Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam - Đề bài: Phân tích quan điểm của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội trong thời kì đổi mới hội nhập quốc tế từ nắm 1986 đến nay. Trình bày suy nghĩ của nhóm về một số vấn đề xã hội hiện nay
Trong quá trình hoạt động của mình,vào Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986), lần đầu tiên Đảng ta nâng các vấn đế xã hội lên tầm chính sách xã hội. Đây là sự đổi mới tư duy về giải quyết các vấn đề xã hội được đặt trong tổng thể đường lối phát triển của đất nước, đặc biệt là giải quyết mối quan hệ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội. Vậy quan điểm của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội trong thời kì đổi mới hội nhập quốc tế từ nắm 1986 đến nay được đặt ra như thế nào ? Chúng ta hãy cùng nhau phân tích để hiểu thêm
Trước tiên,để hiểu về các chính sách,quan điểm của Đảng ta cần phải hiểu được thế nào là vấn đề xã hội. Vấn đề xã hội là tất cả những gì liên quan đến con người, các nhóm người, các cộng đồng người đến sự tồn tại, phát triển của con người trong một hoàn cảnh xã hội nhất định được nhận thức như một vấn nạn của xã hội, đụng chạm đến lợi ích của một cộng đồng. Đó là sản phẩm của con người có ảnh hưởng đến một nhóm người nhất định và chỉ có thể được khắc phục thông qua hành động xã hội.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam - Đề bài: Phân tích quan điểm của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội trong thời kì đổi mới hội nhập quốc tế từ nắm 1986 đến nay. Trình bày suy nghĩ của nhóm về một số vấn đề xã hội hiện nay

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ -----***----- BÀI TẬP LỚN MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỀ BÀI : Phân tích quan điểm của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội trong thời kì đổi mới hội nhập quốc tế từ nắm 1986 đến nay.Trình bày suy nghĩ của nhóm về một số vấn đề xã hội hiện nay Lớp : Đường lối cách mạng của ĐCSVN_21 Nhóm 5 Hà Nội, tháng 2 năm 2017 BÀI LÀM LỜI MỞ ĐẦU Trong quá trình hoạt động của mình,vào Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986), lần đầu tiên Đảng ta nâng các vấn đế xã hội lên tầm chính sách xã hội. Đây là sự đổi mới tư duy về giải quyết các vấn đề xã hội được đặt trong tổng thể đường lối phát triển của đất nước, đặc biệt là giải quyết mối quan hệ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội. Vậy quan điểm của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội trong thời kì đổi mới hội nhập quốc tế từ nắm 1986 đến nay được đặt ra như thế nào ? Chúng ta hãy cùng nhau phân tích để hiểu thêm Trước tiên,để hiểu về các chính sách,quan điểm của Đảng ta cần phải hiểu được thế nào là vấn đề xã hội. Vấn đề xã hội là tất cả những gì liên quan đến con người, các nhóm người, các cộng đồng người đến sự tồn tại, phát triển của con người trong một hoàn cảnh xã hội nhất định được nhận thức như một vấn nạn của xã hội, đụng chạm đến lợi ích của một cộng đồng. Đó là sản phẩm của con người có ảnh hưởng đến một nhóm người nhất định và chỉ có thể được khắc phục thông qua hành động xã hội. PHẦN NỘI DUNG * Vấn đề xã hội là tất cả những gì liên quan đến con người, các nhóm người, các cộng đồng người đến sự tồn tại, phát triển của con người trong một hoàn cảnh xã hội nhất định được nhận thức như một vấn nạn của xã hội, đụng chạm đến lợi ích của một cộng đồng. 1 - Quan điểm của đảng về các vấn đề xã hội trong các kì đại hội : 1.1, Đại hội VI Đại hội VI của Đảng (12/1986) lần đầu tiên nêu lên khái niệm “ Chính sách xã hội”. Đây là sự đổi mới về tư duy về giải quyết các vấn đề xã hội được đặt trong tổng thể đường lối phát triển của Đất nước, đặc biệt là giải quyết mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội. Đại hội cho rằng trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh tế. Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế ở chỗ đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người. Phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, đồng thời thực hiện tốt các chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Từ những quan điểm nêu trên, Đại hội VI đã đề ra chủ trương về giải quyết các vấn đề xã hội như: Phấn đấu hạ tỷ lệ phát triển dân số, coi đây là một điều kiện quan trọng để tăng thu nhập quốc dân bình quân đầu người, để thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội; Đảm bảo việc làm cho người lao động là nhiệm vụ kinh tế - xã hội hàng đầu... theo phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm”. Như vậy, chủ trương của Đại hội VI về lĩnh vực xã hội, tập trung vào các vấn đề: lao động và việc làm; ổn định và nâng cao đời sống nhân dân; thực hiện kế hoạch hoá gia đình, chăm lo người có công với cách mạng, phòng chống các tệ nạn xã hội... Trong đó, tư duy mới của Đảng thể hiện thông qua các chủ trương: giải quyết chính sách xã hội là nhiệm vụ gắn bó hữu cơ với đổi mới kinh tế; vấn đề lao động, việc làm được giải quyết gắn với phát triển nhiều thành phần kinh tế; nâng cao đời sống của nhân dân gắn với thực hiện ba chương trình kinh tế lớn. - Nội dung chủ trương : Đại hội lần thứ VII của Đảng: Đổi mới toàn diện, đồng bộ, đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa + Có bước đột phá mới trong nhận thức về khái niệm CNH hiện đại hóa + Rút ra năm kinh nghiệm trong tiến hành công cuộc đổi mới: (1) Phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới. (2) Đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. (3) Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nưóc về kinh tế - xã hội. (4) Phát huy ngày càng sâu rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. (5) Quan tâm dự báo tình hình, kết hợp phát hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh, tăng cường tổng kết thực tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. - Phương hướng mục tiêu nhiệm vụ : Đại hội VII đề ra Kế hoạch 5 năm 1991-1995 và quyết định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế xã hội của Kế hoạch là: +Đẩy lùi và kiểm soát lạm phát +ổn định phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản xúât xã hội +Bước đầu ổn định và từng bước cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động. +Bắt đầu có tích lũy từ nội 1.2, Đại hội VIII : - Khuyết điểm và yếu kém Tình hình xã hội còn nhiều vấn đề tiêu cực và nhiều vấn đề phải giải quyết. Nạn tham nhũng, buôn lậu, lãng phí của công chưa ngăn chặn được. Tiêu cực trong bộ máy nhà nước, Đảng và đoàn thể, trong các doanh nghiệp nhà nước, nhất là trên các lĩnh vực nhà đất, xây dựng cơ bản, hợp tác đầu tư, thuế, xuất nhập khẩu nghiêm trọng kéo dài. Việc làm đang là vấn đề gây gắt. Sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng thành thị và nông thôn và giữa các tầng lớp dân cư tang nhanh. - Nhiệm vụ và mục tiêu Chính sách giải quyết một số vấn đề xã hội theo quan điểm: tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển: khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo. Thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, “nhân hậu thủy chung”. 1.3, Đại hội IX : Đại hội IX đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch của 5 năm (1996-2000) : văn hóa, xã hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; chủ trương các chính sách xã hội phải hướng vào phát triển và làm lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp. Yếu kém, khuyết điểm: Một số vấn đề văn hóa – xã hội bức xúc chậm được giải quyết. 1.4, Đại hội X,XI: -Quá trình đổi mới nhận thức về giải quyết các vấn đề xã hội: + Đại hội X: chủ trương kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương + Đại hội XI: chủ trương phát triển toàn diện, mạnh mẽ các lĩnh vực văn hoá, xã hội hài hoà với phát triển kinh tế. -Quan điểm về giải quyết các vấn đề xã hội ở đại hội X và XI: + Một là, kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội: mục tiêu phát triển kinh tế phải tính đến mục tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội có liên quan trực tiếp. Phải tạo được sự thống nhất, đồng bộ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội. + Hai là, xây dựng và hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế tiến bộ , công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển: cần đặt rõ và xử lý việc gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ công bằng xã hội. Phát triển " sạch ", phát triển hài hoà, không chạy theo số lượng, tăng trưởng bằng mọi giá. + Ba là, chính sách xã hội được thực hiện trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn bó hữu cơ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ: trong chính xã hội, phải gắn bó giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ. Đó là 1 yêu cầu của công bằng xã hội và tiến bộ xã hội. + Bốn là, coi trọng chỉ tiêu GDP bình quân đầu người gắn với chỉ tiêu phát triển con người ( HDI ) và chỉ tiêu phát triển các lĩnh 1.5, Đại hội XII : Trên cơ sở quán triệt và lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện việc thực hiện các quan điểm. Đồng bộ công cuộc đổi mới, phát huy mọi nguồn lực và động lực để phát triển đất nước nhanh, bền vững. - Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. - Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. - Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. 2 - Tích cực và hạn chế của các quan điểm 2.1, Tích cực: Sau gần 30 năm đổi mới chính sách xã hội , nhận thức về vấn đề phát triển xã hội của Đảng và nhân dân ta đã có những thay đổi ý nghĩa sau đây : Từ tâm lý thụ động , ỷ lại vào nhà nước và tập thể , trông chờ viện trợ đã chuyển sang tính năng động , chủ động và tính tích cực xã hội của các tầng lớp dân cư . Từ chỗ đề cao quá mức lợi ích của tập thể một cách chung chung ,trừu tượng ,thi hành chế độ phân phối theo lao động trên danh nghĩa đã chuyển sang thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế , đồng thời phân phối theo mức đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất , kinh doanh và phúc lợi xã hội , Nhờ vậy công bằng xã hội được thể hiện ngày một rõ hơn .Chính sách kinh tế đã đi đến thống nhất với chính sách xã hội . Từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa giàu nghèo , đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với với tích cưc xóa đói , giảm nghèo . Từ chỗ nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế , chính sách để các thành phần kinh tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm Cơ cấu xã hội đa dạng hơn không còn thuần nhất là công nông trí, mà các giai cấp, tầng lớp dân cư đều có nghĩa vụ, quyền lợi chính đáng , đoàn kết chặt chẽ. Tĩnh năng động khác hẳn thời bao cấp. Một xã hội mở đang dần dần hình thành với những con người không chờ bao cấp, dám nghĩ , dám chịu trách nhiệm, vì Tổ quốc . Cách thức quản lý xã hội dân chủ, cởi mở hơn, đề cao pháp luật hơn. Đã xuất hiện ngày càng đông đảo các doanh nhân , tiểu chủ , chủ trang trại và các nhóm xã hội phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh . Thành tựu xóa đói giảm nghèo được nhân dân đồng tình và quốc tế công nhận. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ , cố gắng thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục , chăm soc sức khỏe nhân dân , tạo điều kiện cho ai cũng được học hành , có chính sách trợ cấp , bảo hiểm y tế cho người nghèo . 2.2, Hạn chế Giáo dục và đào tạo còn những hạn chế, yếu kém kéo dài, gây bức xúc trong xã hội nhưng chưa được tăng cường trong lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết. Trong sự nghiệp giáo dục toàn diện, dạy làm người, dạy nghề là yếu kém nhất. Áp lực gia tăng dân số vẫn còn lớn. Chất lượng dân số còn thấp đang là cản trở lớn đối với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế.Vấn đề việc làm rất bức xúc và nan giải Sự phân hoá giàu - nghèo và bát công xã hội tiếp tục gia tăng đáng lo ngại Mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân còn thấp, chênh lệch lớn giữa các vùng, giữa các tầng lớp dân cư Một số vấn đề xã hội bức xúc cũ và phát sinh mới chậm được giải quyết Tệ nạn xã hội gia tăng và diễn biến phức tạp, gây thiệt hại lớn về kinh tế và an sinh xã hội Môi trường sinh thái bị ô nhiễm tiếp tục tăng lên, tài nguyên bị khai thác bừa bãi và tàn phá Hệ thống giáo dục y tế lạc hậu, xuống cấp, có nhiều bất cập, an sinh xã hội chưa được dảm bảo 3 - Quan điểm của Đảng về giải qu ết các vấn đề xã hội ngà na c nhiều đổi mới so với trước đ Thời kỳ trước đổi mới Trong thời kỳ trước đổi mới - Giai đoạn 1945-1954: các vấn đề xã hội được giải quyết trong mô hình dân chủ nhân dân - +Chính phủ có chủ trương và hướng dẫn để các tầng lớp nhân dân chủ động và tự tổ chức, giải quyết các vấn đề xã hội của chính mình. - +Chính sách tăng gia sản xuất nhằm tự cấp tự túc, chủ trương tiết kiệm, đồng cam cộng khổ trở thành phòng trào rộng rãi , từ cơ quan chính phủ đến bộ đội, dân chúng được côi trọng như đánh giặc. - + Khuyến khích mội thành phần xã hội phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường. Thực hiện chính sách điều hòa lợi ích giữa chủ và thợ. - Giai đoạn: 1955-1975: Các vấn đề xã hội được giả quyết trong mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, trong Qúa trình đổi mới nhận thức về giải quyết các vấn đề xã hội qua các văn kiện đại hội Đảng=>từ các văn kiện ta có thể đưa ra các kết luận sau để giải quyết các vấn đề xã hội: + Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội + Xây dựng và hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển. +Chính sách xã hội được thực hiện trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn bó hữu cơ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống và hưởng thụ + Cọi trọng chỉ tiêu GDP bình quân đầu người gắn với chỉ tiếu phát triển con người HDI và chỉ tiêu phát tiển các lĩnh vực xã hội. hoàn cảnh chiến tranh. Chế độ phân phối về thực chất là theo chủ nghĩa bình quân. Nhà nước và tập thể đáp ứng các nhu cầu xã hội thiết yếu
File đính kèm:
duong_loi_cach_mang_cua_dang_cong_san_viet_nam_de_bai_phan_t.docx