Luận văn Một số vấn đề về nâng cao công tác quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Hà Giang
1. Sự cần thiết của đề tài.
Trong hệ thống tài chính của mỗi quốc gia thì NSNN có vị trí
quan trọng đặc biệt, nó giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính và có
ý nghĩa quyết định trong quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, thực hiện CNH,
HĐH đất nước, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa thì đòi hỏi có khối lượng vốn vô cùng lớn và phát triển
bền vững. Muốn vậy phải có chính sách tài chính quốc gia tiên tiến phù
hợp, trong đó NSNN là một tong những công cụ quan trọng nhất. Thông
qua công cụ NSNN thực hiện phân phối lần đầu và phân phối lại thu
nhập quốc dân, nhờ đó tập trung một phần quan trọng thu nhập quốc dân
vào NSNN, đảm bảo nguồn vốn cho tái sản xuất mở rộng của nền kinh
tế.
NSNN là công cụ để thực hiện tích luỹ và tập trung vốn, phân phối
và sử dụng vốn cho quá trình CNH, HĐH đất nước, xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, từng bước làm thay đổi cơ cấu nền
kinh tế theo hướng đi lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
NSNN giữ vai trò quyết định trong việc thực hiện các mục tiêu
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, các cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân. NSNN còn cung cấp
kinh phí cho hoạt động của các lĩnh vực không sản xuất vật chất, duy trì
hoạt động của bộ máy Nhà nước, giữ ổn định tình hình kinh tế - xã hội,
phấn đấu xây dựng một nền kinh tế phát triển theo hướng CNH, HĐH.
Vì vậy cần phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn vị trí, vai trò của
NSNN, trên cơ sở đó tiến hành đổi mới các hoạt động của NSNN cho
phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, nhằm đảm bảo
nguồn vốn đáp ứng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.4
Hà Giang là một tỉnh miền núi phía Bắc của Tổ quốc, có nhiều
tiềm năng thế mạnh. Tuy nhiên cho đến nay vẫn là một tỉnh nghèo nhất
của nước ta. Điều đó được thể hiện rõ nhất trên các mặt kinh tế, xã hội,
về các cơ sở vật chất kỹ thuật, đặc biệt là kết cấu hạ tầng, về lực lượng
sản xuất và NSLĐ. đang yếu kém và lạc hậu. Với tình trạng đó thì chưa
thể đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH nền kinh tế của tỉnhvà đồng thời cũng
gặp khó khăn trong việc cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân các dân
tộc trong tỉnh. Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng đó là
Hà Giang còn quá thiếu nguồn vốn vật chất. Vì vậy, để giải quyết mâu
thuẫn trên đây cần phải tiến hành đồng bộ nhiều vấn đề. Một trong những
vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt là giải quyết tốt vấn đề ngân sách.
Chính vì vậy tôi chọn đề tài "Một số vấn đề về nâng cao công tác quản
lý và sử dụng NSNN trên địa bàn tỉnh Hà Giang" để viết luận văn tốt
nghiệp cử nhân chính trị
Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận văn Một số vấn đề về nâng cao công tác quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Hà Giang
1 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KHOA KINH TẾ - TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP Đề tài: Một số vấn đề về nâng cao công tác quản lý và sử dụng NSNN trên địa bàn tỉnh Hà Giang 2 mục lục Trang Đặt vấn đề Nội dung chuyên đề Phần thứ nhất một số vấn đề lý luận chung về ngân sách Nhà nước I. Khái niệm về NSNN và chính sách tài khoá. II. Bản chất, chức năng và vai trò của NSNN nói chung, của Hà Giang nói riêng trong sự nghiệp phát triển kinh tế -xã hội . III. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách động viên tài chính nói chung và thuế nói riêng cho ngân sách Nhà nước. Phần thứ hai tình hình về tự nhiên- kinh tế-xã hội và thưc trạng công tác quản lý sử dụng NSNN tỉnh hà giang I. Điệu kiện tự nhiên- kinh tế-xã hội của tỉnh Hà Giang. II. Thực trạng công tác quản lý và sử dụng NSNN tỉnh Hà Giang 1997- 1999. III. Đánh giá tình hình công tác quản lý thu thuế trong mấy năm qua. Phần thứ ba phương hướng và những giải pháp chủ yếu để nâng cao công tác quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh hà giang I. Phương hướng, mục tiêu chung. II. Những giải pháp chung chủ yếu để nâng cao công tác quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang Kiến nghị và kết luận. I. Kiến nghị II. Kết luận. Danh mục tài liệu tham khảo 3 Đặt vấn đề 1. Sự cần thiết của đề tài. Trong hệ thống tài chính của mỗi quốc gia thì NSNN có vị trí quan trọng đặc biệt, nó giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính và có ý nghĩa quyết định trong quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân. Trong công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, thực hiện CNH, HĐH đất nước, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì đòi hỏi có khối lượng vốn vô cùng lớn và phát triển bền vững. Muốn vậy phải có chính sách tài chính quốc gia tiên tiến phù hợp, trong đó NSNN là một tong những công cụ quan trọng nhất. Thông qua công cụ NSNN thực hiện phân phối lần đầu và phân phối lại thu nhập quốc dân, nhờ đó tập trung một phần quan trọng thu nhập quốc dân vào NSNN, đảm bảo nguồn vốn cho tái sản xuất mở rộng của nền kinh tế. NSNN là công cụ để thực hiện tích luỹ và tập trung vốn, phân phối và sử dụng vốn cho quá trình CNH, HĐH đất nước, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, từng bước làm thay đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng đi lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. NSNN giữ vai trò quyết định trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân. NSNN còn cung cấp kinh phí cho hoạt động của các lĩnh vực không sản xuất vật chất, duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước, giữ ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu xây dựng một nền kinh tế phát triển theo hướng CNH, HĐH. Vì vậy cần phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn vị trí, vai trò của NSNN, trên cơ sở đó tiến hành đổi mới các hoạt động của NSNN cho phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, nhằm đảm bảo nguồn vốn đáp ứng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 4 Hà Giang là một tỉnh miền núi phía Bắc của Tổ quốc, có nhiều tiềm năng thế mạnh. Tuy nhiên cho đến nay vẫn là một tỉnh nghèo nhất của nước ta. Điều đó được thể hiện rõ nhất trên các mặt kinh tế, xã hội, về các cơ sở vật chất kỹ thuật, đặc biệt là kết cấu hạ tầng, về lực lượng sản xuất và NSLĐ... đang yếu kém và lạc hậu. Với tình trạng đó thì chưa thể đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH nền kinh tế của tỉnhvà đồng thời cũng gặp khó khăn trong việc cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng đó là Hà Giang còn quá thiếu nguồn vốn vật chất. Vì vậy, để giải quyết mâu thuẫn trên đây cần phải tiến hành đồng bộ nhiều vấn đề. Một trong những vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt là giải quyết tốt vấn đề ngân sách. Chính vì vậy tôi chọn đề tài "Một số vấn đề về nâng cao công tác quản lý và sử dụng NSNN trên địa bàn tỉnh Hà Giang" để viết luận văn tốt nghiệp cử nhân chính trị. 2. Mục đích, nhiệm vụ, phương pháp và phạm vi của đề tài. - Mục đích của đề tài: Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề về lý luận, quan điểm của Đảng, thực tiễn của địa phương để trình bày bản luận văn tốt nghiệp cử nhân chính trị của mình; đồng thời thông qua sự nghiên cứu này có thể có đóng góp nhỏ về suy nghĩ của bản thân tôi trong lĩnh vực quản lý NSNN ở tỉnh Hà Giang. - Nhiệm vụ của đề tài: Từ mục đích nói trên, đề tài luận văn có các nhiệm vụ sau: + Khái quát một vài nét chung nhất về lý luận của NSNN và vai trò của NSNN trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong TKQĐ lên CNXH. + Phân tích, đánh giá những nét lớn về thực trạng kinh tế - xã hội cũng như thực trạng quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang hiện nay. + Từ hai nhiệm vụ trên, đề tài có nhiệm vụ phải nêu lên được phương hướng và những giải pháp chủ yếu để quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang tốt hơn trong thời gian tới. 5 - Phương pháp của đề tài: Đề tài này thuộc thể loại nghị luận kinh tế - xã hội. Do đó, trong quá trình nghiên cứu và thể hiện, luận văn coi trọng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời bám sát vào quan điểm đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực của đề tài nêu ra. Để thể hiện đề tài, luận văn còn sử dụng tổng hợp phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp từ tình hình và các số liệu của thực tiễn, để từ đó rút ra những nhận xét có căn cứ. Luận văn còn coi trọng tính kế thừa có chọn lọc thành quả của những công trình, những tác giả đã nghiên cứu vấn đề này. - Phạm vi của đề tài: Vấn đề quản lý và sử dụng NSNN là một vấn đề rộng lớn, khó khăn và phức tạp, đặc biệt là đối với những địa phương như Hà Giang nền kinh tế còn ở trình độ thấp và phát triển chậm. Tuy nhiên, trong khuôn khổ có mức độ của luận văn cử nhân chính trị, đề tài chỉ giới hạn ở phạm vi nghiên cứu công tác quản lý và sử dụng NSNN ở một địa phương - đó là tỉnh Hà Giang. Trong đó tập trung làm rõ thực trạng của quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh và qua đó nêu lên một số giải pháp để thực hiện quản lý tốt hơn NSNN của tỉnh. Đề tài không đủ điều kiện để nghiên cứu và thể hiện hết mọi khía cạnh của đề tài nói trên. 3. Bố cục của luận văn. Ngoài phần đặt vấn đề, kiến nghị và kết luận, nội dung của luận văn gồm cả 3 phần chính sau đây: Phần thứ nhất: Một số vấn đề lý luận chung về ngân sách Nhà nước (NSNN). Phần thứ hai: Tình hình cơ bản về tự nhiên - kinh tế - xã hội và thực trạng công tác quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang. Phần thứ ba: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu để nâng cao công tác quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang. 6 Nội Dung Luận Văn Phần thứ nhất Một số vấn đề lý luận chung về ngân sách Nhà nước (NSNN ) I. Khái niệm về NSNN và chính sách tài khoá. 1. Ngân sách Nhà nước . a. Khái niệm NSNN: Thuật ngữ "NSNN " có từ lâu và ngày nay được dùng phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội và được diễn đạt dưới nhiều góc độ khác nhau. Song quan niệm NSNN được bao quát nhất cả về lý luận và thực tiễn của nước ta hiện nay là: NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng của Nhà nước. Trong thực tế nhìn bề ngoài, hoạt động NSNN là hoạt động thu chi tài chính của Nhà nước. Hoạt động đó đa dạng, phong phú, được tiến hành hầu hết trên các lĩnh vực, tác động đến mọi chủ thể kinh tế - xã hội. Tuy đa dạng, phong phú như vậy, nhưng chúng có những đặc điểm chung: Các hoạt động thu chi của NSNN luôn luôn gắn chặt với quyền lực kinh tế - chính trị của Nhà nước, được Nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất định. Đằng sau những hoạt động thu chi tài chính đó chứa đựng nội dung kinh tế - xã hội nhất định và chứa đựng các quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích nhất định. Trong các quan hệ lợi ích đó, lợi ích 7 quốc gia, lợi ích chung bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu và chi phối các mặt lợi ích khác trong thu, chi ngân sách Nhà nước. Quá trình thực hiện các chỉ tiêu thu, chi NSNN nhằm hình thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước và là quá trình phân phối và phối lại giá trị tổng sản phẩm xã hội phục vụ cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trên các lĩnh vực, trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Như vậy, chúng ta thấy rằng thu, chi của NSNN hoàn toàn không giống bất kỳ một hình thức thu chi của một loại quỹ nào. Thu của NSNN phần lớn đều mang tính chất bắt buộc, còn các khoản chi của NSNN lại mang tính chất không hoàn lại. Đây là đặc trưng nổi bật của NSNN trong bất cứ một Nhà nước nào. Xuất phát từ quyền lực của Nhà nước và các nhu cầu về tài chính để thực hiện chức năng quản lý và điều hành của Nhà nước đối với nền kinh tế - xã hội. Do nhu cầu chi tiêu của mình, Nhà nước đã sử dụng quyền lực thông qua hệ thống pháp luật tài chính buộc mọi pháp nhân và thể nhân phải đóng góp một phần thu nhập của mình cho NSNN, tức là các chủ thể kinh tế thực hiện nghĩa vụ của mình với Nhà nước. Sự bắt buộc đó là hoàn toàn khách quan, vì lợi ích của toàn xã hội chứ không phải phục vụ cho lợi ích riêng của Nhà nước. Các đối tượng nộp thuế cũng hoàn toàn ý thức được nghĩa vụ của mình trong việc đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. Họ cũng hiểu được vai trò của Nhà nước trong việc sử dụng các nguồn lực tài chính nhằm thực hiện các chức năng kinh tế, xã hội, do nhân dân giao phó. Sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước chính là yếu tố quyết định tính chất hoạt động của NSNN, nói lên bản chất của NSNN. Mọi hoạt động của NSNN đều nhằm vào việc tạo lập và sử dụng các nguồn lực tài chính, nó phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể trong xã hội, phát sinh do Nhà nước tạo lập thông qua NSNN. Đó là mối quan hệ kinh tế giữa phần nộp vào NSNN và phần để lại cho các chủ thể kinh tế trong xã hội. Phần nộp vào ngân sách sẽ tiếp tục được phân phối lại nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước và phục vụ cho các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. 8 Với quyền lực tối cao của mình, Nhà nước có thể sử dụng các công cụ sẵn có để bắt buộc mỗi thành viên trong xã hội cung cấp cho mình các nguồn lực tài chính cần thiết. Song cơ sở tạo lập các nguồn lực tài chính xuất phát từ sản xuất, mà chủ thể của sản xuất chính là các thành viên trong xã hội. Mọi thành viên đều có lợi ích kinh tế và đấu tranh bảo vệ lợi ích kinh tế đó, nghĩa là thông qua quyền lực của mình, Nhà nước sử dụng các công cụ, chính sách giải quyết hài hoà giữa lợi ích Nhà nước và lợi ích của các thành viên trong xã hội. Do vậy muốn có NSNN đúng đắn, lành mạnh thì phải tôn trọng và vận dụng các quy luật kinh tế một cách khách quan, phải dựa trên cơ sở đảm bảo ... định của NSNN. Tăng cường quản lý và điều hành chi ngân sách theo dự toán được giao đầu năm, có chia ra quý, tháng. Kiểm soát các khoản chi qua kho bạc Nhà nước theo đúng cách ăn bản hướng dẫn hiện hành. Quản lý chặt chẽ các khoản chi mua sắm, sửa chữa và vốn xây dựng cơ bản. 3. Các khoản chi phát sinh ngoài kế hoạch dự toán cần phải được xem xét kỹ lưỡng, nếu cần thiết phải chi thì phải tính đến nguồn đảm bảo hoặc phải giảm chi các khoản khác tương ứng, tránh tình trạng duyệt phát sinh tuỳ tiện không tính toán đến nguồn đảm bảo chi. Trong khâu phê duyệt dự toán chi ngân sách hàng năm, cần tính đến mục tiêu trước mắt và lâu dài, trong việc bố trí cơ cấu chi, đặc biệt là các khoản chi về 54 đầu tư phát triển, vì khoản chi này có tác dụng trực tiếp đến việc phát huy hiệu quả cho nền kinh tế và khả năng thu hồi vốn nhanh hay chậm, khả năng tạo nguồn tích luỹ vốn để thực hiện tái sản xuất mở rộng nền kinh tế, mà trực tiếp là huy động vốn cho CNH, HĐH. Vấn đề này đặc biệt quan trọng đối với Hà Giang một tỉnh có nhu cầu vốn để phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện xoá đói giảm nghèo, tăng cường quản lý của các cơ quan quản lý Nhà nước nhằm giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội cuả tỉnh có hàng trăm km biên giới với nước bạn. Trong điều kiện nguồn thu ngân sách có hạn thì cần tập trung ngân sách ưu tiên cho đầu tư phát triển, ưu tiên vốn đầu tư cho chi giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, môi trường trong cơ cấu chi thường xuyên. Triệt để trên cơ sở triển khai thực hiện tốt pháp lệnh tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, hạn chế chi có tính chất tiêu dùng, quản lý hành chính Nhà nước, những khoản chi mua sắm, sửa chữa. Bố trí dự phòng, dự trữ tài chính trong ngấn sách đủ mạnh để chủ động đối phó và giải quyết khắc phục hậu quả thiên tai thất thường đột suất có thể phát sinh. 4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với đơn vị sử dụng ngân sách, nhằm phát triển và uốn nắn kịp thời những sai phạm trong công tác quản lý và chi tiêu NSNN. Hiện nay, trong cơ chế thị trường thì đây là vấn đề vừa bức xúc vừa mang tính chất quyết liệt vì tính chất vi phạm khá phổ biến và phải đấu tranh với chính bản thân và trong nội bộ. 5. Đặc biệt quan tâm nâng cao toàn diện đội ngũ cán bộ. Đội ngũ cán bộ là yếu tố quyết định đến thành công hay thất bại đến hiệu quả công tác, hiệu quả kinh tế-xã hội cao hay thấp. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý NSNN lại càng như thế. Vì đội ngũ cán bộ này trực tiếp quản lý tiền, của. Vì vậy, một mặt phải được đào tạo một cách cơ bản về trình độ chuyên môn, trình độ quản lý, năng lực tổ chức thực hiện và phải được rèn luyện thử thách để có đủ phẩm chất và bản lĩnh phục vụ tốt chức năng và nhiệm vụ được giao. Mặt khác, cần thường xuyên làm cho đi đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ để không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực quản lý và phẩm chất đạo đức, nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý NSNN trên địa bàn tỉnh. 55 kiến nghị và kết luận I. kiến nghị. Trong những năm qua NS địa phương đã tích cực khai thác, nuôi dưỡng nguồn thu trên địa bàn và được sự hỗ trợ có hiệu quả của NSTW, cho nên đã cơ bản đáp ứng yêu cầu chi thường xuyên và chi cho đầu tư phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Nhờ đó mà các loại hình kinh tế mới được hình thành, cơ cấu kinh tế có sự chuyển đổi theo hướng phát triển sản xuất hàng hoá. Đồng thời cơ chế quản lý tài chính nói chung, NSNN nói riêng cũng có sự đổi mới cho phù hợp với hoạt động sản xuất -kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường. Tuy nhiên, để tiếp tục nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng NSNN trên địa bàn tỉnh trong những năm tới. Với tư cách là một cán bộ chuyên môn trong ngành tài chính, chúng tôi xin nêu lên một số kiến nghị sau đây: 1. Kiến nghị với Nhà nước. - Đề nghị Nhà nước có chính sách hỗ trợ chiến lược phát triển đối với tỉnh miền núi như: chính sách thuế ưu tiên, miễm giảm thuế thu nhập đối với các nhà đầu tư sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trên lĩnh vực sản xuất công nghiệp chế biến, nông nghiệp; chính sách về giảm lãi suất cho vay và điều chỉnh thời hạn vay phù hợp với từng lĩnh vực đầu tư, các chính sách về phát triển văn hoá, xã hội. 56 - Tích cực tuyên truyền luật NSNN, các chính sách chế độ thể lệ khác về tài chính, NS trên các phương tiện thông tin đại chúng để toàn dân hiểu và tự giác tổ chức thực hiện. - Tăng cường công tác kiểm tra, tổng kết đúc rút kinh nghiệm tiếp thu lắng nghe ý kiến của các cấp, các ngành để điều chỉnh bổ sung hoàn thiện luật NSNN sát với thực tế. Có chế độ khen thưởng thích đáng đối với những địa phương làm tốt công tác quản lý NSNN. 2. Kiến nghị với Bộ tài chính. - Khi xây dựng thuế suất phải đảm bảo tính cụ thể, cách tính thuế phải thật đơn giản, dễ hiểu để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người khi thực hiện. Các văn bản hướng dẫn tổ chức thu thuế và phải bao quát hết các nguồn thu kiểu thuế suất áp dụng khi tính thuế phải áp dụng đúng với loại sản phẩm hàng hoá đó. - Nghiên cứu để tăng định mức chi thường xuyên cho các tổ chức sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá phù hợp với thực tiễn của các tỉnh miền núi, bổ sung chính sách nhằm động viên khuyến khích và tạo mọi điều kiện đối với đội ngũ cán bộ công tác ở vùng núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa. - Tăng cường công tác kiểm tra giám sát ngay từ khâu lập, chấp hành, quyết toán NSNN đối với các đơn vị thuộc đối tượng cấp phát ngân sách về việc chấp hành chế độ thể lệ tài chính và mục đích chi tiêu. 3. Kiến nghị với tỉnh. - Cần đổi mới phân cấp quản lý ngân sách cho các cấp ngân sách để các cấp đó chủ động, sáng tạo trong quản lý thu - chi có hiệu quả cao nhất. Tăng cường hơn nữa tính chủ động và giao quyền cho các cấp chính quyền huyện, xã trong việc thực hiện các nhiệm vụ khai thác nguồn thu, bố trí kế hoạch chi đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn huyện, xã. - Cần phải có sự quy định cụ thể về việc quản lý, tuyển chọn, sử dụng và thay thế đội ngũ cán bộ kế toán ngân sách xã một cách hợp lý giữa các cấp chính quyền và ngành chuyên môn vì theo phân cấp ngân sách thì ngân sách xã là một cấp ngân sách cần phải có đội ngũ cán bộ có chuyên môn, nghiệp vụ thực thi nhiệm vụ, tránh tình trạng để đội ngũ 57 cán bộ xã thay đổi cùng với kỳ bầu cử của xã, làm cho công tác quản lý ngân sách xã không đi vào nề nếp, hoạt động kém hiệu quả. II. kết luận. NSNN là một trong những công cụ vô cùng quan trọng để Nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô nền kinh tế-xã hội của bất kỳ một quốc gia nào. Đối với nước ta, do các đặc điểm của TKQĐ và tình hình phát triển nhanh chóng của thế giới trên tất cả các mặt kinh tế-xã hội, khoa học, kỹ thuật và công nghệ... Cho nên sự phát triển lớn mạnh của NSNN có vai trò đặc biệt quan trọng. Đất nước ta tiến lên CNXH từ điểm xuất phát về kinh tế quá thấp, trong khi nhu cầu về xây dựng và phát triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH đất nước lại đòi hỏi số lượng, chất lượng, cơ cấu vốn tài chính rất lớn và cấp bách. Tình hình đó đòi hỏi phải nâng cao sự quản lý vốn tài chính, vốn ngân sách có hiệu quả. Có như vậy mới tạo điều kiện về tài chính cho tất cả các hoạt động kinh tế- xã hội, khai thác có hiệu quả tối đa các nguồn vốn nội lực và tiếp thu có hiệu quả nguồn vốn bên ngoài dưới nhiều hình thức. Ngoài nhu cầu tài chính cho các hoạt động kinh tế-xã hội, thì nhu cầu tài chính cho sự hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước cũng phải được đáp ứng thường xuyên và ngày càng tăng. Vì vậy phấn đấu xây dựng một nền NSNN lớn mạnh, ổn địn vững chắc mà nguồn thu chủ yếu là từ nội bộ. Song, để có được một nền NSNN như vậy thì cần phải giải quyết một loạt các giải pháp vĩ mô của Nhà nước, trong đó có giải pháp thực hiện đổi mới cơ chế quản lý NSNN có vai trò vô cùng quan trọng. Muốn đổi mới công tác quản lý NSNN thì phải xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý sao cho phù hợp yêu cầu mới của nền kinh tế thị trường. Đồng thời thực hiện tốt các giải pháp như trong luận văn đã nêu. Vai trò của công tác quản lý NSNN nêu trên cũng rất đúng với tất cả các địa phương, các ngành. Đối với tỉnh miền núi biên giới Hà Giang, vai trò của NSNN lại càng đặc biệt quan trọng khi đặt nó trong hoàn cảnh cụ thể về kinh tế- chính trị- xã hội- an ninh- quốc phòng, khi đặt nó trong sự nghiệp CNH, HĐH nền kinh tế của tỉnh. Vì lẽ đó, việc nâng cao công tác quản lý và sử dụng NSNN là một yêu cầu khách quan, vừa có tính cấp bách, vừa có tính cơ bản lâu dài. 58 Quản lý và sử dụng có hiệu quả NSNN là nghĩa vụ vừa là quyền lợi thiết thực của các cấp, các nganh, các đoàn thể từ trung ương đến địa phương, cơ sở là sự nghiệp của toàn dân của các thành phần kinh tế. Trong đó ngành tài chính- tiền tệ đóng vai trò trực tiếp và trọng yếu. Trên cơ sở đó xây dựng một nền NSNN của tỉnh vững mạnh góp phần vào thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế-xã hội- an ninh- quốc phòng mà Nghị quyết đại hội lần thứ 12 của tỉnh Đảng bộ đã đề ra. Luận văn cử nhân chính được hoàn thành với sự nỗ lực của bản thân về sự tiếp thu các kiến thức nguyên lý, quan điểm trong những năm học tập ở Phân Viện Hà Nội. Ngoài ra, đạt được kết quả này còn phải kể đến sự giúp đỡ tận tình, chu đáo và có hiệu quả của thầy giáo Phan Ngọc Châu- khoa Kinh tế chính trị Phân Viện Hà Nội và các thầy, cô giáo khác của Phân Viện Hà Nội. Kết quả này cò có sự giúp đỡ đáng kể của UBND tỉnh mà trực tiếp là Sở tài chính Hà Giang. Xin chân thàn cảm ơn mọi sự giúp đỡ quý báu đó. danh mục tài liệu tham khảo 1. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII. 2. Các nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng trong đó có các nội dung liên quan đề tài. 3. Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ Hà Giang lần thứ XII. 4. Tài liệu giáo khoa KTCT - Phân Viện Hà Nội. 5. Tài liệu giáo khoa quản lý kinh tế - Phân Viện Hà Nội. 6. Tài liệu giáo khoa kinh tế phát triển- Phân Viện Hà Nội. 7. Đổi mới chính sách và cơ chế quản lý tài chính phục vụ CNH, HĐH đất nước, Nxb Tài chính, HN 6/1996. 8. Tài chính học, Nxb Thống kê 1993. 9. Luật NSNN, Nxb Chính Trị Quốc Gia, HN 1996. 10. Luật thuế giá trị gia tăng (VAT). 11. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. 59 12. Nghị định số 51/ND - CP ngày 18/7/1998 sửa đổi một số điều nghị định 87/CP. 13. Thông tư số 103/TT - BTC ngày 18/7/1998 của Bộ tài chính hướng dẫn việc phân cấp, lập, chấp hành và quyết toán NSNN. 14. Kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội của tỉnh Hà Giang 1997-2000. 15. Báo cáo tình thực hiện thu-chi NSĐP năm 1997 của UBND tỉnh Hà Giang. 16. Báo cáo thực hiện kết quả thu-chi NSĐP năm 1998 và những nhiệm vụ thu- chi NSĐP năm 1999 của UBND tỉnh Hà Giang. 17. Báo cáo kết quả thực hiện thu-chi ngân sách năm 1999 và phương hướng, nhiệm vụ thu- chi ngân sách năm 2000 của UBND tỉnh Hà Giang. 18. Số liệu tổng hợp thu -chi NSĐP của chi cục thống kê- vật giá tỉnh Hà Giang. 19. Các bài báo Đảng trên các tạp chí và các báo hàng ngày có liên quan đến đề tài.
File đính kèm:
- luan_van_mot_so_van_de_ve_nang_cao_cong_tac_quan_ly_va_su_du.pdf