Tiểu luận Nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vận dụng mối quan hệ này trong công cuộc đổi mới ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Phần mở đầu:

Đặt vấn đề

Ngựợc dòng thời gian để tìm về cội nguồn của sự phát triển XH lòai

người.Một XH văn minh như ngày hôm nay ,ấy vậy mà đã có từng thời kì ăn

lông ở lỗ.từng sống bầy đàn hờ sản vật của tự nhiên ban tặng.nhưng rồi giới tự

nhiên cũng chẳng hào phóng với tổ tiên chúng ta mãi được.sản vật của tự nhiên

vơi dần,săn bắt ,hái lượm cũng ngày càng khó khăn ,trong các khó khăn ấy tổ

chức XH bầy đàn kia đã có những bước phát triển mới:trong phân công lao động

 chính từ lao động đã sản sinh ra những con người văn minh hôm nay,chính từ

lao động mà từ tiếng hú của kéo dài của bầy vượn người hia nay đã trở thành âm

thanh tách bạch của lòai người hôm nay .Đồng thời với lao động là ngôn ngữ, tư

duy phát triển .Triết học là bước phát triển vĩ đại của tư duy .Ngay từ đầu triết

học đã là họat động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức ,đánh giá của con

người về thế giới ,nó tồn tại với tư cách là một hình thái YT XH.

Triết học cũng như các môn khoa học khác ,nó ra đời và phát triển cùng

với sự phát triển của tự nhiên và xã hội .Để trở thành hệ thống tri thức lý luận

chung nhất của con người về thế giới ,về vị trí ,vai trò của con người trong thế

giới ấy triết học cũng từng phải đấu tranh để khẳng định chân lý.Cũng chính vì lẽ

đó mà đến tận hôm nay vẫn còn hai trường phái đối lập nhau dùng hệ thống tri

thức lý luận của mình để nhận thức thế giới .Đó là triết học duy tâm con người

khôngthể nhận thức và cải tạo đươc thế giới .Còn triết học duy vật của MacLeninthì khẳng định con người không những nhận thức được thế giới mà còn cải

tạo được thế giới tự nhiên, bắt thế giới tự nhiên phục vụ cho nhu cầu, lợi ích của

con người và cho đến tận hôm nay cuộc chiến giữa hai trường phái triết học vẫn

còn tiếp diễn.

Để đi sâu tìm hiểu vần đề và khẳng định tính chân lý của sự phát triển

biện chứng khách quan của triết học Mac-Lenin tôi chọn đề tài “Nghiên cứu mối

quan hệ giữa vật chất và ý thức .Vân dụng mối quan hệ này trong công cuộcđổi mới ở nước ta trong giai đọan hiện nay”làm đề tài tiểu luận của mình .đề tài

nghiên cứu thành công sẽ góp phần nhỏ bé làm tài liệu tham khảo cho những ai

có nhu cầu nghiên cứu triết học.

pdf 14 trang chauphong 20/08/2022 25800
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vận dụng mối quan hệ này trong công cuộc đổi mới ở nước ta trong giai đoạn hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vận dụng mối quan hệ này trong công cuộc đổi mới ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Tiểu luận Nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vận dụng mối quan hệ này trong công cuộc đổi mới ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
TIỂU LUẬN 
Nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức 
.Vân dụng mối quan hệ này trong công cuộc đổi mới 
ở nước ta trong giai đọan hiện nay 
Phần mở đầu: 
Đặt vấn đề 
 Ngựợc dòng thời gian để tìm về cội nguồn của sự phát triển XH lòai 
người.Một XH văn minh như ngày hôm nay ,ấy vậy mà đã có từng thời kì ăn 
lông ở lỗ.từng sống bầy đàn hờ sản vật của tự nhiên ban tặng.nhưng rồi giới tự 
nhiên cũng chẳng hào phóng với tổ tiên chúng ta mãi được.sản vật của tự nhiên 
vơi dần,săn bắt ,hái lượm cũng ngày càng khó khăn ,trong các khó khăn ấy tổ 
chức XH bầy đàn kia đã có những bước phát triển mới:trong phân công lao động 
chính từ lao động đã sản sinh ra những con người văn minh hôm nay,chính từ 
lao động mà từ tiếng hú của kéo dài của bầy vượn người hia nay đã trở thành âm 
thanh tách bạch của lòai người hôm nay .Đồng thời với lao động là ngôn ngữ, tư 
duy phát triển .Triết học là bước phát triển vĩ đại của tư duy .Ngay từ đầu triết 
học đã là họat động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức ,đánh giá của con 
người về thế giới ,nó tồn tại với tư cách là một hình thái YT XH. 
 Triết học cũng như các môn khoa học khác ,nó ra đời và phát triển cùng 
với sự phát triển của tự nhiên và xã hội .Để trở thành hệ thống tri thức lý luận 
chung nhất của con người về thế giới ,về vị trí ,vai trò của con người trong thế 
giới ấy triết học cũng từng phải đấu tranh để khẳng định chân lý.Cũng chính vì lẽ 
đó mà đến tận hôm nay vẫn còn hai trường phái đối lập nhau dùng hệ thống tri 
thức lý luận của mình để nhận thức thế giới .Đó là triết học duy tâm con người 
khôngthể nhận thức và cải tạo đươc thế giới .Còn triết học duy vật của Mac-
Leninthì khẳng định con người không những nhận thức được thế giới mà còn cải 
tạo được thế giới tự nhiên, bắt thế giới tự nhiên phục vụ cho nhu cầu, lợi ích của 
con người và cho đến tận hôm nay cuộc chiến giữa hai trường phái triết học vẫn 
còn tiếp diễn. 
 Để đi sâu tìm hiểu vần đề và khẳng định tính chân lý của sự phát triển 
biện chứng khách quan của triết học Mac-Lenin tôi chọn đề tài “Nghiên cứu mối 
quan hệ giữa vật chất và ý thức .Vân dụng mối quan hệ này trong công cuộc 
 đổi mới ở nước ta trong giai đọan hiện nay”làm đề tài tiểu luận của mình .đề tài 
nghiên cứu thành công sẽ góp phần nhỏ bé làm tài liệu tham khảo cho những ai 
có nhu cầu nghiên cứu triết học. 
Phần nội dung : 
 Chương 1:Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức 
 Đây là vấn đề cơ bản ,cốt lõi để phân biệt các trường phái triết học 
 Trong mối quan hệ ấy ,triết học Mác –Lênin khẳng định:”YT do VC sinh ra và 
quyết định ,song sau khi ra đời ,YT có tính độc lập tương đối nên có sự tác động 
trở lại to lớn đối với VC thông qua họat dông thực tiễn của con người[1,202]. 
1.1.Vật chất quyết định ý thức. 
 Như chúng ta đã biết ,luận chứng khoa hoc của triết học Mac-Lênin đã khẳng 
định YT là sản phẩm của dạng VC nhưng không phải là sản phẩm của bất kì 
dạng VC nào mà là sản phẩm của dạng VC đặc biệt, có tổ chức cao là bộ óc 
người ,chỉ có bộ óc người một kết cấu đặc biệt ,có tổ chức tinh vi ,hòan thiện mới 
sinh ra YT .Cho nên nếu bộ óc người nào bị tổn thương hay rối lọan chức năng 
phản ánh thì người đó hông thể có được YT 
 Với con người có YT ,YT biểu hiện bao gồm : 
 -YT thông thường 
 -YT khoa học 
 -YT kinh nghiệm 
 -YT lý luận .. 
YT thông thường là những tình cảm ,thói quen và những ước muốn bình thường 
trong cuộc sống bình thường .Mỗi con người đều sống trong những điều kiện tự 
nhiên,kinh tế –xã hội nhất định và những điều kiện này sẽ chi phối họ.Mac đã 
khẳng định:”YT là VC được di chuyển vào trong bộ óc con người và được cải 
biến ở trong đó “[1,27]qua khái niệm trên ta ta nhận thấy ở đây không chỉ là YT 
thông thường mà còn là YT lý luận khoa học .YT lý luận khoa học cũng là sự 
phản ánh hiện tực khách quan nhưng dưới hình thức là những cặp phạm trù 
,nguyên lý,qui luật ,khái niệm ,tiên đềđược trình bày thành những hệ thống, 
những học thuyết nhất định .Lý luận khoa học là sự phản ánh ở trình độ cao của 
YT ,nó cũng do VC ,hiện thực khách quan quyết định .Khoa học tự nhiên nói lên 
những thuộc tính , những mối quan hệ bản chất của các hiện tượng tự nhiên ,do 
qui luật vận động phát triển của hiện tượng ấy quyết định .Khoa học xã hội cũng 
vậy ,qui luật vận động của các hiện tượng và quá trình phát riển của XH do hiện 
thực XH quyết định .VC quyết định YT .Nguyên lí này có ý nghĩa thực tiễn vô 
cùng quan trọng .Vì trong thực tế ở mỗi con người ,mỗi tổ chức XH thường có 
những chương trình ,kế họach họat động để thể hiện ý chí ,ý tưởng của mình 
.nhưng lại quên rằng những ý chí ,ước vọng đó chỉ thực hiện được trên cơ sở 
những điều kiện VC nhất định ,thiếu những phương tiện VC người ta không thể 
làm được cái gì hết bởi ý tưởng tự nó không thực hiện được cái gì hết ,muốn hiện 
 thực hóa ý tưởng phải sử dụng lực lượng VC .Ong cha ta thường nói “có thực 
mới vực được đạo “,hay “có bột mới gột nên hồ”. 
1.2.Tính độc lập tương đối của YT: 
VC là cái có trước ,YT là cái có sau ,YT do VC quyết định .Đó là quan 
điểm của các nhà duy vật trước Mac đã khẳng định .Nhưng triết học Mac-Lênin 
không chỉ dùng lại ở đó mà nó lại khẳng định rằng VC quyết định YT ,song YT 
lại tác động trở lại VC ,cải tạo thế giới VC thông qua họat động thực tiễn của con 
người . 
YT là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người một cách 
năng động ,sáng tạo [2,195].Cho nên nó giúp con người hiểu biết bản chất và qui 
luật vân động của sự vật ,hiện tượng .Trên cơ sở đó con người xác định phương 
hướng ,mục tiêu họat động của mình ,xác định phương pháp và biện pháp cụ thể 
để thực hiện mục tiêu .Nhờ có YT con người phân biệt được đúng ,sai ,lợi 
,hại,cái gì nên làm ,cái gì cần tránh ,tìm được đường đi đúng hướng tránh được 
sai lầm .Trong quá trình họat động thực tiễn xuất hiện nhiều khả con người có thể 
phân tích ,phát hiện nhiều khả năng tốt ,xấu để chỉ đạo họat động của mình tạo 
điều kiện cho khả năng tốt phát triển ,ngăn ngừa hạn chế khả năng xấu . 
 Trong các lọai YT thì YT lý luận khoa học có vai trò to lớn nhất .YT lý 
luận của giai cấp vô sản là chủ nghĩa Mac-Lênin .Đó là hệ thống lý luận khoa 
học ,là kim chỉ nam cho họat động của giai cấp công nhân và quần chúng nhân 
dân lao động trong việc cải tao thế giới bằng thực tiễn .tác động của YT rất năng 
động và to lớn .Và như Mac đã khẳng định :”lý luận có thể trở thành sức mạnh 
VC khi nó thâm nhập vào lực lượng quần chúng “,điều này thể hiện rất rõ ở cuộc 
đấu tranh giải phóng dân tộc ở nước ta.khi nước nhà lâm nguy Bác Hồ đã ra lời 
kêu gọi tòan quốc kháng chiến ,lời kêu gọi đó đã thấm sâu vào khối óc và con 
tim của triệu triệu con người Việt Nam ,đặc biệt la anh bộ đội cụ Hồ ,họ đã 
không ngại khó khăn gian khổ sẵn sàng chiến đấu ,hi sinh ,vì độc lập tự do của tổ 
,vì CNXH .VC quyết định YT ,YT tác động trở lại VC ,mối quan hệ biện chứng 
ấy là cơ sở khách quan của phương pháp luận khoa học : mọi suy nghĩ và hành 
 động phải xuất phát từ thực tế khách quan ,đồng thời phải biết phát huy tính năng 
động chủ quan . 
 Mỗi một chúng ta phải xuất phát từ thực tế khách quan ,từ xu hứơng phát 
triển tất yếu của XH ,từ sự nghiệp xây dựng CNXH .Trong bối cảnh lịch sử XH 
hiện nay ,trước xu thế toàn cầu hóa ,nền kinh tế thị trường ,mỗi bản thân chúng ta 
phải xác định cho mình một lý tưởng sống ,sống có mục đích ,không sống lãng 
phí .Thật không đơn giản chút nào khi cả cái tích cực và tiêu cực trong XH đang 
đan xen vào nhau đang triệt tiêu lẫn nhau ,thâm chí có những nơi cái tiêu cực còn 
lấn át cả cái tích cực .Cái VC tầm thường đã làm gục ngã bao nhiêu cán bộ đảng 
viên có chức, có quyền.Đã làm cho họ không thể YT nỗi là họ phải đánh đổi cả 
một cuộc đời mới có ngày vinh quang hôm nay .Cuộc sống hôm nay thật phức 
tạp ,nếu thoát ly khỏi cuộc sống thực tại sẽ trở thành duy tâm chủ nghĩa ,còn nếu 
phù hợp một cách thụ động sẽ trở nên thực dụng ,còn nếu cứ khư khư ôm lấy cái 
bản lĩnh , lý tưởng môt cách máy móc xơ cứng thì chắc chắn sẽ gặp không ít khó 
khăn ,nếu không kịp thích ứng có khi sẽ bị đào thải .Cho nên nói đến vai trò 
của YT thực chất là nói tới vai trò của con người.Dó cần phải trang bị YT lý luận 
khoa học cho cán bộ ,cho đông đảo quần chúng nhân dân bởi “muốn xây dựng 
XHCN phải có con người XHCN” 
 Tóm lại, triết học Mác-Lênin đã vạch rõ bản chất phản động của triết học 
duy tâm. Họ cho rằng YT có trước VC và quyết định VC ,nhưng thực chất là 
nguỵ biện để che đậy cái bản chất của chủ nghĩa tư bản .Họ xem mối quan hệ 
giữa VC va YT chỉ là quan hệ một chiều như chính giai cấp tư sản trong chủ 
nghĩa tư bản .Vậy triết học duy vật biện chứng của Mac –Lênin đã chứng minh 
rằng đằng sau chủ nghĩa duy tâm là khuynh hướng tư tưởng của giai cấp tư sản 
hiện đai đang tìm mọi lý lẽ phản khoa học để chống lại chủ nghĩa duy vật của 
Mác .Chủ nghĩa duy vật của Mác đã luận chứng một cách khoa học về thế giới 
,đó là thế giới VC .Thế giới Vc không ai sinh ra ,không ai tiêu diệt được ,tồn tại 
khách quan ngoài YT của con người và quyết định YT của con người .Nhưng 
không phủ nhận sự tác động trở lại của YT mà còn thừa nhận một cách có căn cứ 
khoa học về vai trò của YT đối với VC .Chính quan hệ biện chứng giữa VC và 
 YT đã giúp con người không chỉ nhận biết được thế giới mà còn cải tạo được thế 
giới VC để phục vụ cho lợi ích của con người, vai trò của YT biểu hiện tập trung 
ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người .Tầm quan trọng của YT tiến 
bộ của lý lụân cách mạng đã được Lênin tổng kết trong câu nói nổi tiếng “không 
có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng “.Thật vậy khi điều 
kiện khách quan đã xuất hiện và ch1n mùi thì những chủ trương đường lối sáng 
suốt,biện pháp đúng đắn ,quyết tâm cao là điều kiện có ý nghĩa quyết định đối 
với sự thành công của cách mạng .Nguyên nhân chủ yếu của sự thành công của 
cách mạng Việt Nam là Đảng ta đã nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa 
Mác-Lênin phù hợp với tình hình thực tế nước ta nên đã đề ra đường lối và 
phương pháp cách mạng đúng đắn trong từng giai đoạn cách mạng. 
Chương 2:Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và 
 ý thức trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta 
2.1.Thực trạng nước ta trứơc giai đoạn đổi mới: 
 Như chúng ta đã biết, sau khi giải phóng Miền nam thống nhất đất nước, 
nền kinh tế miền bắc còn nhiều nhược điểm. Cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém, cơ 
cấu kinh tế nhiều mặt mất cân đối, năng suất lao động thấp, sản xuất chỉ đảm bảo 
nhu cầu đời sống, sản xuất nông nghiệp chỉ cung cấp đủ thực phẩm cho nhân 
dân, nguyên liệu cho công nghiệp, hàng hoá cho xuất khẩu. Mặt khác, nền kinh tế 
miền Bắc còn bị chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ tàn phá 
nặng nề. Ở miền Nam, sau 20 năm chiến tranh, nền kinh tế bị đảo lộn và suy sụp, 
nông nghiệp nhiều vùng hoang hoá, lạm phát trầm trọng 
Trước tình hình đó, Đại hội đảng lần thứ IV lại đề ra những chỉ tiêu kế 
hoạch năm 1976 – 1980 quá cao và phát triển sản xuất quá khả năng của nền kinh 
tế, như năm 1975, phấn đấu đạt 21 triệu tấn lương thực, 1 triệu tấn cá biển, 1 
triệu héc ta khai hoang, 1 triệu 200 héc ta rừng mới trồng, 10 triệu tấn than 
sạch, 2 triệu tấn xi măng Đặc biệt là đã đề ra việc xây dựng thêm nhiều cơ sở 
mới về công nghiệp nặng, đặc biệt là cơ khí và đặt nhiệm vụ hoàn thành về cơ 
bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam. Những chủ trương sai lầm do cùng với 
cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp đã tác động xấu đến kinh tế, ảnh 
hưởng không tốt tới đời sống của nhân dân Đến hết năm 1980, nhiều chỉ tiêu 
kinh tế chỉ đạt khoảng 50 – 60% mức đề ra, nền kinh tế tăng trưởng rất chậm 
chạp : tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân 1,5%, công nghiệp tăn g 2,6% nông 
nghiệp giảm 0,15%. 
 Đại hội Đảng lần thứ V cũng chỉ tìm ra được đầy đủ những nguyên nhân 
đích thực sự trì trệ trong nền kinh tế của nước ta và cũng chỉ đề ra các chủ trương 
chính sách và toàn diện về đổi mới, nhất là về kinh tế. Trong năm năm 1981 – 
1985 chúng ta chỉ kiên quyết khắc phục chủ quan, trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh 
tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, lại phạm những sai lầm mới 
nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối lưu thông. Nhìn chung, chúng ta chỉ thực 
hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần thứ V đề ra là cơ bản ổn định tình 
hình kinh tế, ổn định đời sống nhân dân. 
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã 
hội đã nhận định "trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã có nhiều cố 
gắng nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương 
hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi 
phạm quy luật khách quan : Nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ ngay 
nền kinh tế nhiều thành phần : có thúc đẩy mạng quá trình mức xây dựng công 
việc nặng : duy trì quá lâu cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, có nhiều 
chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương. 
Tất nhiên, ngoài những khuyết điểm chủ quan nêu trên, còn có những 
nguyên nhân khách quan như hậu quả của nhiều năm chiến tranh, bối cảnh quốc 
tếsong chủ yếu là do chúng ta phạm sai lầm chủ quan, những sai lầm cùng với 
trì trệ công tác tổ chức, cán bộ đã kìm hãm lực lượng sản xuất và triệu tiêu nhiều 
động lực phát triển. 
 2.2.Những chủ trương ,đường lối đổi mới đất nước và những thành 
tựu được : 
 Trước tình hình ngày càng nghiêm trọng trong khủng hoảng kinh tế xã hội 
ở nước ta, Đảng và Nhà nước đã đi sâu nghiên cứu, phân tích tình hình, lấy ý 
kiến rộng rãi của cơ sở, của nhân dân, và đặc biệt là đổi mới tư duy về kinh tế. 
đại hội lần thứ VI của Đảng đã rút ra bốn kinh nghiệm lớn, trong đó kinh nghiệm 
 : phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. 
Đảng đã đề ra đường lối đổi mới, mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng 
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tại Đại hội VI, Đảng đã tự phê bình một cách 
nghiêm khắc, đã phân tích đúng nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế 
xã hội, đề ra các định hướng lớn và xác định chủ trương đổi mới, đặc biệt là đổi 
mới về kinh tế, đã thực hiện mục tiêu của ba chương trình kinh tế : lương thực – 
thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu : tình hình nền kinh tế hàng hoá nhiều 
thành phần, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá 
– tiền tệ. Trong quá trình thực hiện Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
VIII, ta đã đánh giá tình hình chính trị xã hội Việt Nam sau hơn bốn năm thực 
hiện đường lối đổi mới : công cuộc đổi mới bước đầu hình thành nền kinh tế 
hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của 
nhà nước, nguồn lực sản xuất của xã hội được huy động tốt hơn, tốc độ lạm phát 
được hạn chế bớt; đời sống vật chất tinh thần của một bộ phận nhân dân có phần 
dược cải thiện so với trước đay thì mức khủng hoảng đã giảm bớt. Sinh hoạt dân 
chủ trong xã hội ngày càng được phát huy 
Qua những dẫn chứng trên, ta thấy rõ tác động qua lại giữa ý thức và vật 
chất, giữa kinh tế và chính trị, nhờ có đường lối đổi mới, sản xuất phát triển, đời 
sống nhân dân nói chung được cải thiện, mức khủng hoảng đã giảm bớt, do đó 
góp phần ổn định tình hình chính trị đất nước, góp phần vào việc phát huy dân 
chủ trong xã hội. Không chủ quan với những thành tựu đã đạt được. Đại hội VII 
chỉ ra những tồn tại lớn cần giải quyết, đặc biệt về mặt kinh tế đó là : Lạm phát 
còn ở mức cao nhiều cơ sở sản xuất đình đốn kéo dài, lao động thiếu việc làm 
tăng lên, đồng thời cũng tự phê bình về việc chậm xác định rõ yêu cầu và nội 
dung đổi mới, còn nhiều lúng túng và nhiều sơ hở trong điều hành, quản lý vĩ mô 
nền kinh tế thị trườngđặc biệt, đại hội cũng xác định : "về quan hệ đổi mới 
kinh tế và đổi mới chính trị phải tập trung sức đổi mới kinh tế, đáp ứng đòi hỏi 
cấp bách của nhân dân về đời sống và làm việc, các nhu cầu xã hội khác, xây 
 dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng 
để tiến hành đổi mới trong lĩnh vực chính trị". 
Như vậy, rõ ràng Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày càng vận dụng đúng đăng 
phương pháp luận duy vật biện chứng về mối quan hệ vật chất và ý thức vào 
cuộc đổi mới, tiến hành đổi mới kinh tế trước để tạo điều kiện đổi mới trong lĩnh 
vực chính trị, Đại hội VII, sau khi đã phân tích sâu sắc đặc điểm tình hình quốc tế 
và trong nước đã đề ra mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể, những phương 
châm chỉ đạo trong năm năm 1991 – 1995, đặc biệt đáng chú ý là phương châm 
kết hợp động lực kinh tế và động lực chính trị tinh thần, phương châm tiếp tục 
đổi mới toàn diện và đồng bộ đa công tác đổi mới vào chiều sâu với bước đi 
vững chắc, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ việc 
đổi mới lĩnh vực khác. 
Với những chủ trương, đường lối đúng đắn công cuộc đổi mới ở nước ta đã 
đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ :khắc phục một bước rất quan trọg tình 
trạng khủng hoảng kinh tế xã hội  khắc phục dựoc nhiều mặc đình đốn, suy 
thoái, tốc độ tăng trưởng khá và liên tục tro ng ba năm qua.Lạm phát được đẩy 
lùi từ 67%năm 1991 xuống 17.5% năm 1992 và còn 5.2% năm 1993. Tổng sản 
lượng thực năm năm qua đã tăng 26 so với năm năm trước, tạo điều kiện cơ bản 
để ổn định dời sống nhân dân, phát triển ngành nghề chuyển dịch cơ cấu nông 
nghiệp và kinh tế nông thôn, vấn đề lương thực được giải quyết tốt. Sản xuất 
công nghiệp đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm 13,3% (mức kế hoạch 
là 7,5 – 8,5%). Quan hệ kinh tế đối ngoại mở rộng theo hướng đa dạng hoá và đa 
phương hoá, thị trường xuất nhập khẩu được củng cố và mở rộng theo hướng đa 
dạng hoá và đa phương hoá, thị trường xuất khẩu được củng cổ và mở rộng đầu 
tư vốn từ nước ngoài tăng mạnhtăng tưởng kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm 
1991 – 1995 đạt trên 17 tỷ USD (kế hoạch 12-15 tỷ USD), đảm bảo nhập các loại 
vật tư thiết bị và hàng hoá đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống, góp phần 
cải thiện cán cân thanh toán thương mại Khoa học công nghiệ có bước phát 
triển, đã tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi 
 mới và phát triển của nước ta, phục vụ cho việc xây dựng đường lối, chính sách 
của Đảng và Nhà nước, lĩnh vực văn hoá – xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, 
đời sống nhân dân được cải thiện một bước. Quốc phòng an ninh được giữ vững. 
Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đất nước ta cơ bản trở thành một nước 
công nước. Và thực tế trong những năm qua với những chính sách chương trình 
phát triển kinh tế chính trị xã hội, chính sách ngoại giao hợp lý, chúng ta đã đạt 
được những bước tiến rất quan trọng, bình thường hoá quan hệ Với Mỹ, là thành 
viên của Khối ASEAN (Hiệp hội các nước Đông Nam Á), đặc biệt năm 1998 ta 
đã trở thành thành viên của khối APEC (diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái 
Bình Dương) Từ chỗ bị bao vây cấm vận nay đã được bình thường hóa được 
tất cả các nước lớn, có quan hệ ngoại gia o với 167 nước, quan hệ thương mại với 
120 nước đồng thời cân bằng quan hệ với các nước lớn, phát triển quan hệ tốt 
đẹp với các nước láng giềng khu vực. Điều đó có ý nghĩa to lớn trong việc giữ 
vững môi trường hòa bình ổn định, là nền tảng xây dựng và bảo vệ tổ quốc. 
Tăng trưởng GDP tiếp tục tăng cao, năm 1996 là 9.3%, năm 1987 là 8.2%, 
năm 1998 là 5.8% (do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu 
vực). Lạm phát vẫn được giữ ở mức dưới 10%, tốc độ tăng trưởng của côg 
nghiệp vẫn đạt hai con số đời sống của nhân dân ngày càng được ổn định và 
nâng cao. 
Tóm lại, với những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua chúng ta hoàn 
toàn có cơ sở khẳng định công cuộc đổi mới mà Đảng mà nhân dân ta đang thực 
hiện là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với thực tế đất nước. 
Phần kết luận: 
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự nghiệp rất khó khăn, phức 
tạp, có thể coi nó như một công cuộc kháng chiến trường kỳ của Đảng, Nhà nước 
và nhân dân ra. Những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, những biến 
độnh nhiều mat của dất nước ta trong quá trình đổi mới toàn diện xã hội càng đòi 
hỏi Đảng và Nhà nước ta phải kiên trì, kiên định, giữ vững lòng tin, quyết tâm 
 khắc phục khó khăn đồng thời phải tỉnh táo, thông minh, nhạy bén để thích ứng 
kịp thời với tình hình thực tế biến đổi từng ngày, từng giờ. 
Quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí 
Minh, vận dụng thành thạo phép duy vật biện chứng vào việc nghiên cưú và quản 
lý kinh tế, phát huy mạnh mẽ hơn nữa quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính 
trị trong công cuộc đổi mới nhằm tăng trưởng nền kinh tế quốc dân, nhất định 
chúng ta sẽ trở thành những cán bộ quản lý kinh tế tốt, góp phần xứng đáng vào 
công cuộc đổi mới kinh tế đất nước, tại điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam cất 
cánh, để từ đó nâng cao hơn nữa vị trí của Việt Nam trên chính trường quốc tế, 
góp phần củng cố hơn nữa sự ổn định về chính trị đất nước. Đó là lương tâm, là 
trách nhiệm của từng cán bộ quản lý kinh tế, chính trị của chúng ta. Để cách 
mạng Việt Nam giành được những thành quả mới trong điều kiện lịch sử mới, 
hoàn cảnh mới, để cho mối quan hệ giữa vật chất và ý thức phát triển theo đúng 
lý luận khoa học của chu nghĩa Mác –Lênin thì cách mạng Việt Nam phải hoạch 
định được những chiến lược và sách lược phù hợp với điều kiện cụ thể với điều 
kiện hiện nay: 
 - Hết sức xem trọng xây dựng phát triển chiến lược con người. 
 - Phải xem xét và sử dụng thích hợp cính sách đòn bâỷ kinh tế (bởi con 
người hoạt động gắn liền với lợi ích của ho). 
 - Cần coi trọng và đẩy mạnh cuộc cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư 
tưởng văn hoá- đạo đức, lối sống. 
 - Phải đẩy mạnh và nâng cao chất lượng giáo dục, coi trọng nhân tài( bởi 
nhân tài là nguyên khí quốc gia). 
 - Luôn vun xới, chăm lo mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội 
phát triển theo đúng nghĩa của nó. 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_nghien_cuu_moi_quan_he_giua_vat_chat_va_y_thuc_van.pdf