghèo giữa thành thị và nông thôn sẽ ngày càn mở rộng và điều đó chắc chắn ảnh 
hưởng đến chất lượng của tăng trưởng và công bằng xã hội. Nền giáo dục nước ta đã có 
những bước phát triển chậm ở khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa vì thế ngay bây 
giờ, nếu không sẽ quá muộn, phải thực hiện một chương trình giáo dục và đào tạo phổ 
cập đến tối thiểu là hết cấp II cho khu vực nông nghiệp và nông thôn nhằm tạo điều 
kiện cho việc chuyển dịch suôn sẻ và lành mạnh sô đông lao động dư thừa từ nông thôn 
ra thành thị, nguồn nhân lực cần thiết cho sự phát triển ổn định lâu dài của khu vực 
công nghiệp và dịch vụ. Không có hệ thống giáo dục và đào tạo miễn phí có tính chất 
cưỡng bách, trẻ thơ vùng nông thôn sẽ bỏ học. Điều gì sẽ xảy ra với chúng sau 10, 20 
năm?
 Một hệ thống phúc lợi xã hội bao gồm bảo hiểm y tế, trợ cấp thất nghiệp và hưu 
bổng cũng cần được phủ sóng từ đo thị đến nông thôn. Trước đây , chúng ta không có 
khái niệm gắn liền với nghĩa vụ đóng thuế thu nhập cá nhân với quyền lợi được lĩnh 
hưu bổng khi về già. Đó là một trong nhiều lý do khiesn người dân né tránh đóng thuế 
thu nhập cá nhân và các nhà làm luật phải nâng mức lương chịu thuế lên cao cùng nhiều 
khoản chước giảm khác. Nhưng nếu nguyên tắc gắn nghĩa vụ thuế với quyền lợi được 
hưởng hưu bổng được áp dụng, không những doanh nhân, người lao động ở thành thị 
sẵn sàng nộp thuế thu nhập cá nhân ở mức chịu thuế thấp mà cả người nông dân ở nông 
thôn cũng sẽ tranh nhau thực hiện nghĩa vụ thuế. Trợ cấp thất nghiệp có thể là gánh 
nặng cho ngân sách nhưng sẽ trở thành động lực thúc đẩy việc thực thi các biện pháp 
tạo công ăn việc làm. Khi hệ thống phúc lợi đảm bảo công bằng xã hội được triển khai, 
cuộc sống của cộng đồng sẽ trở nên an toàn hơn, người dân sẽ có một cái nhìn lạc quan 
hơn về tương lai, điều này sẽ khuyến khích tiêu dùng hiện tại và là động lực cho tăng 
trưởng kinh tế trong lâu dài.
 Cải cách hành chính, cải cách giáo dục, cải cách hệ thống ngân hàng, cải cách 
khu vực kinh tế quốc doanh, cải cách thuế khóa, cải cách tiền lương công chức, 
caricasch tư pháp , xây dựng hệ thống phúc lợi xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, xây 
dựng khu công nghiệp, khu chế xuất đều là những chương trình cải cách, xây dựng 
mà đất nước đã tiến hành, gần như liên tục, trong nhiều năm nay. Thành tích của Việt 
Nam trong hơn thập niên qua chính là kết quả có được từ những chương trình cải cách 
đó. Tuy nhiên, đó là thời kỳ chúng ta tự chạy một mình, khi áp lực hội nhập thị trường 
thế giới còn có thể được che chắn bởi những rào cản thuế quan, bởi hạn ngạch và các 
chính bảo hộ công nghiệp nội địa. Chẳng hạn, dù cho chương trình cổ phần hóa có diễn 
ra chậm, nhiều doanh nghiệp Nhà nước làm ăn không hiệu quả vẫn tồn tại nhờ các 
chính sách ưu đãi và sự bao cấp hào phóng của Nhà nước và nhân dân. Sau hội nhập, sự bao cấp đó phải chấm dứt, không phải vì chúng ta không còn khả năng bao cấp, nhưng 
chúng ta chấm dứt bao cấp vì cả nền kinh tế của chúng ta phải cạnh tranh quyết liệt với 
nước ngoài để tồn tại và phát triển. Toàn thể cộng đồng dân tộc có trách nhiệm sử dụng 
tài nguyên, đồng vốn và cong người tốt hơn, hiệu quả tót hơn, tiết kiệm hơn. Việt Nam 
sau hội nhập cần phải cải cách mạnh mẽ hơn, nhanh hơn, với chất lượng cao hơn, 
hướng tới việc xây dựng một nền kinh tế có chi phí thấp, hiệu quả cao, năng suất cao và 
một môi trường sống xanh hơn, sạch hơn.
 Đó chính là cơ sở để thực hiện hóa câu nói của Ông Lý Quang Diệu: “Nếu có vị 
trí số một ở Đông Nam Á thì đó phải là Việt Nam. Bởi so sánh về địa chính trị, tài 
nguyên, con người, Việt Nam không thể xếp sau nước nào trong khu vực”. Và đó cũng 
chính là con đường duy nhất để Việt Nam vươn tầm thế giới. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nhiều tác giả: Kinh tế Việt Nam 30 đổi mới và phát triển – Trường Đại học Kinh tế - 
Luật Khoa. NXB Đại học Quốc Gia Tp. HCM 2015.
3. Giáo trình Triết học Mác-Lênin: Hội đồng lý luận Trung Ương. NXB Chính trị Quốc 
Gia Hà Nội 2008.
2. PGS.TS Nguyễn Chí Hải (Chủ biên): Tư tưởng kinh tế Việt Nam (1975 – 2010) .
4. PGS.TS Nguyễn Tấn Phát: Bài giảng môn Chính sách công.
5. PGS.TS NguyễnVăn Trình (Chủ biên): Lịch sử các học thuyết kinh tế - Trường Đại 
học Kinh tế - Luật Khoa. NXB Đại học Quốc Gia Tp. HCM.

File đính kèm:

  • dockinh_te_phat_trien_nang_cao_tu_cai_nhin_cua_ly_quang_dieu_ne.doc