Tiểu luận Xây dựng con người trong thời đại mới
1.1. Triết học cổ đại coi con người là một thực thể vũ trụ thu nhỏ, con
người có số phận bị quy định bởi ý chí tạo hoá:
Triết học duy tâm tuyệt đối hoá đời sống tinh thần của cọn người chia cắt
toàn bộ hoạt động tinh thần con người ra khỏi quá trình tâm sinh học của nó, tiêu
biểu là triết học Hêghen. Hêghen coi con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối,
ông đã có công phát hiện ra một quy luật của đời sống tinh thần cá nhân (là sự
phát triển của đời sống tinh thần cá nhân cần thiết và tất yếu phải lặp lại trong
quá trình hình thái rút ngắn và cô đọng những trình độ cơ bản mà đời sống tinh
thần xã hội đã trải qua) vạch ra cơ chế của đời sống tinh thần.
Phơ Bách nhà triết học duy vật siêu hình tiêu biểu phê phán Hêghen đã
giai thích duy tâm siêu nhiên về bản chất con người. Theo Phơ Bách vấn đề quan
hệ giữa tư duy và tồn tại là vấn đề bản chất con người, ông coi con người là một
sinh vật hữu tính (có cảm giác, biết tư duy, có ham muốn, ước vọng.) con người
là một bộ phận của giới tự nhiên, mà xét theo bản chất của nó là tình yêu thương
(kiểu mẫu là tình yêu nam nữ). Tuy nhiên Phơ Bách đã mắc phải hạn chế lớn là
ông đã chia cắt con người ra khỏi các quan hệ xã hội hiện thực của nó.
1.2. Quan điểm của triết học Mác-lê-nin về bản chất con người:
* Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội:
Trước hết con người chỉ tồn tại, phát triển khi thoả mãn các nhu cầu thiết
yếu về sinh học. Các yếu tố để thoả mãn nhu cầu đó chỉ có được thông qua hoạt
động lao động - hoạt động vật chất xã hội cơ bản của con người, chính lao động
là yếu tố trực tiếp hình thành nên tất cả các quan hệ hiện thực của đời sống con
người.
Sự thống nhất ấy được biểu hiện bằng ba mặt của đời sống hiện thực là
đời sống sinh vật, đời sống tinh thần (tâm lý) và đời sống xã hội, do ba loại mốiquan hệ trên (tự nhiên - ý thức - xã hội) ba hệ thống quy luật: (quy luật sinh học,
quy luật tâm lý, quy luật xã hội) tạo thành.
+ Về mặt sinh vật: Con người có nguồn gốc từ giới tự nhiên, con người là
sản phẩm của tiến hoá lâu dài từ giới tự nhiên. Do đó con người có mối quan hệ
sống còn với giới tự nhiên, con người sinh thành phải tuân theo những quy luật
phổ biến của tự nhiên như: các quy luật trao đổi chất, quy luật biến dị duy truyền,
quy luật tái sản xuất giống nòi, quy luật tiến hoá, quy luật sinh, lão, bệnh, tử.
+ Về mặt đời sống tự nhiên: Thể hiện ra bên ngoài qua các nhu cầu ăn,
mặc, ở, nhu cầu sản xuất, tái sản xuất, nhu cầu tình cảm.Mối liên hệ với tự
nhiên và hệ thống các quy luật tự nhiên trực tiếp hình thành nên bản chất sinh vật
của con người, làm nền tảng vật chất cho đời sống tâm lí và đời sống xã hội.
+ Về mặt đời sống tinh thần, tâm lý: Trên nền tảng sinh vật, hệ thống các
quy luật tâm lý (tình cảm, tư tưởng, khát vọng, niềm tin, lý tưởng, ý chí,.) tạo
nên mặt đời sống tinh thần của con người.
+ Về mằt đời sống xã hội: Con người vừa là sản phẩm của các quan hệ với
tự nhiên, lại vừa là sản phẩm của các quan hệ xã hội. Các quy luật xã hội, quy
luật sản xuất, quy luật quan hệ cơ sở hạ tầng - kiến trúc thượng tầng, quy luật tồn
tại xã hội quyết định ý thức xã hội trực tiếp tác động hình thành nên đời sống xã
hội của con người, vừa tác động chi phối đến các quan hệ tự nhiên, quan hệ tâm
lý của con người.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Xây dựng con người trong thời đại mới
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ĐỀ TÀI: “XÂY DỰNG CON NGƯỜI TRONG THỜI ĐẠI MỚI” Giảng viên hướng dẫn : TS. Võ Minh Tuấn Sinh viên thực hiện : Mai Thoại Nhung Lớp : ĐH 21/6 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THÁNG 3 NĂM 2006 LỜI MỞ ĐẦU Trong thực tế, những năm gần đây từ khi đất nước ta tiến hành sự nghiệp đổi mới cũng là thời kỳ đặt ra rất nhiều vấn đề bức xúc có liên quan đến con người và việc hình thành con người mới. Trước hết cần công nhận rằng nhờ có đổi mới đất nước ta đã có những bước phát triển nhanh chóng, đời sống kinh tế cũng như nhiều mặt khác của đời sống văn hoá xã hội được cải thiện một cách rõ rệt. Nhưng bên cạnh đó, trong quá trình đổi mới lại phát sinh không ít tiêu cực và vấn đề nổi cộm nhất là tình trạng xuống cấp về đạo đức và lối sống, khiến cho nhiều người không những không phát triển theo hướng con người mới xã hội chủ nghĩa mà còn có nguy cơ suy thoái về nhân cách, lệch lạc về tư tưởng. Sự xuất hiện hệ thống các thước đo về cái lợi đã làm thay đổi và chuyển dịch, có khi đảo lộn những giá trị mà các mô thức văn hoá trước đây đã sắp xếp. Thực tế cho thấy đã có không ít người trong xã hội chạy theo lối sống thực dụng chỉ biết đến hiện tại mà quên quá khứ lấy "hưởng thụ tối đa, cống hiến tối thiểu" làm phương châm sống. Điều này phản ánh đúng lời của C.Mac từ hơn 150 năm trước về nguy cơ thoái hoá của con người trong nền kinh tế hàng hoá, Ông nhắc nhở chúng ta rằng, trong quá trình phát triển nền kinh tế, cần phải gắn "sự nghiệp giải phóng con người" với cuộc đấu tranh chống lại cái thực tiễn cực đoan của sự thoái hoá của con người. Chỉ có như vậy, chúng ta mới không bị thoái hoá bởi những mặt trái của cơ chế thị trường, mới tránh được nguy cơ đi chệch định hướng XHCN trong quá trình phát triển. Phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Vì thế vấn đề xây dựng con người mới đã và đang là vấn đề cấp bách trong thời đại mới này và đây cũng là vấn đề được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Đó chính là lí do em chọn đề tài này. Chương 1 TỔNG QUAN LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN BẢN CHẤT CON NGƯỜI 1.1. Triết học cổ đại coi con người là một thực thể vũ trụ thu nhỏ, con người có số phận bị quy định bởi ý chí tạo hoá: Triết học duy tâm tuyệt đối hoá đời sống tinh thần của cọn người chia cắt toàn bộ hoạt động tinh thần con người ra khỏi quá trình tâm sinh học của nó, tiêu biểu là triết học Hêghen. Hêghen coi con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối, ông đã có công phát hiện ra một quy luật của đời sống tinh thần cá nhân (là sự phát triển của đời sống tinh thần cá nhân cần thiết và tất yếu phải lặp lại trong quá trình hình thái rút ngắn và cô đọng những trình độ cơ bản mà đời sống tinh thần xã hội đã trải qua) vạch ra cơ chế của đời sống tinh thần. Phơ Bách nhà triết học duy vật siêu hình tiêu biểu phê phán Hêghen đã giai thích duy tâm siêu nhiên về bản chất con người. Theo Phơ Bách vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại là vấn đề bản chất con người, ông coi con người là một sinh vật hữu tính (có cảm giác, biết tư duy, có ham muốn, ước vọng...) con người là một bộ phận của giới tự nhiên, mà xét theo bản chất của nó là tình yêu thương (kiểu mẫu là tình yêu nam nữ). Tuy nhiên Phơ Bách đã mắc phải hạn chế lớn là ông đã chia cắt con người ra khỏi các quan hệ xã hội hiện thực của nó. 1.2. Quan điểm của triết học Mác-lê-nin về bản chất con người: * Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội: Trước hết con người chỉ tồn tại, phát triển khi thoả mãn các nhu cầu thiết yếu về sinh học. Các yếu tố để thoả mãn nhu cầu đó chỉ có được thông qua hoạt động lao động - hoạt động vật chất xã hội cơ bản của con người, chính lao động là yếu tố trực tiếp hình thành nên tất cả các quan hệ hiện thực của đời sống con người. Sự thống nhất ấy được biểu hiện bằng ba mặt của đời sống hiện thực là đời sống sinh vật, đời sống tinh thần (tâm lý) và đời sống xã hội, do ba loại mối quan hệ trên (tự nhiên - ý thức - xã hội) ba hệ thống quy luật: (quy luật sinh học, quy luật tâm lý, quy luật xã hội) tạo thành. + Về mặt sinh vật: Con người có nguồn gốc từ giới tự nhiên, con người là sản phẩm của tiến hoá lâu dài từ giới tự nhiên. Do đó con người có mối quan hệ sống còn với giới tự nhiên, con người sinh thành phải tuân theo những quy luật phổ biến của tự nhiên như: các quy luật trao đổi chất, quy luật biến dị duy truyền, quy luật tái sản xuất giống nòi, quy luật tiến hoá, quy luật sinh, lão, bệnh, tử... + Về mặt đời sống tự nhiên: Thể hiện ra bên ngoài qua các nhu cầu ăn, mặc, ở, nhu cầu sản xuất, tái sản xuất, nhu cầu tình cảm...Mối liên hệ với tự nhiên và hệ thống các quy luật tự nhiên trực tiếp hình thành nên bản chất sinh vật của con người, làm nền tảng vật chất cho đời sống tâm lí và đời sống xã hội. + Về mặt đời sống tinh thần, tâm lý: Trên nền tảng sinh vật, hệ thống các quy luật tâm lý (tình cảm, tư tưởng, khát vọng, niềm tin, lý tưởng, ý chí,...) tạo nên mặt đời sống tinh thần của con người. + Về mằt đời sống xã hội: Con người vừa là sản phẩm của các quan hệ với tự nhiên, lại vừa là sản phẩm của các quan hệ xã hội. Các quy luật xã hội, quy luật sản xuất, quy luật quan hệ cơ sở hạ tầng - kiến trúc thượng tầng, quy luật tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội trực tiếp tác động hình thành nên đời sống xã hội của con người, vừa tác động chi phối đến các quan hệ tự nhiên, quan hệ tâm lý của con người. * Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử: Con người là sản phâm của quá trình phát triển, tiến hoá về cả ba mặt: sinh học, tâm lý và xã hội, ở mỗi thời đại lịch sử cụ thể, do đó bản chất con người mang tính lịch sử cụ thể.Chính trong sự hình thành của mình, bản chất con người vừa là sản phẩm của cả ba mối quan hệ, ba mặt tác động (tự nhiên - tâm lý - xã hội) đồng thời con người vừa là chủ thể trong các quan hệ đó, vừa là sáng tạo và hoàn thiện không ngừng các quan hệ đó. Sáng tạo về văn hoá, tinh thần, sáng tạo xã hội và chính bản thân con người. Con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh bởi vì không có thế giới tự nhiên, mà ngược lại dựa vào giới tự nhiên, thông qua hoạt động thực tiễn, tác động vào giới tự nhiên, cải tạo giới tự nhiên để phục vụ cho hoạt động sống của con người.Trong quá trình cải tạo tự nhiên, cụ thể là hoạt động lao động sản xuất con người lấy đó làm cơ sở tồn tại đồng thời thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, không có hoạt động của con người thì cũng không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội của loài người. 1.3. Kết luận: Bản chất con người là tổng hoà của các quan hệ xã hội, về đời sống sinh học và tâm lý của nó trong những giai đoạn phát triển lịch sử cụ thể, là một chủ thể sáng tạo, là quá trình không ngừng hoàn thiện. Do đó muốn thay đổi bản chất con người phải thay đổi các quan hệ hiện thực của nó mà cơ bản là các quan hệ xã hội con người đang sống. Muốn xây dựng môt xã hội tiến bộ vì con người thì phải xoá bỏ tất cả các quan hệ làm tha hoá con người, phải giải phóng con người khỏi mọi sự tha hoá, trả lại vị trí làm chủ và sáng tạo cho con người, là mục đích cao cả về con người của học thuyết Mác-lê-nin. Chương 2 THỰC TIỄN VẬN DỤNG LÝ LUẬN BẢN CHẤT CON NGƯỜI TRONG CHIẾN LƯỢC CON NGƯỜI CỦA ĐẢNG TA TRONG THỜI ĐẠI MỚI 2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất con người mới: 2.1.1. Bản chất con người mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh: Nhận thức được vai trò to lớn của con người, đặc biệc trong thời kỳ đổi mới đang quá độ lên CNXH hiện nay, Hồ Chí Minh nhận xét: muốn xây dựng CNXH trước hết cần có con người CNXH. Mà con người CNXH phát triển toàn diện chính là con người có tinh thần làm chủ xã hội, có trí thức văn hoá và khoa học, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, phải nghiêm khắc chống chủ nghĩa cá nhân. Con người mới được đặt ra là một mục tiêu cơ bản, đồng thời là động lực của sự nghiệp cách mạng của nhân ta ngày nay, được xây dựng cùng với xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Đó là "con người Việt Nam toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hện hài hoà trong quan hệ gia đình, cộng đồng, xã hội". Tổng hợp lại đó là những phẩm chất nhân cánh về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, trí tuệ, tài năng thể hiện sức mạnh nội lực của con người Việt Nam ngày nay phải có trong hành động để giành thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc. Đó là con ngươì sống có lý tưởng cao đẹp và có năng lực hoạt động biến lý tưởng thành hiện thực.Có những phẩm chất nhân cách đó, con người chúng ta vẫn vững vàng, tự chủ thực hiện thành công nhiệm vụ trung tâm công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước theo định hướng XHCN mà không bị tác động bởi mặt trái của nền kinh tế thị trường và không bị biến chất bởi kẻ thù thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình (tr 255, 256, xây dựng con người mới phù hợp với sự phát triển của đất nước và thời đại, PGS.Hồ Kiêm Việt, Nxb.CTQG). 2.1.2. Phương pháp xây dựng con người mới: Để phát triển những phẩm chất nhân cách đó, trong toàn xã hội phải kết hợp giáo dục hệ tư tưởng (chủ nghĩa Mác-lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng) với giáo dục lòng tự hào dân tộc và các truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất, tự lực, tự cường, nhân nghĩa và thông minh sáng tạo, đồng thời động viên toàn dân vươn tới tiếp cận những đỉnh cao văn minh nhân loại, tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ, những giá trị văn hoá nghệ thuật tiên tiến trên thế giới. Đảng viên là hạt nhân trong đội ngũ cán bộ của bộ máy Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội. Quan điểm "Đảng viên đi trước, làng nước theo sau" không bao giờ lỗi thời, giờ đây đang cần toàn đảng nghiêm chỉnh thực hiện để khôi phục lại lòng tin của quần chúng, khắc phục hiện tượng dân chỉ tin đảng nói chung, không còn nguyên vẹn niềm tin đối với những đảng viên cụ thể. Giải pháp nêu gương trong xây dựng con người không phát huy được hiệu quả, cũng như trong sự nghiệp cách mạng, ở chiến lược xây dựng con người, xây dựng đảng luôn luôn giữ vai trò then chốt. (tr 265, 266, Hồ Kiếm Việt). Bên cạnh công tác giáo dục, quản lý cán bộ, đảng viên thì tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đề cập đến vấn đề cấp bách là phải giáo dục tư tưởng cho thanh niên học sinh, sinh viên, đặc biệt là về chính trị. Đối với họ, chính trị đứng ngoài cuộc sống hằng ngày, đó là công việc của chính khách, của các lãnh tụ, của các nhà ngoại giao, của các tổ chức chính trị, các đảng phái, sự tham gia chính trị vào công việc của họ chỉ làm rắc rối thêm các mối quan hệ. Tóm lại, những luận điểm trong tư t ... .. 2.3.2. Thực trạng đạo đức của cán bộ, Đảng viên và thanh niên Việt Nam hiện nay: Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà nước ta đang tiến hành hiện nay đang tồn tại song song hai vấn đề về lối sống đạo đức của con người mà tiêu biểu là đội ngũ cán bộ, Đảng viên - những người chủ trì của đất nước, đó là hai mặt tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực được thể hiện ở chỗ vẫn có nhiều người vẫn duy trỳ và phát huy được phẩm chất đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp, sống và làm việc theo lý tưởng của Đảng, có lối sống văn minh, ý chí phấn đấu xây dựng nước nhà giàu mạnh và chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Bên cạnh đó tồn tại mặt trái là lối sống tiêu cực về đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên mà hội nghị Trung ương lần thứ sáu đã nhận định: "Tình trạng cán bộ thoái hoá, biến chất chưa được ngăn chặn và đẩy lùi. Trong đội ngũ cán bộ vẫn tồn tại tình trạng trì truệ, thiếu trách nhiệm và tính chiến đấu chưa cao". Biểu hiện của tình trạng thoái hoá khá phức tạp và đa dạng như bệnh chuyên quyền độ đoán, không tôn trọng dân chủ, bệnh quan liêu xa rời thực tiễn, xa rời nhân dân, bệnh xu nịnh và tâm lý cầu an hưởng lạc, không giám đấu tranh bảo vệ cái đúng, chống cái sai, chống chủ nghĩa cá nhân, thực dụng; chủ nghĩa địa phương hẹp hòi; lối sống xa hoa, đua đòi, thậm chí mê tín, dị đoan...Không chỉ có vậy mà còn có: ''biểu hiện của tư tưởng sùng ngoại, tôn sùng Chủ Nghĩa Tư Bản, chạy theo lối sống của xã hội tiêu thụ, tuyệt đối hoá giá trị vật chất, tiền bạc ''văn hoá'' lai căng, tự ti dân tộc, thậm chí phai nhạt ý thức giai cấp, niềm tin và lý tưởng cộng sản...đã xuất hiện một cách báo động". Trong tất cả những vấn nạn đó phải đặc biệt quan tâm đến nạn tham nhũng, có thể coi tham nhũng đang là quốc nạn, là vấn đề chính trị ở nước ta. Trên đây là một số tồn đọng đang nổi cộm trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên - những người chủ trì trong công cuộc xây dựng đất nước ta trong thời kỳ hiện nay, và một lực lượng cũng cần nhắc đến đó là giới trẻ, lớp thanh niên - những người chủ tương lai của đất nước. Bên cạnh những thanh niên thông minh, sáng tạo và nghị lực, biết tận dụng mọi cơ hội, mọi khả năng để vượt qua những thử thách của cuộc sống xứng đáng là người chủ tương lai của đất nước, thì vẫn tồn tại không ít lớp thanh niên có thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm, bi quan, chán nản, trông chờ ỷ lại hay có những hành động mang tính cực đoan, chạy theo lợi ích cá nhân, cơ hội, vụ lợi, chạy theo cái xấu, đua đòi, giả dối,...Thậm trí trong lối sống thanh niên hiện nay đang tồn tại lối sống văn hoá thứ cấp: nhu cầu, thị hiếu, năng lực, văn hoá của thanh niên chưa định hình, đang có những biến đổi, biến động sâu sắc, phong phú và phức tạp. Thể chất bao gồm những yếu tố cơ bản như hình dáng, tầm vóc, chiều cao, trọng lượng...Đây là những tiêu chuẩn quan trọng đầu tiên phải có của người cán bộ. Tại đại hội lần thứ VIII, Đảng ta đã khẳng định: "Sự cường tráng về thể chất là nhu cầu của bản thân con người, đồng thời là vốn quý để tạo ra tài sản trí tuệ và vật chất cho xã hội" (văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.CTQG Hà Nội, 1996, tr 30). Một tiêu chí quan trọng khác không thể thiếu của người cán bộ trong sự nghiệp đổi mới đất nước là phải có phẩm chất tốt; đạo đức trong sáng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng: đạo đức cách mạng là cái gốc rất quan trọng, rằng: "Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài năng cũng vô dụng" (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11, Nxb.CTQG Hà Nội, 2000, tr 329). Công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước trên mọi lĩnh vực là một sự nghiệp cách mạng, do vậy không thể không cần đến những con người vừa có sức khoẻ, vừa có đạo đức và tài năng. Phát triển mặt đạo đức của người cán bộ trong sự nghiệp đổi mới là phát huy tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, ý thức tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung, là xây dựng lối sống lành mạnh, văn minh "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư", là phát huy truyền thống nhân - nghĩa của dân tộc.Yêu cầu này là đặc biệt quan trọng đối với đội ngũ cán bộ, bởi có vậy, họ mới có thể hoàn thành sứ mệnh "là người đầy tớ, công bộc của nhân dân". Trong bối cảnh toàn cầu hoá và xu thế hội nhập quốc tế như hiện nay, sự nghiệp đổi mới của chúng ta đang đứng trước nhiều thời cơ, vận hội to lớn, nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức. Nếu thiếu trí thức, kém về ngoại ngữ, không có kỹ năng phân tích, tổng kết thực tiễn, nắm bắt các vấn đề đặt ra, và do vậy không đưa ra được những quốc sách phù hợp, kịp thời, thực hiện có hiệu quả,...người cán bộ sẽ không theo kịp và bị thực tiễn cuộc sống vượt qua. Việc xây dựng người cán bộ trong sự nghiệp đổi mới sẽ là phiến diện, thiếu sót nếu chỉ chú ý phát triển về mặt thể chất, đạo đức và trí tuệ mà xem nhẹ hoặc coi thường yêu cầu phát triển về mặt thẩm mỹ. Như chúng ta đã biết, chân - thiện - mỹ là một chỉnh thể giá trị toàn vẹn. Điều đó có nghĩa là các mặt thể chất, trí tuệ, đạo đức và thẩm mỹ trong con người luôn gắn liền với nhau. Coi trọng sự phát triển mặt thẩm mỹ của người cán bộ mang ý nghĩa nhân văn to lớn. Vì thế, ngay sau khi giành độc lập, Đảng ta đã chủ trương xây dựng và phát triển một nền giáo dục toàn diện nhằm rèn luyện, bồi dưỡng cho con người Việt Nam trên tất cả các mặt đức, trí, thể, mỹ. Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới nền giáo dục nước ta nói chung và chiến lược cán bộ nói riêng càng phải coi trọng các yếu tố đó. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng ta khẳng định: "Cần xây dựng con người với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao" (Cương lĩnh xây dựng Đảng trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1991, tr 10). Người cán bộ trong sự nghiệp đổi mới không thể thiếu yếu tố năng động và thích nghi, đó là sự nhạy bén, linh hoạt trong mọi hoàn cảnh và điều kiện; là sự mền dẻo trong tư duy, sáng suốt trong hành động, sắc xảo trong quan hệ, "dĩ bất biến, ứng vạn biến" theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngày nay, chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, do vậy tính năng động, khả năng thích nghi cao là những yếu tố vô cùng cần thiết đối với người cán bộ. Nếu không có những yếu tố này, người cán bộ có thể rơi vào bị động, không làm chủ được trong mọi hoàn cảnh, tình huống. Nhờ sự năng động, thích nghi người cán bộ sẽ tìm ra được những giải pháp "đột phá" trong mọi hoàn cảnh có vấn đề, chẳng hạn, trong quá trình mở cửa và hội nhập, người cán bộ giỏi có thể làm sống dạy một doanh nghiệp hay một vùng kinh tế... Sự nghiệp đổi mới đòi hỏi người cán bộ phải có phong cách lãnh đạo. Xây dựng phong cách lãnh đạo của người cán bộ ngày nay là hình thành, phát triển và rèn luyện tác phong làm việc đĩnh đạo, bình tĩnh, sáng suốt, nhanh nhạy, phương pháp làm việc khoa học, lấy hiệu quả công việc, lấy mục đích vì nhân dân làm chuẩn giá trị. Phong cách đó đối lập với lề lối làm việc bảo thủ, trì trệ chậm đổi mới kiểu "sáng vác ô đi, tối vác về"...Xây dựng tác phong lãnh đạo chính là góp phần xây dựng và hoàn thiện nhân cách người cán bộ trong thời kỳ mới. Đó là yếu tố không thể thiếu để người cán bộ có thể hoàn thành trách nhiệm: vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân như chủ tịch Hồ chí Minh đã dạy. 2.4. Kết luận: Sự nghiệp đổi mới là một quá trình tất yếu khách quan để thúc đẩy sự phát triển của đất nước trên mọi lĩnh vực. Thực tiễn của công cuộc đổi mới trong gần hai thập kỷ qua đã khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng ta. Bước vào giai đoạn mới, sự nghiệp lớn lao này đang đặt ra những yêu cầu cao hơn về chất lượng nguồn nhân lực nói chung và lực lượng cán bộ lãnh đạo nói riêng. Nó đòi hỏi phải có những lớp cán bộ phát triển toàn diện, đủ sức lãnh đạo và tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" (văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000, tr 22) đã đề ra. Bởi vậy, chúng ta phải tiếp tục tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng trẻ hoá cán bộ; phải có sự xem xét, đánh giá, bổ nhiệm đúng cán bộ, từng bước có chính sách thoả đáng đối với cán bộ các cấp, nhất là ở cấp cơ sở. Để đảm bảo chất lượng và hiệu quả của công tác xây dựng cán bộ, cần phải tích cực chống bệnh quan liêu, kinh nghiệm chủ nghĩa và giáo điều chủ nghĩa; phải gắn liền với công tác xây dưng Đảng với quá trình đấu tranh chống tham nhũng và cuộc vận động xây dựng chỉnh đón Đảng. KẾT LUẬN Bản chất con người và chiến lược con người của Đảng ta trong thời đại mới không phải là vấn đề mới mẻ.Vấn đề này phải được quan tâm đúng mức. Với tư cách là một sinh viên cũng là thành phần của hàng ngũ người chủ tương lai của đất nước, tôi cũng xin đóng góp ý kiến của mình về vấn đề này như tôi đã trình bày. Với tốc độ phát triển như vũ bảo của trình độ khoa học - kỹ thuật như hiện nay thì nền văn minh nhân loại chịu ảnh hưởng sâu sắc. Nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống của con người nhất là đời sống văn hoá đã mang nhiều giá trị mới mẻ và Việt Nam cũng không nằm ngoài vòng quay ấy! Điều đặc biệt là nước ta đang trong quá trình quá độ lên CNXH. Quá trình quá độ lên CNXH chứa đầy những mặt mạnh và mặt yếu kém của nó mà trong suốt bài tiểu luận đã đề cập đến. Vấn đề "Bản chất con người" được đặc biệt quan tâm bởi tính cấp thiết của nó như tôi đã đề cập ngay từ đầu và xuyên suốt bài tiểu luận. Tôi đã đề cập đến nhiều vấn đề liên quan đến "Bản chất con người". Điểm đặc biệt trong đó là chiến lược con người của Đảng ta, trong thời đại mới. Tuy nhiên, bên cạnh những vấn đề màtôi đã đề cập ở trên, không khỏi những thiếu sót và hạn chế, bởi tôi chưa có khả năng nguyên cứu sâu và một số phương pháp giải quyết mâu thuẩn tôi đã đưa ra cũng có thể chưa triệt để. Nhận thức được điều này,tôi cho rằng nghiên cứu "Bản chất con người" là cả một quá trình lâu dài, đòi hỏi rất nhiều nổ lực. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn tất cả các thầy cô trường đại học Ngân Hàng, đăc biệt là thầy Minh Tuấn đã tận tình giúp đỡtôi trong suốt quá trình làm đề tài tiểu luận này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. C.Mac và Ph.Ăngghen sdd, tr 234. 2. C.Mac và Ph.Ăngghen sdd, tr 136-137. 3. Xây dựng con người mới phù hợp với sự phát triển của đất nước và thời đại PGS. Hồ Kiếm Việt, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2002. 4. Những bài viết và nói chọn lọc thời kỳ đổi mới của đại tướng Võ Nguyên Giáp, Nxb.CTQG và Quân Đội Nhân Dân. 5. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb.CTQG Hà Nội, 1991. 6. Tạp chí cộng sản, số 1 (1/20002), số 33 (11/2003). 7. Tạp chí triết học, số 2 (2/2004). 8. Triết học số 4 (4/2003). 9. Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, PGS.TS Thành Duy. BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT XHCN : xã hội chủ nghĩa. CNXH : chủ nghĩa xã hội. CTQG : chính trị quốc gia. PGS,TS : phó giáo sư, tiến sĩ. NXB : nhà xuất bản.
File đính kèm:
- tieu_luan_xay_dung_con_nguoi_trong_thoi_dai_moi.pdf