Đề tài Học thuyết hình thái kinh tế - Xã hội và sự vận dụng của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước hiện nay
Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội là lý luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử do C.Mác xây dựng nên. Nó có vị trí quan trọng trong triết học Mác, đã được thừa nhận lý luận khoa học và là phương pháp luận cơ bản trong việc nghiên cứu lĩnh vực xã hội. Nhờ có lý luận hình thái kinh tế - xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, Mác đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong, nội tại của sự phát triển xã hội, chỉ rõ được bản chất của từng chế độ xã hội. Giúp chúng ta nghiên cứu một cách đúng đắn và khoa học sự vận hành của xã hội trong giai đoạn phát triển nhất định cũng như tiến trình vận động lịch sử chung của xã hội loài người.
Trong thực tiễn Việt Nam đang tiến hành công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở bám sát tư tưởng Mác- Lênin và đặc biệt là việc vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội vào công cuộc xây dựng đất nước, việc vạch ra những mối liên hệ hợp quy luật và đề ra các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện thành công công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam thành một đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh cũng là một nhiệm vụ thực tiễn đang đặt ra.
Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh, rất phức tạp, khó lường; đất nước đứng trước nhiều vấn đề mới, có cả những thuận lợi, thời cơ đan xen với những khó khăn, thách thức gay gắt. Cán bộ, đảng viên và nhân dân đặt nhiều kỳ vọng vào những quyết sách đúng đắn, mạnh mẽ, phù hợp của Đảng để phát huy thuận lợi, vượt qua mọi khó khăn, tiếp tục đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề tài Học thuyết hình thái kinh tế - Xã hội và sự vận dụng của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước hiện nay

1 Tiểu luận triết học PHẦN MỞ ĐẦU -------- I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội là lý luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử do C.Mác xây dựng nên. Nó có vị trí quan trọng trong triết học Mác, đã được thừa nhận lý luận khoa học và là phương pháp luận cơ bản trong việc nghiên cứu lĩnh vực xã hội. Nhờ có lý luận hình thái kinh tế - xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, Mác đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong, nội tại của sự phát triển xã hội, chỉ rõ được bản chất của từng chế độ xã hội. Giúp chúng ta nghiên cứu một cách đúng đắn và khoa học sự vận hành của xã hội trong giai đoạn phát triển nhất định cũng như tiến trình vận động lịch sử chung của xã hội loài người. Trong thực tiễn Việt Nam đang tiến hành công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở bám sát tư tưởng Mác- Lênin và đặc biệt là việc vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội vào công cuộc xây dựng đất nước, việc vạch ra những mối liên hệ hợp quy luật và đề ra các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện thành công công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam thành một đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh cũng là một nhiệm vụ thực tiễn đang đặt ra. Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh, rất phức tạp, khó lường; đất nước đứng trước nhiều vấn đề mới, có cả những thuận lợi, thời cơ đan xen với những khó khăn, thách thức gay gắt. Cán bộ, đảng viên và nhân dân đặt nhiều kỳ vọng vào những quyết sách đúng đắn, mạnh mẽ, phù hợp của Đảng để phát huy thuận lợi, vượt qua mọi khó khăn, tiếp tục đưa đất nước ta phát triển nhanh, bền vững. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1 2 Tiểu luận triết học Chính vì những lý do trên bản thân đề tài: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và sự vận dụng của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước hiện nay. Với thời gian và trình độ có hạn đề tài không tránh được những hạn chế, thiếu sót kính mong thầy thông cảm. II. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1. Mục đích: Hiểu rõ thêm về nội dung, những giá trị của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và việc vận dụng nó vào công cuộc xây dựng đất nước ta hiện nay. 2. Nhiệm vụ: Nêu rõ bản chất của hình thái kinh tế - xã hội, vận dụng hình thái kinh tế - xã hội vào công cuộc xây dựng đất nước là một tất yếu khách quan và thực tiễn xây dựng đất nước. 3. Phạm vi nghiên cứu: Nội dung và giá trị của hình thái kinh tế - xã hội và việc vận dụng nó vào nước ta hiện nay. III. CƠ SƠ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu lý luận, nghiên cứu thực tiễn quá trình phát triển của nước ta từ đó làm sáng tỏ việc vận dụng hình thái- kinh tế xã hội vào công cuộc xây dựng đất nước ta hiện nay. IV. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Qua quá trình xây dựng và phát triển đất nước đã đạt được những thành tựu nổi bậc, nhưng vẫn còn những mặt tồn tại, hạn chế nhất định. Thông qua tổng kết thực tiễn để đánh giá những thành tựu, hạn chế đó để rút ra những bày học kinh nghiệm giúp cho việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế của đất nước ngăn hạn, dài hạn trong những năm tiếp theo. V. KẾT CẤU TIỂU LUẬN Nội dung chính của tiểu luận gồm 3 chương: Chương I: Khái quát về cơ sở lý luận hình thái kinh tế - xã hội. Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1 3 Tiểu luận triết học Chương II: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và sự vận dụng của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước hiện nay. Chương III: Ý nghĩa khoa học, bài học lịch sử, ý nghĩa thực tiễn của tiểu luận. PHẦN NỘI DUNG -------- CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ CƠ SỞ LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI 1. Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và với một kiến trúc thượng tầng được xây dựng lên trên những quan hệ sản xuất đó. 2. Quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội Nguồn gốc của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là bắt đầu từ sự thay đổi của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất thay đổi đến một giới hạn nào đó thì nó sẽ phá bỏ và thiết lập quan hệ sản xuất. Rồi kiến trúc thượng tầng mới hình thành dựa trên quan hệ sản xuất mới. Như vậy sự tác động giữa các yếu tố trong cấu trúc của hình thái kinh tế - xã hội đã tạo thành những quy luật tất yếu khách quan của xã hội. Xã hội vận động từ thấp đến cao, từ cộng sản nguyên thủy sang chiếm hữu nô lệ, đến phong kiến, tư sản rồi chủ nghĩa xã hội đều tuân theo quy luật trên. Sự phát triến ấy không nhất thiết là tuần tự mà có thể có sự nhảy vọt, bỏ qua một hay một vài hình thái kinh tế - xã hội. Chính vì thế Mác đã khẳng định sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên. Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1 4 Tiểu luận triết học 3. Giá trị khoa học của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Học thuyết chỉ rõ sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội. Do vậy không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng thuần túy để giải thích các hiện tượng xã hội mà phải xuất phát từ phương thức sản xuất vật chất. Để nhận thức đúng xã hội, phải tìm hiểu quy luật phát triển của xã hội, không được tùy tiện, chủ quan. Bởi lẽ học thuyết hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra rằng: sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Việc vận dụng sáng tạo học thuyết này vào công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội đối với Việt Nam là chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. 4. Quan niệm duy vật về lịch sử học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Trước khi có chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa duy tâm đã giữ vị trí thống trị trong việc giải thích lịch sử. Không những các nhà triết học duy tâm mà ngay cả những nhà tư tưởng tiên tiến trước Mác cũng đứng trên lập trường duy tâm để giải thích các hiện tượng lịch sử xã hội. Người ta xuất phát từ một sự thật là trong giới tự nhiên, thì lực lượng tự nhiên hoạt động tự động, không có ý thức; còn trong xã hội hoạt động của con người có lý tính, có ý thức và ý trí. Căn cứ vào sự thật ấy người ta đi đến kết luận sai lầm rằng: Trong giới tự nhiên, thì tính quy luật, tính tất nhiên thống trị, sự thay đổi của ngày đêm, sự thay đổi của bốn mùa, sự biến hóa của khí hậu và những hiện tượng không phụ thuộc vào ý và chí và ý thức của người ta, còn những sự kiện lịch sử thì do hoạt động tự giác và ý chí của người ta, trước hết là của những nhân vật lịch sử, những lãnh tụ, anh hùng quyết định; ý chí của người ta có thể thay đổi tiến trình lịch sử. Chính vì vậy đáng lẽ phải lấy sự phát triển của các điều kiện vật chất của xã hội để giải thích lịch sự, động lực lịch sử, bản chất của con người; giải thích tự nhiên xã hội, quân điểm chính trị, chế độ chính trị... người ta lại đi từ ý thức con Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1 5 Tiểu luận triết học người, từ những tư tưởng lý luận về chính trị, về triết học, pháp luật... để giải thích toàn bộ lịch sử xã hội. Nguyên nhân giải thích của sự duy tâm về lịch sử chính là ở chỗ các nhà triết học trước kia đã coi ý thức xã hội để ra và quyết dịnh tồn tại xã hội. Quan điểm này có những thiếu sót căn bản như sau: Không vạch ra được bản chất của các hiện tượng xã hội, nguyên nhân vật chất của những hiện tượng ấy. Không tìm ra những quy luật phổ biến chi phối sự vận động và phát triển của xã hội. Không thấy vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Khác với các nhà triết học trước đây, khi nghiên cứu xã hội C.Mác đã lấy con người làm xuất phát điểm cho học thuyết của mình. Con người mà Mác nghiên cứu không phải con người trừu tượng, con người biệt lập, cố định mà là con người hiện thực đang sống và hoạt động, trước hết là hoạt động sản xuất, tái sản xuất ra đời sống hiện thực của mình. Đó là con người cụ thể, con người của tự nhiên và xã hội. Bắt đầu từ việc nghiên cứu con người trong đời sống xã hội, Ông nhận thấy “... con người cần phải ăn, uống, ở và mặc, trước khi có thể lo đến việc làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo...” Muốn vậy con người phải sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu của chính mình. Sản xuất vật chất là một điều kiện cơ bản của mọi xã hội, là hành động lịch sử mà hiện nay cũng như hàng trăm năm trước đây người ta vẫn phải tiến hành từng ngày, từng giờ cốt để duy trì cuộc sống của con người. Tuy nhiên sản xuất của cải vật chất chí là yếu tố nền tảng của hoạt động sản xuất của con người, để tồn tại và phát triển con người không ngừng hoạt động để sản xuất, tái sản xuất ra: bản chất con người, các quan hệ xã hội và năng lực tinh thần, trí tuệ. C.Mác chỉ rõ, trên cơ sở vật chất sản xuất vật chất, trên cơ sở tồn tại xã hội, con người đã sản sinh ra ý thức như đạo đức, tôn giáo, hệ tư tưởng cũng như hình thái ý thức khác. Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1 6 Tiểu luận triết học C.Mác và Ăng-ghen đã nghiên cứu bản chất, gốc rễ của vấn đề, đồng thời không hạ thấp vai trò của cá nhân trong lịch sử, không xem thường vai trò, tác dụng của ý thức, ý trí, động cơ thúc đẩy họ. Nhưng các ông cũng lưu ý rằng bản thân ý thức chúng không phải là nhưng nguyên nhân xuất phát, mà là những nguyên nhân phát sinh của quá trình lịch sử, bản thân chúng cuối cùng cũng cần được giải thích từ những điều kiện vật chất của đời sống. Xã hội loài người là một hệ thống phức tạp về bản chất và cấu trúc. Việc nghiên cứu vạch ra những quy luật chung nhất của toàn bộ xã hội chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở một hệ thống những phạm trù cho triết học duy vật về lịch sử vạch ra để giải thích xã hội: tình thái kinh tế-xã hội sản xuất vật chất và quan hệ sản xuất cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giai cấp và quan hệ giai cấp, dân tộc và quan hệ dân tộc, cách màng xã hội, nhà nước và pháp luật, hình thái ý thức xã hội,văn hoá, cá nhân và xã hội... Như vậy, chủ nghĩa duy vật về lịch sử là lý luậnvà phương pháp dễ nhận thức xã hội. Nó vừa cung cấp trí thức, vừa cung cấp phương pháp hoạt động nhằm tìm kiếm tri thức mới cho các khoa học xã hội cụ thể. Nó giúp chúng ta xác định đúng vị trí của mỗi hiện tượng xã hội, xuất phát từ cách giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trong lĩnh vực xã hội, thấy được sự tác động biện chứng giữa tính quy luật và tính ngẫu nhiên trong lịch sử, giữa nhân tố khách quan nhân tố chủ quan, giữa hiện tượng kinh tế và hiện tượng chính trị... Nó đem lại quan hệ về sự thống nhất trong toàn bộ tính đa dạng phong phú của đời sống xã hội. Việc áp dụng triệt để chủ nghĩa duy vật biện chứng vào việc xem xét các hiện tượng xã hội, theo Lê Nin đã khắc phục được những khuyết điểm căn bản của các lý luận lịch sử trước đây. Cũng từ đây mọi hiện tượng xã hội, cũng như bản thân phát triển của xã hội loài người được nghiên cứu trên một cơ sở lý luận khoa học. Thực chất của quan niệm duy vật lịch sử có thể tóm tắt như sau: Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1 7 Tiểu luận triết học Tồn tại một xã hội quyết định ý thức xã hội, phương thức sản xuất vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Trong sản xuất con người có những quan hệ nhất định gọi là quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Các lực lượng sản xuất phát triển đến một mức độ nhất định sẽ mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất đã có. Từ chỗ là hình thức phát triển lực lượng sản xuất, các ấy lại kìm hãm sự phát triển của chúng khi đó sẽ xảy ra cách mạng xã hội thay thế xã hội này bằng một xã hội khác. Toàn bộ quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội hay cơ sở hạ tầng trên đó xây dựng một kiến trúc thượng tầng khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi ít nhiều nhanh chóng. Sự phát triển của xã hội là sự thay thế hình thái kinh tế-xã hội thấp bằng hình thái kinh tế - xã hội cao hơn. Trong những kết luận trên cần nhấn mạnh thêm rằng ý thức xã hội, kiến trúc thượng tầng thuộc vào xã hội, vào cơ sở hạ tầng song chúng có tính độc lập tương đối và có tác động trở lại đối với tồn tại xã hội và cơ sở hạ tầng. Trong quan niệm duy vật về lịch sử thì học thuyết về hình thái kinh tế-xã hội có một vị trí đặc biệt. Nó chỉ ra con đường phát triển có tính quy luật của xã hội loài người. Sự phát triển của xã hội loài người; là sự thay thế những hình thái kinh tế xã hội cao hơn. Sự phát triển ấy không phải diễn ra một cách tuỳ tiện mà diễn ra theo các quy luật kháh quan, theo con đường lịch sử tự nhiên. 5. Quan điểm của C.Mác, Ăngghen, Lênin về vấn đề bỏ qua tư bản chủ nghĩa đi lên xã hội chủ nghĩa Sau khi xây dựng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác đã vận dụng học thuyết ấy vào phân tích xã hội tư bản, vạch ra các quy luật vận động, phát triển của xã hội và đi đến dự báo về sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, hình thái cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Ông đã từng khẳng Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1 8 Tiểu luận triết học định: “Chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực nhằm thủ tiêu trạng thái hiện tồn”. Theo Ăngghen các nước lạc hậu, tiền tư bản chủ nghĩa đều có thể đi lên chủ nghĩa xã bằng những con đường phát triển bỏ qua tư bản chủ nghĩa. Muốn làm được điều đó thì cách mạng vô sản phải thành công, nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đã tiến hành cách mạng giành được chính quyền từ tay giai cấp thống trị và các nước đó đã giành được sự giúp đỡ từ các nước phương Tây. Quan điểm này đã được trình bày rõ trong tác phẩm: “Bàn về xã hội ở Nga”. Hơn thế nữa, lý luận của chủ nghĩa Mác về hình thái kinh tế - xã hội đã khẳng định: các quốc gia, dân tộc có thể phát triển tuần tự theo những bước quá độ của các hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau từ cộng sản nguyên thủy đến cộng sản chủ nghĩa, song căn cứ vào điều kiện lịch sự cụ thể mà các quốc gia có thể bỏ qua một hay một vài hình thái kinh tế - xã hội. Còn theo Lênin có 2 hình thức quá độ: quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp. Lê- nin cho rằng những nước mà chủ nghĩa tư bản đã phát triển thì có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng quá độ trực tiếp. Ngược lại những nước lạc hậu có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng quá độ gián tiếp. Thực chất đó là sự bỏ qua tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa. CHƯƠNG II: HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI, XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY 1. Việc lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử Nước ta là nước lạc hậu về kinh tế lại bị đế quốc thực dân thống trị một thời gian dài, cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo và lạc hậu. Đảng ta khẳng định sau khi Việt Nam tiến hành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản sự lựa chọn trên 2 căn cứ sau đây. Một là chỉ có CNXH mới giải phóng được nhân dân lao động thoát khỏi áp bức, bóc lột bất công đem lại cuộc sống ấm lo hạnh phúc cho nhân dân. Hai là thắng lợi của cuộc cách mạng thắng lợi Nga năm 1971 đã mở ra một thời đại mới, tạo khả năng thực hiện cho các Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1 9 Tiểu luận triết học dân tộc lạc hậu tiến lên con đường CNXH. Sự lựa chọn ấy không mâu thuẫn với quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của XHCN, không mâu thuẫn với hình thái kinh tế xã hội củ chủ nghĩa Mác Lê-nin. Trong điều kiện cụ thể sự lựa chọn ấy chính là sự lựa chọn con đường rút ngắn bỏ qua chế độ TBCN. Con đường đi lên CNXH cho phép chúng ta có thể phát triển nhanh lực lượng sản xuất theo hướng ngày càng hiện đại, giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội phát triển xã hội theo chiều hướng tiến bộ vừa có thể tránh cho xã hội và nhân dân lao động phải trả giá cho các vấn đề của xã hội tư bản mà trước hết là chế độ người bóc lột người, là quan hệ bất bình đẳng người với người, từ tất cả những lí do trên, nước ta đã lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện hết sức khó khăn, thử thách. Dân số trên 80% sống bằng nông nghiệp, cơ sở vật chất kinh tế của chủ nghĩa xã hội hầu như không có. Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Viêc Đảng ta luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với quy luật tiến hóa của lịch sử, xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của đất nước. Xã hội mà nhân dân ta quyết tâm xây dựng là một xã hội của dân, do dân, vì dân, có một nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất tiến bộ và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải phóng, hưởng cuộc sống hạnh phúc, phát triển về mọi mặt, các dân tộc anh em chung sống hòa bình, đoàn kết và hợp tác, hữu nghị với nhân dân các nước trên thế giới. Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nghĩa là bỏ qua quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng của tư bản chủ nghĩa nhưng tiếp thu những thành tựu đạt được dưới chế độ tư bản, nhất là khoa học công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất và nền kinh tế hiện đại. 2. Thực tiễn cách mạng Việt Nam Sau khi đất nước thống nhất cả nước đã quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, trong quá trình thực hiện công cuộc xây đựng chủ nghĩa xã hội. Đảng ta luôn vận lý Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1 10 Tiểu luận triết học luận của chủ nghĩa mác Lênin, trong đó có lý luận hình thái kinh tế - xã hội vào việc đề các chủ trương phát triển đất nước, tuy nhiên do chủ quan duy ý trí còn có quan niệm ấu trĩ về chủ nghĩa xã hội . Lực lượng sản xuất yếu tố đảm bảo tinh tế thừa trong sự phát triển tiến lên của xã hội, quy định khuynh hướng phát triển từ thấp đến cao. Phương thức sản xuất- quan hệ sản xuất biểu hiện tính gián đoạn trong sản xuất. Những quan hệ sản xuất lỗi thời được xoá bỏ và thay thế bằng những kiểu quan hệ sản xuất mới cao hơn và hình thái kinh tế xã hội mới cao hơn ra đời. Như vậy sự xuất hiện, phát triển của hình thái kinh tế xã hội, sự chuyển biến từ hình thái này sang hình thái khác cao hơn được giải thích trước hết bằng sự tác động của qui luật trên. Đó là khuynh hướng tự tìm đường cho mình phát triển và thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội. 4. Nhiệm vụ trong thời kì quá độ Hiện nay nước ta vẫn đang ở trong giai đoạn quá độ lên xã hội chủ nghĩa. Do vậy điều kiện và hoàn cảnh đó đã đặt ra cho chúng ta những nhiệm vụ hết sức khó khăn: - Thứ nhất, một nhiệm vụ chiến lược và lâu dài của đất nước là xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình xây dựng xã hội ở nước ta “Đảng và nha nước chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Hiện nay, tất cả các nước đều phải xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường. Nhưng trong mỗi chế độ khác nhau thì nền kinh tế thị trường được sử dụng với những mục đích khác nhau. Ở các nước chủ nghĩa tư bản, đó là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Còn ở nước ta, đó là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu thế phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta, với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tê độc lập, Nguyễn Thanh Mộng- Lớp sau đại học TCNH K1
File đính kèm:
de_tai_hoc_thuyet_hinh_thai_kinh_te_xa_hoi_va_su_van_dung_cu.doc