Luận văn Vai trò của Ngân hàng Trung ương trong việc kiểm soát thị trường tiền tệ
I.Ngân hàng trung ương
Ngân hàng trung ương là một cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, được độc quyền
phát hành giấy bạc ngân hàng và thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt
động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, với mục tiêu cơ bản là ổn định và an toàn trong
hoạt động của hệ thống ngân hàng. Ngân hàng trung ương thực hiện chức năng
quản lý không chỉ đơn thuần bằng các luật lệ, các biện pháp hành chính, mà còn
thông qua các nghiệp vụ mang tính kinh doanh sinh lời. Ngân hàng trung ương có
các khoản thu nhập từ tài sản có của mình như: chứng khoán chính phủ, cho vay
chiết khấu, kinh doanh trên thị trường ngoại hối Hai mặt quản lý và kinh doanh
gắn chặt với nhau trong tất cả các hoạt động kinh doanh chỉ là phương tiện để quản
lý, tự nó không phải là mục đích của ngân hàng trung ương. Hầu hết các khoản thu
nhập của ngân hàng trung ương, sau khi trừ các chi phí hoạt động, đều phải nộp vào
ngân sách nhà nước.
1.Chức năng của ngân hàng trung ương
1.1 Phát hành giấy bạc ngân hàng và điều tiết lượng tiền cung ứng.
Đi liền với sự ra đời của ngân hàng trung ương thì toàn bộ việc phát hành tiền
được tập trung vào ngân hàng trung ương theo chế độ nhà nước độc quyền phát
hành tiền và có trở thành trung tâm phát hành tiền của cả nước.
Giấy bạc ngân hàng do Ngân hàng trung ương phát hành là phương tiện thanh
toán hợp pháp, làm chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán.
Do đó, việc phát hành tiền của ngân hàng trung ương có tác động trực tiếp đến tình
hình lưu thông tiền tệ của đất nước. Để cho giá trị đồng tiền được ổn định, nó đòi
hỏi việc phát hành tiền phải tuân theo những nguyên tắc nghiêm ngặt. Các nguyên
tắc cơ bản cho việc phát hành tiền tệ đã từng được đặt ra là:6
- Nguyên tắc phát hành tiền phải có vàng bảo đảm: Nguyên tắc này quy định việc
phát hành giấy bạc ngân hàng vào lưu thông phải được đảm bảo bằng trữ kim
hiện hữu nằm trong kho của ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương phải
đảm bảo việc tự do đổi giấy bạc ngân hàng ra vàng theo luật định khi người có
giấy bạc yêu cầu. Tuy nhiên, vận dụng nguyên tắc này, mỗi nước lại phải có sự
co giãn về mức độ bảo đảm vàng khác nhau, điều đó còn tuỳ thuộc vào điều kiện
kinh tế, chính trị của mỗi đất nước.
- Nguyên tắc phát hành giấy bạc ngân hàng thông qua cơ chế tín dụng, được bảo
đảm bằng giá trị hàng hoá và dich vụ. Theo cơ chế này, việc phát hành giấy bạc
không nhất thiết phải có vàng bảo đảm, mà phát hành thông qua cơ chế tín dụng
ngắn hạn, trên cơ sở có bảo đảm giá trị bằng hàng hoá, công tác dịch vụ, thể hiện
trên kỳ phiếu thương mại và các chứng từ nợ khác có khả năng hoán chuyển
thành tiền theo luật định. Đó là tín dụng của ngân hàng trung ương, được thực
hiện bằng phương thức tái cấp vốn đối với các ngân hàng thương mại. Việc phát
hành giấy bạc ngân hàng theo nguyên tắc này, một mặt nó xuất phát từ nhu cầu
tiền tệ phát sinh do sự tăng trưởng kinh tế; mặt khác tao ra khả năng để ngân
hàng trung ương thực hiện việc kiểm soát khối lượng tiền cung ứng theo yêu cầu
chính sách tiền tệ.
Ngày nay, trong điều kiện lưu thông giấy bạc ngân hàng không được tự do
chuyển đổi ra thành vàng theo luật định, các ngân hàng trên thế giới đều chuyển
sang chế dộ phát hành giấy bạc thông qua cơ chế tái cấp vốn cho các ngân hàng và
hoạt đông trên thị trường mở của ngân hàng trung ương. Đồng thời, trên cơ sở độc
hành phát hành tiền, ngân hàng trung ương thực hiện việc kiểm soát khối lượng tiền
cung ứng được tạo ra từ các ngân hàng thương mại, bằng quy chế dự trữ bắt buộc,
lãi suất chiết khấu
Như vậy, ngân hàng trung ương không chỉ độc quyền phát hành tiền tệ, mà còn
quản lý và điều tiết lượng tiền cung ứng, thực hiên chính sách tiền tệ, bảo đảm ổn
định giá trị đối nội và giá trị đối ngoại của đồng bản tệ.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận văn Vai trò của Ngân hàng Trung ương trong việc kiểm soát thị trường tiền tệ
1 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG Đề tài: Vai trò của Ngân hàng trung ương trong việc kiểm soát thị trường tiền tệ 2 lời mở đầu Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự hình thành và phát triển của thị trường tài chính là một vấn đề rất quan trọng. Nếu trong nền kinh tế hàng hoá, thị trường nói chung là tiền đề của quá trình sản xuất kinh doanh thì trong nền kinh tế thị trường giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá, tiền tệ – vốn ngày càng trở nên quan trọng. Sự phát triển năng động với tốc độ cao của kinh tế thị trường đã làm nảy sinh nhu cầu thường xuyên và to lớn về nguồn tài chính để đầu tư và tạo lập vốn kinh doanh hoặc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong xã hội. Nói một cách khác thì sự phát triển của kinh tế thị trường làm xuất hiện các chủ thể cần nguồn tài chính. Chủ thể cần nguồn tài chính trước tiên là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, Nhà nước, các hộ gia đình .v.v.. Kinh tế càng phát triển thì quan hệ cung cầu nguồn tài chính lại càng tăng, các hoạt động về phát hành và mua bán lại các giấy tờ có giá cũng phát triển, hình thành một thị trường riêng nhằm làm cho cung cầu nguồn tài chính gặp nhau dễ dàng và thuận lợi hơn, đó là thị trường tài chính. Là một bộ phận của thị trường tài chính, thị trường tiền tệ được chuyên môn hoá đối với các nguồn tài chính được được trao quyền sử dụng ngắn hạn. Tuy nhiên quyền sử dụng các nguồn tài chính được trao cho chủ thể khác sử dụng trong thời hạn bao lâu được gọi là ngắn thì còn phụ thuộc vào mỗi nước. Nhưng thông thường trên thị trường tiền tệ người ta chuyển giao quyền sử dụng nguồn tài chính có thời hạn từ một ngày đến một năm. Chính vì tính chất ngắn hạn đó nên thị trường tiền tệ cung ứng các nguồn tài chính có khả năng thanh toán cao và những người tham dự ít bị rủi ro. Tham gia vào thị trường tiền tệ gồm có rất nhiều chủ thể với những mục đích khác nhau: Chủ thể phát hành, chủ thể đầu tư, chủ thể kiểm soát hoạt động của thị trường. Trong đó Ngân hàng trung ương là chủ thể quan trọng trên thị trường tiền tệ; Ngân hàng trung ương có nhiệm vụ cung cấp cho hệ thống ngân hàng khả năng thanh toán cần thiết để đáp ứng nhu cầu cho nền kinh tế, tương ứng với mục tiêu của chính sách tiền tệ. Ngân hàng trung ương giám sát hoạt động của các ngân 3 hàng, điều hành vĩ mô thị trường tiền tệ thông qua các công cụ chủ yếu là nghiệp vụ thị trường mở, chính sách chiết khấu, tỉ lệ dự trữ bắt buộc, kiểm soát hạn mức tín dụng, quản lí lãi suất của các ngân hàng thương mại làm cho chính sách tiền tệ luôn được thực hiện theo đúng mục tiêu của nó. Tại tất cả các nước, Ngân hàng trung ương được sử dụng như một công cụ quan trọng trong điều chỉnh kinh tế của nhà nước vì ngân hàng trung ương nắm trong tay các mối liên hệ kinh tế quan trọng nhất. ở Việt Nam, cùng với quá trình chuyển dịch từ nền kinh tế hàng hoá tập trung bao cấp sang phát triển nền kinh tế thị trường, trong những năm qua thị trường Việt Nam đã được hình thành và từng bước hoàn thiện theo xu hướng năng động, tích cực phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới. Mặc dù đến nay quy mô của thị trường này còn rất khiêm tốn nhưng nó đã đóng vai trò nhất định trong việc kết nối cung cầu về vốn ngắn hạn cho các ngân hàng, doanh nghiệp .v.v.. Đặc biệt thị trường tiền tệ Việt Nam đã góp phần tháo gỡ khó khăn cho các ngân hàng trong việc bảo đảm khả năng thanh toán, an toàn hệ thống cũng như mở rộng hệ thống cho vay. Đạt được những kết quả đó, một phần lớn là do vai trò điều tiết tiền tệ của Ngân hàng trung ương. Những đổi mới trong quá trình điều tiết, kiểm soát tiền tệ trong , kiểm soát thị trường những năm qua đã góp phần quan trọng trong việc xây dựng hệ thống tài chính và phát triển thị trường tiền tệ. Tuy nhiên việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để thực hiện vai trò điều tiết tiền tệ của ngân hàng trung ương còn có những hạn chế. Những hạn chế này ở một chừng mực nhất định sẽ có ảnh hưởng đến việc thực hiện vai trò kiểm soát và điều tiết tiền tệ của Ngân hàng trung ương. Việc nghiên cứu tìm hiểu vai trò của Ngân hàng trung ương trong việc kiểm soát thị trường tiền tệ sẽ đi sâu vào những thực trạng, những mặt được và cần khắc phục để tăng cường hơn nữa phạm vi, hiệu quả điều tiết tiền tệ của Ngân hàng trung ương, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi thực tiễn và phù hợp thông lệ, nhằm xây dựng một thị trường tiền tệ lành mạnh, hiệu quả và mở ra một vận hội lớn cho sự phát triển 4 kinh tế đất nước khi bước vào thế kỷ 21 với chương trình đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, tiến tới hoà nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Chính vì thế mà em đã chọn đề tài “Vai trò của Ngân hàng trung ương trong việc kiểm soát thị trường tiền tệ.” .Đề tài mang ý nghĩa to lớn đối với công cuộc phát triển kinh tế của nước ta hiện nay.Đây là một đề tài có tính chất rộng lớn, với kiến thức hạn hẹp của mình chắc chắn bài viết của em không tránh khỏi nhiều thiếu sót, rất mong có được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn . 5 Ngân hàng trung ương và vai trò của nó trong việc kiểm soát thị trường tiền tệ I.Ngân hàng trung ương Ngân hàng trung ương là một cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, được độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng và thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, với mục tiêu cơ bản là ổn định và an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Ngân hàng trung ương thực hiện chức năng quản lý không chỉ đơn thuần bằng các luật lệ, các biện pháp hành chính, mà còn thông qua các nghiệp vụ mang tính kinh doanh sinh lời. Ngân hàng trung ương có các khoản thu nhập từ tài sản có của mình như: chứng khoán chính phủ, cho vay chiết khấu, kinh doanh trên thị trường ngoại hối Hai mặt quản lý và kinh doanh gắn chặt với nhau trong tất cả các hoạt động kinh doanh chỉ là phương tiện để quản lý, tự nó không phải là mục đích của ngân hàng trung ương. Hầu hết các khoản thu nhập của ngân hàng trung ương, sau khi trừ các chi phí hoạt động, đều phải nộp vào ngân sách nhà nước. 1.Chức năng của ngân hàng trung ương 1.1 Phát hành giấy bạc ngân hàng và điều tiết lượng tiền cung ứng. Đi liền với sự ra đời của ngân hàng trung ương thì toàn bộ việc phát hành tiền được tập trung vào ngân hàng trung ương theo chế độ nhà nước độc quyền phát hành tiền và có trở thành trung tâm phát hành tiền của cả nước. Giấy bạc ngân hàng do Ngân hàng trung ương phát hành là phương tiện thanh toán hợp pháp, làm chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán. Do đó, việc phát hành tiền của ngân hàng trung ương có tác động trực tiếp đến tình hình lưu thông tiền tệ của đất nước. Để cho giá trị đồng tiền được ổn định, nó đòi hỏi việc phát hành tiền phải tuân theo những nguyên tắc nghiêm ngặt. Các nguyên tắc cơ bản cho việc phát hành tiền tệ đã từng được đặt ra là: 6 - Nguyên tắc phát hành tiền phải có vàng bảo đảm: Nguyên tắc này quy định việc phát hành giấy bạc ngân hàng vào lưu thông phải được đảm bảo bằng trữ kim hiện hữu nằm trong kho của ngân hàng trung ương. Ngân hàng trung ương phải đảm bảo việc tự do đổi giấy bạc ngân hàng ra vàng theo luật định khi người có giấy bạc yêu cầu. Tuy nhiên, vận dụng nguyên tắc này, mỗi nước lại phải có sự co giãn về mức độ bảo đảm vàng khác nhau, điều đó còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị của mỗi đất nước. - Nguyên tắc phát hành giấy bạc ngân hàng thông qua cơ chế tín dụng, được bảo đảm bằng giá trị hàng hoá và dich vụ. Theo cơ chế này, việc phát hành giấy bạc không nhất thiết phải có vàng bảo đảm, mà phát hành thông qua cơ chế tín dụng ngắn hạn, trên cơ sở có bảo đảm giá trị bằng hàng hoá, công tác dịch vụ, thể hiện trên kỳ phiếu thương mại và các chứng từ nợ khác có khả năng hoán chuyển thành tiền theo luật định. Đó là tín dụng của ngân hàng trung ương, được thực hiện bằng phương thức tái cấp vốn đối với các ngân hàng thương mại. Việc phát hành giấy bạc ngân hàng theo nguyên tắc này, một mặt nó xuất phát từ nhu cầu tiền tệ phát sinh do sự tăng trưởng kinh tế; mặt khác tao ra khả năng để ngân hàng trung ương thực hiện việc kiểm soát khối lượng tiền cung ứng theo yêu cầu chính sách tiền tệ. Ngày nay, trong điều kiện lưu thông giấy bạc ngân hàng không được tự do chuyển đổi ra thành vàng theo luật định, các ngân hàng trên thế giới đều chuyển sang chế dộ phát hành giấy bạc thông qua cơ chế tái cấp vốn cho các ngân hàng và hoạt đông trên thị trường mở của ngân hàng trung ương. Đồng thời, trên cơ sở độc hành phát hành tiền, ngân hàng trung ương thực hiện việc kiểm soát khối lượng tiền cung ứng được tạo ra từ các ngân hàng thương mại, bằng quy chế dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu Như vậy, ngân hàng trung ương không chỉ độc quyền phát hành tiền tệ, mà còn quản lý và điều tiết lượng tiền cung ứng, thực hiên chính sách tiền tệ, bảo đảm ổn định giá trị đối nội và giá trị đối ngoại của đồng bản tệ. 7 1.2Ngân hàng trung ương là ngân hàng của các ngân hàng Là ngân hàng của các ngân hàng, ngân hàng trung ương thực hiện một số nghiệp vụ sau đây: - Mở tài khoản tiền gửi và bảo quản dự trữ tiền tệ cho các ngân hàng, các tổ chức tín dụng. Trong hoạt động kinh doanh của mình, các ngân hàng và các tổ chức tín dụng đều phải mở tài khoản tiền gửi và gửi tiền vào ngân hàng trung ương, gồm có hai loại sau: +Tiền gửi thanh toán: Đây là khoản tiền gửi của các ngân hàng tại ngân hàng trung ương nhằm đảm bảo nhu cầu chi trả cho thanh toán giữa các ngân hàng và cho khách hàng. +Tiền gửi dự trữ bắt buộc: Khoản tiền dự trữ này áp dung đối với các ngân hàng và các tổ chức tín dụng có huy động tiền gửi của công chúng. Mức tiền dự trữ này được ngân hàng trung ương quy định và bằng một tỷ lệ nhất định so với tổng số tiền gửi của khách hàng. Đây là một công cụ của ngân hàng trung ương trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Do vây, dữ trữ bắt buộc này sẽ thay đổi theo yêu cầu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. - Cho vay đối với các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho ngân hàng và các tổ chức tín dụng nhằm bảo đảm cho nền kinh tế đủ phương tiện thanh toán cần thiết trong từng thời kỳ nhất định. Mặt khác, thông qua việc cấp vốn và lãi suất tín dụng để điều tiết lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế theo yêu cầu của chính sách tiền tệ. Trong quá trình hoạt động tín dụng của mình, các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng sử dụng vốn tập trung, huy động được để cho vay đối với nền kinh tế. Khi xuất hiện nhu cầu tiền làm phương tiện thanh toán nhưng lượng tiền mặt trong quỹ không đủ khả năng chi trả, các ngân hàng này được ngân hàng trung ương cấp tín dụng theo những điều kiện nhất định, phù hợp yêu cầu chính sách tiền tệ. Như vậy, về thực chất là ngân 8 hàng trung ương thực hiện cung ứng tiền tệ theo nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế, thông qua việc tái cấp vốn cho cá ... ột số định hướng và giải pháp để nâng cao vai trò điều tiết thị trường tiền tệ của ngân hàng nhà nước. Để tăng cường phạm vi, hiệu quả điều tiết của ngân hàng nhà nước, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi thực tiễn và phù hợp thông lệ, việc tiếp tục đẩy mạnh quá trình chuyển đổi điều hành các công cụ trực tiếp sang gián tiếp có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở cần được tiếp tục hoàn thiện để trở thành công cụ điều tiết tiền tệ chủ yếu. Theo đó, ngân hàng nhà nước có thể thực hiện linh hoạt về thời điểm và khối lượng giao dịch để tác động đến tiền dự trữ của hệ thống ngân hàng và sau đó đến lãi suất của thị trường tiền tệ. Lãi suất trên thị trường mở cần trở thành lãi suất tham chiếu cho các loại lãi suất khác. Để làm được như vậy, việc nghiên cứu để mở rộng thêm nhiều loại hàng có thể giao dịch trên thị trường là một đòi hỏi bức xúc : đề nghị chính phủ trình quốc hội cho phép được sử dụng các loại 24 trái phiếu được giao dịch trên thị trường tiền tệ nói chung và thị trường mở nói riêng với thời hạn ngắn, nghiên cứu khả năng sử dụng các loại chứng khoán do các tổ chức tín dụng nhà nước phát hành làm công cụ cho nghiệp vụ thị trường mở. Hiện nay, ngân hàng nhà nước đang tập trung triển khai nội dung này bên cạnh việc rà soát, nghiên cứu các văn bản pháp lý, các cơ chế, quy chế về nghiệp vụ thị trường mở để kịp thời điều chỉnh, sửa đổi theo hướng tạo điều kiện thu hút thành viên tham gia thị trường, cũng như tiếp tục tuyên truyền, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ thị trường mở cho các tổ chức tín dụng. Để khắc phục hạn chế như đã nêu trên của công cụ dự trữ bắt buộc, một số nội dung cần điều chỉnh đối với công cụ cự trữ bắt buộc như việc xem xét không trả lãi cho tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc và trả lãi cho tiền gửi dự trữ bắt buộc, mở rộng diện tiền gửi phải thực hiện dự trữ bắt buộc từ 12 tháng đến 24 tháng; đồng thời, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần được tiếp tục điều chỉnh linh hoạt, phối hợp đồng bộ với các công cụ khác như tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở. Đối với công cụ tái cấp vốn. Để công cụ này thực sự đóng vai trò là công cụ cấp tín dụng ngắn hạn, ngân hàng nhà nước cung ứng phương tiện thanh toán cho các ngân hàng thương mại và thực hiện vai trò “người cho vay cuối cùng”, công cụ tái cấp vốn cần được tiếp tục đổi mới theo hướng quy định rõ ràng các hình tức tái cấp vốn như: - Hình thức tái chiết khấu cung cấp nguồn vốn có tính chất thường xuyên hơn cho các ngân hàng với mức lãi suất thấp có thể thấp hơn lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng, tạo nên mức sàn trên thị trường tiền tệ. Thông qua kênh này, ngân hàng nhà nước thực hiện vai trò điều tiết tiền tệ, giảm áp lực ngắn hạn về dự trữ trên thị trường, cũng như tránh các đột biến về lãi suất trên thị trường. - Hình thức cho vay có bảo đảm bằng các giấy tờ có giá ngắn hạn, cho vay theo hồ sơ tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn của các ngân hàng sau khi đã sử dụng hết hạn mức chiết khấu. Lãi suất tái cấp vốn dưới hình thức này cao hơn 25 mức lãi suất chiết khấu và tuỳ theo mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. - Hình thức cho vay qua cửa sổ chiết khấu đặc biệt, hoặc cho vay thấu chi có tài sản bảo đảm nhằm bù đắp thiếu hụt vốn tạm thời ngắn hạn trong thanh toán của các ngân hàng. Thời hạn cho vay có thể rất ngắn, thường là qua đêm với mức lãi suất có thể là mức trần trên thị trường tiền tệ. Bên cạnh đó, nghiệp vụ hoán đổi cần tiếp tục hoàn thiện theo hướng điều hành linh hoạt tỷ giá hoán đổi, bám sát diễn biến thị trường và phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Đồng thời, hoán đổi ngoại tệ có thể sẽ được thực hiện đối với các ngoại tệ khác ngoài đồng đô la Mỹ. Việc đẩy nhanh tốc độ xử lý của các ngân hàng nhà nước đối với đề nghị của các ngân hàng về nghiệp vụ hoán đổi có ý nghĩa quan trọng nhằm đảm bảo cho ngân hàng nhà nước thực hiện vai trò cung ứng vốn VND kịp thời cho các ngân hàng. Ngoài ra, các công cụ lãi suất, tỷ giá cũng cần tiếp tục điều hành linh hoạt theo hướng tiến dần đến mục tiêu tự do hoá. Việc điều hành cần tiếp tục gắn liền với điều hành tỷ giá. Đặc biệt, để khắc phục một số hạn chế của lãi suất cơ bản, hiện nay trong việc thực hiện vai trò lãi suất mang tính định hướng thị trường, ngân hàng nhà nước có thể tiến tới sử dụng lãi suất liên ngân hàng làm lãi suất định hướng trên cơ sở phát triển thị trường này. Vấn đề quan trọng là ngân hàng nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện công cụ lãi suất thông qua việc lựa chọn lãi suất định hướng phù hợp với mức độ phát triển của thị trường tiền tệ và các quy định của 2 luật Ngân hàng. Một số phương án có thể xem xét như: sử dụng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu làm lãi suất định hướng; hoặc kết hợp sử dụng lãi suất chiết khấu và lãi suất liên ngân hàng định hướng như trường hợp của ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ, ngân hàng trung ương Nhật; hoặc sử dụng mức lãi suất tiền gửi tại ngân hàng trung ương và lãi suất cho vay của ngân hàng trung ương như trường hợp của úc, New Zealands, ngân hàng trung ương Châu Âu; hoặc sử dụng lãi suất thị trường mở phát triển. 26 Riêng đối với điều hành tỷ giá, có thể xem xét gắn tỷ giá chính thức với ‘‘rổ ’’ tiền tệ (gồm USD và các đồng tiền của bạn hàng lớn như Nhật, EU) và tiếp tục thực hiện các giải pháp phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng để tỷ giá thực sự do các lực lượng thị trường quyết định. Các mức lãi suất và tỷ giá chính thức do ngân hàng nhà nước công bố sẽ được điều chỉnh linh hoạt trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc mang tính định hướng, chỉ đạo đối với thị trường. Với mục đích nâng cao hiệu quả việc điều tiết thị trường tiền tệ của ngân hàng nhà nước thông qua sử dụng các công cụ gián tiếp, một trong các vấn đề mấu chốt là cần tiếp tục thực hiện các biện pháp củng cố, phát triển thị trường tiền tệ nói chung và thị trường liên ngân hàng nói riêng để kết nối cung cầu về vốn giữa các tổ chức tín dụng, để truyền tải hiệu ứng về chính sách và về lãi suất tới toàn bộ nền kinh tế. Về phía ngân hàng nhà nước, xuất phát từ thực trạng hiện nay của thị trường nội tệ liên ngân hàng, việc sớm huỷ bỏ các văn bản có liên quan được ban hành trước khi 2 Luật Ngân hàng ra đời nay không còn phù hợp với tình hình thực tế là rất cần thiết. Đồng thời, ngân hàng nhà nước cần tăng cường thực hiện các biện pháp thu thập, thống kê để nắm bắt thông tin kịp thời, đầy đủ về các hoạt động liên ngân hàng. Ngoài ra, việc đẩy nhanh tiến độ hiện đại hoá hệ thống thanh toán liên ngân hàng, thanh toán bù trừ đảm bảo sự luân chuyển vốn nhanh giữa các tổ chức tín dụng cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Đối với thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, ngân hàng nhà nước cần phát huy vai trò hướng dẫn thị trường, khuyến khích các thành viên tham gia các giao dịch có tính chất phòng ngừa rủi ro và chủ động tìm nguồn ngoại tệ trên thị trường, ngân hàng nhà nước chỉ bán ngoại tệ can thiệp thị trường khi thật sự cần thiết tránh sự ỷ lại của các thành viên vào nguồn ngoại tệ của ngân hàng nhà nước. Để phát huy hơn nữa thị trường tiền tệ Việt Nam, ngân hàng nhà nước cần sớm hoàn thiện các khuôn khổ pháp lý cần thiết cho hoạt động thị trường (nhất là các quy định về thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn). Bên cạnh đó, ngân hàng nhà 27 nước cần phối hợp với Bộ tài chính cải tiến đấu thầu tín phiếu kho bạc cần để cho thị trường quyết định và các kỳ hạn của tín phiếu cần đa dạng hơn để thu hút các thành viên tham gia cũng như tạo điều kiện phát triển nghiệp vụ thị trường mở. Ngoài ra, để thị trường tiền tệ phát triển hơn nữa, việc tổ chức phổ biến, hướng dẫn các thành viên tiếp cận với các công cụ thị trường tiền tệ và các mô hình hoạt động trên thị trường các nước cũng là một vấn đề hết sức cần thiết. Đặc biệt, về phía các tổ chức tín dụng, những đối tác chủ yếu trên thị trường cần xúc tiến mạnh mẽ quá trình cải cách, củng cố để nâng cao năng lực tài chính, kinh doanh, tạo cơ sở vững chắc cho sự phát triển của thị trường. Nhất là đối với các ngân hàng thương mại, những nỗ lực cần tập trung vào việc thực hiện các biện pháp xử lý khoản vay không sinh lời, ngăn ngừa phát sinh nợ khó đòi, bỏ dần việc vay chính sách và áp dụng các hoạt động ngân hàng trên cơ sở thương mại, thực hiện các biện pháp củng cố, sáp nhậpđối với một số ngân hàng thương mại cổ phần nhằm xây dựng một hệ thống ngân hàng lành mạnh, hiệu quả, sẵn sàng tham gia vào quá trình hội nhập với hệ thống tài chính khu vực và thế giới. Kết luận Trong giai đoạn hiện nay, khi mà nền kinh tế trong khu vực và thế giới đang có biến động thì việc duy trì một sự phát triển bền vững và có hiệu quả là rất quan trọng và là một điều mà tất cả các quốc gia đều mong muốn. Và để đạt được điều đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng và cấp bách mà các quốc gia phải làm đó là phải đổi mới hệ thống các chính sách vĩ mô và hoàn thiện các công cụ của nó cho phù hợp với tình hình hiện nay, từ đó sử dụng phối hợp có hiệu quả các công cụ quản lí vĩ mô, phát huy được những mặt mạnh của hệ thống công cụ quản lí tạo ra bước phát triển cao hơn. Do vậy việc đổi mới các chính sách tiền tệ giữ vai trò rất quan trọng. Và để có những thay đổi đó thì không thể không kể đến vai trò của ngân hàng trung ương trong việc kiểm soát thị trường tiền tệ. Phần bài viết ở trên 28 đã cho chúng ta có được một cái nhìn khái quát về vai trò và chức năng của Ngân hàng trung ương cũng như công cụ mà Ngân hàng trung ương dùng để kiểm soát thị trường tiền tệ. Ngân hàng trung ương điều tiết hoạt động của thị trường tiền tệ thông qua các công cụ: Nghiệp vụ thị trường mở, chính sách chiết khấu, tỉ lệ dự trữ bắt buộc, kiểm soát hạn mức tín dụng, quản lí lãi suất của ngân hàng thương mại. Và chính nhờ có các công cụ đó mà Ngân hàng trung ương đã trở thành một nhân tố góp phần quan trọng trong ổn định hệ thống tài chính, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo vốn cho quá trình tăng trưởng kinh tế và tạo điều kiện để thị trường tiền tệ phát triển. ở Việt Nam, bên cạnh những thành công đã đạt được thì việc điều hành các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương vẫn chưa kịp thời đáp ứng được những biến động của thị trường. Nghiệp vụ thị trường mở vẫn chưa được sử dụng phổ biến hay dự trữ bắt buộc theo quy định ở Việt Nam hiện nay: Số tiền được trích của dự trữ bắt buộc thực tế của các tổ chức tín dụng dựa trên cơ sở số dư tiền gửi bình quân tại Ngân hàng trung ương. Số tiền mặt tại quỹ hoặc giá trị của các giấy tờ có giá ngắn hạn của ngân hàng thương mại không được tính vào số tiền dự trữ bắt buộc thực tế nếu trên giác độ tạo ra tiền, các tổ chức tín dụng sẽ không tạo ra được bội số tiền lớn hơn số tiền mặt tại quỹ hoặc giá trị của giấy tờ có giá nếu có .v.v.. Do vậy để khắc phục những hạn chế này ngân hàng trung ương phải có những chính sách linh hoạt hơn, có hiệu quả hơn trong việc điều hành thị trường tiền tệ.
File đính kèm:
- luan_van_vai_tro_cua_ngan_hang_trung_uong_trong_viec_kiem_so.pdf