Tiểu luận Giá trị truyền thống Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá hiện nay

Trong nền văn hoá Việt Nam như nghị quyết Trung Ương 5 (khoá VIII)

khẳng định, mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, kế thừa và phát triển,

dân tộc và quốc tế là thống nhất hữu cơ. Vì vậy, phát triển tất yếu đặt ra yêu

cầu phải kế thừa. Kế thừa là mối liên hệ giữa những giai đoạn của quá trình

phát triển, trong đó cái mới lọc bỏ cái cũ, giữ lại trong mình một số yếu tố của

cái cũa, tức là bảo toàn yếu tốt này hay yếu tốt khác của hệ thống, chứ không

phủ định toàn bộ, phủ định sạch trơn. Như vậy kế thừa là cơ sở không thể

thiếu được của phát triển bền vững.

Song ngày nay có nhiều ví dụ trong và ngoài nước rung chuông báo

động về hiện trạng thế hệ trẻ rất ít quan tâm đến truyền thống dân tộc. Qua

khảo sát 1800 thanh niên thuộc nhiều tầng lớp xã hội ở thành phố Hồ Chí

Minh vào giữa những năm 90 thì: 43% cho rằng Việt Nam có 100 dân tộc

khác nhau. 60% kể sai và không kể được một di tích lịch sử, văn hoá trên địa

bàn thành phố. 59% trong tổng số 468 sinh viên của 9 trường đại học không

biết Chu Văn An và Lương Thế Vinh là ai. Trong khi đó hầu hết những người

được hỏi đều có thể kể rõ tên tuổi những tài tử điện ảnh, ca sĩ, vận động viên

thể thao nước ngoài kể cả những chi tiết đời tư, tính cách của họ.

Vì thế trong xu thế toàn cầu hoá để có thể hoà nhập giao lưu với các

nước trên thế giới chúng ta phải mở cửa giao lưu về kinh tế và văn hoá tuy

nhiên trong quá trình giao lưu đó vấn đề đặt ra là làm sao chúng ta có thể giữ

vững nền truyền thống của nước ta trước sự hội nhập giao lưu đó.

pdf 17 trang chauphong 20/08/2022 5640
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Giá trị truyền thống Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Giá trị truyền thống Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá hiện nay

Tiểu luận Giá trị truyền thống Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá hiện nay
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG 
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
********** 
Tiểu luận 
 ĐỀ TÀI: 
 “GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM TRƯỚC 
 XU THẾ TOÀN CẦU HOÁ HIỆN NAY” 
 Giảng viên hướng dẫn : TS Võ Minh Tuấn 
 Sinh viên thực hiện : Đỗ Thành Trung 
 Lớp : ĐH 21/6 
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
THÁNG 3 NĂM 2006 
LỜI MỞ ĐẦU 
Trong nền văn hoá Việt Nam như nghị quyết Trung Ương 5 (khoá VIII) 
khẳng định, mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, kế thừa và phát triển, 
dân tộc và quốc tế là thống nhất hữu cơ. Vì vậy, phát triển tất yếu đặt ra yêu 
cầu phải kế thừa. Kế thừa là mối liên hệ giữa những giai đoạn của quá trình 
phát triển, trong đó cái mới lọc bỏ cái cũ, giữ lại trong mình một số yếu tố của 
cái cũa, tức là bảo toàn yếu tốt này hay yếu tốt khác của hệ thống, chứ không 
phủ định toàn bộ, phủ định sạch trơn. Như vậy kế thừa là cơ sở không thể 
thiếu được của phát triển bền vững. 
Song ngày nay có nhiều ví dụ trong và ngoài nước rung chuông báo 
động về hiện trạng thế hệ trẻ rất ít quan tâm đến truyền thống dân tộc. Qua 
khảo sát 1800 thanh niên thuộc nhiều tầng lớp xã hội ở thành phố Hồ Chí 
Minh vào giữa những năm 90 thì: 43% cho rằng Việt Nam có 100 dân tộc 
khác nhau. 60% kể sai và không kể được một di tích lịch sử, văn hoá trên địa 
bàn thành phố. 59% trong tổng số 468 sinh viên của 9 trường đại học không 
biết Chu Văn An và Lương Thế Vinh là ai. Trong khi đó hầu hết những người 
được hỏi đều có thể kể rõ tên tuổi những tài tử điện ảnh, ca sĩ, vận động viên 
thể thao nước ngoài kể cả những chi tiết đời tư, tính cách của họ. 
 Vì thế trong xu thế toàn cầu hoá để có thể hoà nhập giao lưu với các 
nước trên thế giới chúng ta phải mở cửa giao lưu về kinh tế và văn hoá tuy 
nhiên trong quá trình giao lưu đó vấn đề đặt ra là làm sao chúng ta có thể giữ 
vững nền truyền thống của nước ta trước sự hội nhập giao lưu đó. 
CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG 
1.1 Giá trị truyền thống là gì? 
Theo nghĩa tổng quát nhất, truyền thống đó là những yếu tố của di tồn 
văn hoá, xã hội thể hiện trong chuẩn mực hành vi, tư tưởng, phong tục tập 
quán, thói quen lối sống và cách ứng sử của cộng đồng người được hình thành 
trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được truyền từ đời này sang đời khác và 
được lưu giữ lâu dài. 
Lịch sử cho thấy rằng truyền thống mang trong bản thân nó tính hai mặt 
rõ rệt: 
 Một là: truyền thống góp phần suy tôn, giữ gìn những gì là quý giá, là 
cốt cách, là nền tảng cho sự phát triển, cho sự vận động đi lên của cộng 
đồng dân tộc. Xét từ mặt này thì truyền thống mang ý nghĩa giá trị tích cực, 
là cái góp phần tạo nên sức mạnh, là chổ dựa không thể thiếu của dân tộc 
trên đường đi tối tương lai. 
 Hai là: truyền thống đồng thời cũng còn là mảnh đất hết sức thuận lợi 
cho sự dung dưỡng, duy trì và làm sống lại mặt bảo thủ, lạc hậu, lỗi thời khi 
mà điều kiện và hoàn cảnh lịch sử đã thay đổi. Mặt thứ hai này có tác dụng 
không nhỏ trong việc kìm hãm, níu kéo, làm chậm sự phát triển của một 
quốc gia, dân tộc nào đó, nhất là khi quốc gia, dân tộc này hạn chế giao lưu 
hoặc thi hành chính sách đóng cửa với thếi giới bên ngoài vì các lý do khác 
nhau. 
Nói cách khác, khi nói đến giá trị truyền thống là nói đến những truyền 
thống nào đã có sự đánh giá, đã được thẩm định nghiêm ngặt của thời gian, đã 
có sự chọn lọc, sự phân định và khẳng định ý nghĩa tích cực của chúng đối 
với cộng đồng trong những giai đoạn lịch sử nhất định. 
Mỗi dân tộc trên khắp hành tinh này, dù ở trình độ văn minh cao hay 
thấp, dù đã phát triển hay đang phát triển thì cũng đều có những truyền thống 
đặc trưng của riêng mình và do đó có hệ thống giá trị truyền thống riêng của 
mình. Hệ thống giá trị đó chích là sự kết tinh tất cả những gì tốt đẹp nhất qua 
các thời đại lịch sử khác nhau của dân tộc để làm nên bản sắc riêng. Nó được 
truyền lại cho thế hệ sau và cùng với thời gian, cùng với sự tiến triển của lịch 
sử sẽ được bổ sung bằng các giá trị mới. Trong hệ thống các giá trị truyền 
thống Việt Nam có không ít những giá trị mà chúng ta có thể bắt gặp ở các 
dân tộc khác. Điều đó cũng thật dễ hiểu bởi vì trong cái dân tộc không bao giờ 
nằm ngoài cái nhân loại. 
1.2 Cái gì có thể được coi là truyền thống? 
Chúng ta thấy chỉ có những gì có thể đảm bảo sự tồn tại của con người, 
chỉ có những gì có thể thoả mãn nhu cầu nhân sinh mới có thể thừa nhận là 
có giá trị. Tương tự chỉ có những lý tưởng (văn hoá, tôn giáo, đạo đức) và 
những phương tiện (kỹ thuật, kỹ năng, khoa học) có thể giúp ích bảo tồn 
những giá trị đó, mới có thể được gọi là truyền thống. Truyền thống không 
bao giờ có thể có nếu nó chỉ là một sự kiện, một hiện tượng tự nhiên hoặc một 
sự áp đặt từ bên ngoài bắt chúng ta theo. 
Tóm lại, chúng ta chỉ chấp nhận những gì chúng ta nâng niu. Từ đây, cái 
được coi là truyền thống chỉ khi nào nó trở thành một bộ phận thiết yếu của 
cuộc sống chúng ta; chỉ khi nào nó bảo tồn cuộc sống chúng ta và chỉ khi nào 
nó có khả năng phát triển cuộc sống của chúng ta. Do đó, cái gì có thể được 
gọi, được coi hay được mệnh danh là truyền thống phải được xem xét từ ba 
khía cạnh của cuộc sống con người: truyền thống như là một phần của cuộc 
sống, truyền thống như là phương tiện để bảo tồn cuộc sống và truyền thống 
như là sức mạnh định hướng phát tiển cuộc sống. Nói tóm lại, truyền thống 
không thể được nhận thức ngoài văn cảnh cảu các giá trị bởi lẽ sự hình thành 
của truyền thống cũng tuân theo mô hình giống như mô hình hình thành giá 
trị. 
1.3 Giá trị và giá trị truyền thống. 
1.3.1 Những lý do phải quan tâm đến giá trị truyền thống nhân loại nói 
chung và Châu Á nói riêng. 
Mặc dù giá trị và giá trị truyền thống không phải là đề tài mới nhưng 
những điều mới mẽ được đặt ra ở đề tài này, lâu nay luôn chiếm vị trí đáng kể 
trong các sinh hoạt học thuật. Ở đây hầu như lúc nào cũng có những vấn đề 
xứng đáng được gọi là cấp bách hay là thời sự. Những vấn đề đó đương nhiên 
rất cần phải tranh cãi về phương diện nhận thức và đòi hỏi phải được nghiên 
cứu thật sâu trong các khoa học xã hội và các khoa học nhân văn. 
Ngày nay, khi những tiến bộ về khoa học kỹ thuật và công nghệ đã đạt 
tới mức vượt ra ngoài sự tưởng tượng của không ít người thì cùng với điều đó, 
sự biến động của các xã hội cũng mạnh mẽ và nhanh chóng đến mức không 
có cơ may nào mà lại không đi kèm với những nguy cơ. Bên cạnh những giá 
trị văn minh to lớn mà con người được hưởng, những hiểm hoạ cũng rình rập 
một cách thường trong tất cả các xã hội, nhất là các xã hội nghèo đói chậm 
phát triển. 
Hiện thời, mỗi khi đón nhận các thành tựu mới của nền văn minh, cái mà 
con người buộc phải quan tâm trước hết là những giá trị của những thành tựu 
đó chứ không phải là bản thân các thành tựu – những giá trị trực tiếp và 
những giá trị tiềm ẩn, những giá trị tích cực và những giá trị phát sinh có thể 
trở thành các phản giá trị, v.v Những bài học kinh nghiệm của các xã hội 
công nghiệp và thị trường, thái độ thiếu xây dựng của một vài lập trường sô 
vanh lớn và nhỏ, những tình huống bi hài của các cộng đồng thiếu dân chủ và 
chậm phát triển rõ ràng đã làm cho việc quan tâm tới các giá trị trở nên đặc 
biệt sâu sắc và có ý nghĩa. Trên thực tế, những tranh cãi nóng bỏng và căng 
thẳng về sự lựa chọn giải pháp cho chiến lượt bảo vệ môi sinh về con đường 
và thách thức thoát ra khỏi cơn bão tài chính Châu Á; về vai trò của Trung 
Quốc trong những thập kỷ tới đây; về sự đụng độ giữa các nền văn minh hay 
là về tính độc đáo của các truyền thống Châu Á, hết thảy đều là do những 
lo lắng sâu sắc về mặt giá trị. 
Nhiều nhà tư tưởng có uy tín đã khẳng định, lối thoát cho những lo lắng 
của con người về giá trị của sự phát triển hoá ra nằm ở truyền thống, hay nói 
một cách thoả đáng hơn nằm ở văn hoá mà trong đó truyền thống là một nhân 
tố đáng kể. Kinh nghiệm của các xã hội đã đạt tới trình độ phát triển cao cho 
thấy rằng bằng cách không lãng quên truyền thống, khai thác các giá trị nhân 
bản của truyền thống, làm cho các giá trị hiện đại ăn nhập không mâu thuẩn 
các giá trị truyền thống. Đó là con đường tự nhiên và tất yếu mà các xã hội 
dù muốn hay không dù nhận thức được hay chưa nhận thức được cũng đều 
phải thực hiện để đạt tới phát triển bền vững. Rõ ràng với tính cách là các 
khuôn mẫu văn hoá, giá trị truyền thống ngay cả trong điều kiện phức tạp hiện 
thời của quá trình phát triển. Xã hội càng phức tạp thì lại càng làm cho truyền 
thống lộ rõ khả năng tác động tích cực của nó. 
1.3.2 Giá trị truyền thống Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá 
Toàn cầu hoá là cơ hội lớn để văn hoá Việt Nam học hỏi và phát huy các 
giá trị của mình. Song người Việt Nam cũng lo toan khôn xiết trước các thách 
thức to lớn của toàn cầu hoá đối với các giá trị truyền thống Việt Nam. Việt 
Nam nhất thiết phải mở cửa, phải hội nhập để đón nhận những giá trị mới của 
nhân loại, đó là lẽ sống còn của dân tộc. Nhưng mở cửa là để hội nhập, để 
phát triển chứ không phải trở thành cái bóng mờ của nền văn hoá khác. Cho 
nên vấn đề đặt ra cho nước ta trong xu thế toàn cấu hoá là phải giữ được độc 
lập dân tộc, giữ được cơ cấu sinh thành nội tại của các giá trị truyền thống mà 
ta đã có. 
Hiện nay, quá trình hội nhập kinh tế thế giới thông qua làn sóng xuất 
khẩu có khả năng làm năng động hoá các giá trị Việt Nam xưa nay vẫn xem 
nặng về nghĩa, nhẹ về lợi, tạo nên sự cạnh tranh mới trong hệ thống giá trị dĩ 
hoà vi quý. Nền văn hoá của người Việt không trọng thị sự buôn bán, cho nên 
chưa xát lập được các tri thức về thị trường hiện đại nên khi tham gia hội 
nhập trong nền kinh tế toàn cầu nó có thể được các quyền lực toàn cầu dạy 
cho các bài học mới và cũng có thể bị các quyền lực thị trường ấy lấn lướt các 
giá trị mà cả ngàn năm nhân dân ta mới tạo dựng được. 
Toàn cầu hoá các quan hệ kinh tế sẽ mang lại sự hưởng thụ các sản phẩm 
vật chất và tinh thần của nhân loại với một giá rẽ hơn, một tiện nghi phong 
phú hơn. Song sự tràn ngập của hàng hoá rất có khả năng làm tha hoá các 
nhân cách, làm phá sản các quan hệ lao động, làm rối loạn mhiều giá trị xã 
hội. Trên thực tế làn sóng xuất khẩu dồn dập đã tạo ra các tệ nạn làn hàng giả, 
làn rối, làm ẩu mà hệ thống giá trị truyền thống nghiêm cấm. Có thể nói rằng 
trước làn sóng xuất khẩu dồn dập, hệ thống giá trị của nền văn hoá truyền 
thống chưa chuẩn bị kịp cho những thay đổi quá nhanh, quá xa lạ sẽ xảy ra 
tình trạng gia tăng giá trị thì ít, các giá trị truyền thống bị phá vỡ, bị vượt bỏ 
thì nhiều, nguy cơ cổ vật bị đánh cắp, nhân phẩm bị tha hoá, các phản giá trị 
gia tăng là không thể tránh khỏi. 
CHƯƠNG 2 GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM TRƯỚC 
XU THẾ TOÀN CẦU HOÁ 
2.1 Nội dung và vị thế của giá trị truyền thống ở Việt Nam. 
2.1.1 Giá trị truyền thống trong lịch sử phát triển dân tộc. 
Trong suốt lịch sử phát triển của dân tộc cho đến cuối thế kỷ XIX, đầu 
thế kỷ XX, các giá trị truyền thống của Việt Nam đã có một nội dung và vị 
thế ổn định. Sự ổn định đó được quy định trực tiế ... o đức. 
Điều đó có nghĩa là giá trị của mỗi dân tộc có cơ hội tìm được vị thế của mình 
trong giá trị nhân loại. 
2.2 Sự chuyển đổi giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam trong bối 
cảnh toàn cầu hoá. 
Trong hai thập kỷ gần đây, quá trình toàn cầu hoá diễn ra với tốc độ 
nhanh chóng, nó trở thành một thực thể của thế giới. Thế kỷ XX, nhân loại đã 
đạt được những bước phát triển manh mẽ về khoa học, kỹ thuật, kinh tế 
nhưng đồng thời cũng để lại những khoản trống lớn về văn hoá. Quá trình toàn 
cầu hoá về kinh tế cộng với sự bùng nổ của thông tin, sự xâm nhập của nhiều 
loại hình văn hoá đã đem lại những lợi ích lớn lao cho con người, nhưng 
đồng thời cũng báo hiệu nhiều nguy cơ mới trong quá trình phát triển. Nhận 
thúc rõ điền này nhiều quốc gia trên thế giới đã xem xét lại vấn đề bản sắc văn 
hoá một cách nghiêm túc. Ở các nước phương Tây, Pháp là nước kêu gọi cấm 
lưu thông các sảm phẩm có lợi cho Mỹ. Ở phương Đông, Trung Quốc hô hào 
chống ô nhiễm tinh thần; Nhật Bản tổ chức cuộc họp khu vực Châu Á bàn về 
văn hoá dân tộc Điều này cho chúng ta thấy, chính phủ các nước đã coi văn 
hoá là động lực, là mục tiêu, là hệ điều tiết của sự phát triển và Việt Nam 
chúng ta cũng không nằm ngoài quy luật này. 
Việt Nam là một nước có nhiều dân tộc, mỗi dân tộc lại có một diện mạo 
văn hoá riêng, những nét riêng này không phá vỡ đặc điển chung của văn hoá 
Việt Nam mà đan xen lẫn nhau tạo cho nền văn hoá của chúng ta có sự thống 
nhất trong đa dạng, có thể nói bản sắc của văn hoá Việt Nam chính là sự hoà 
đồng bao dung trong cách tiếp cận văn hoá. Vì vậy trước xu thế toàn cầu hoá 
hiện nay, chúng ta phải biết phát huy những giá trị văn hoá truyền thống và có 
những bước đi thích hợp cho quá trình hội nhập của mình: tránh việc bế quan 
toả cảm như trước đây mà ông cha ta đã từng làm mà phải mở rộng giao lưu 
với các nước trên thế giới cả về văn hoá lẫn kinh tế nhưng phải đảm bảo là vẫn 
giữ vừng bản sắc truyền thống lâu đời của dân tộc ta 
Ngày nay Đảng Cộng Sản Việt Nam đã thực hiện chính sách Việt Nam 
muốn là bạn và đối tác với tất cả các nước trên thế giới. Đây là sự chuyển đổi 
của một trong những giá trị truyền thống của Việt Nam. Đảng đã thực hiện 
chính sách đổi mới, mở cửa, xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, thực 
hiện chính sách hoạch toán kinh tế, cơ chế thị trường làm cho đời sống nhân 
dân không ngừng cải thiện, tình hình an ninh đựoc giữ vững Tuy nhiên bên 
cạnh đó quá trình toàn cầu hoá về kinh tế cộng với sự bùng nổ về thông tin, sự 
du nhập tràn lan của các loại hình văn hoá đã tạo ra một môi trường mới, 
những công cụ mới như : internet, điện thoại di động tạo cho con người có 
những điều kiện để tiếp nhận thông tin một cách cập nhật nhưng nếu không 
biết chọn lọc thì chúng ta sẽ bị chết đuối trong chính bể thông tin đó. Trong 
lĩnh vực văn hoá, toàn cầu hoá đưa lại cho các dân tộc những tinh hoa văn hoá 
của nhân loại nhưng đồng thời cũng đưa đến những mặt tiêu cực, mặt trái của 
nó. Vậy, vấn đề là chúng ta phải biết chọn lọc và tiếp thu như thế nào cho hợp 
lý vì ở đây vai trò quyết định chính la con người. 
2.3 Giữ vững giá trị truyền thống ở Việt Nam trước xu thế toàn cầu 
hoá 
2.3.1 Xu thế toàn cầu hoá hiện nay – một thách thức đối với giá trị 
truyền thống dân tộc 
Toàn cầu hoá là một xu thế khách quan, vượt ra khỏi phạm vi một quốc 
gia, trở thành xu thế chung của thế giới, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham 
gia, bất kể nước đó giàu hay nghèo, mạnh hay yếu, phát triển hay chậm phát 
triển, phương Tây Hay phương Đông, là xu hướng xích lại gần nhau, hợp tác 
với nhau giữa các nước để tạo ra sự phát triển. 
Hình thức toàn cầu hoá rất phong phú, đa dạng và diễn ra dưới nhiều cấp 
độ khách nhau. Có cấp độ bao gồm cả kinh tế và chính trị như liên minh Châu 
 (EU), có cấp độ chủ yếu liên kết về kinh tế nhu hiệp hội các nước Đông 
Nam Á (ASEAN). Phổ biến là sự liên kết có tính chuyên ngành của các tổ 
chức thế giới như tổ chức thương mại thế giới (WTO), tổ chức văn hoá giáo 
dục liên hợp quốc (UNESCO), tổ chức y tế thế giới (WHO) 
 Toàn cầu hoá nếu diễn ra một cách công bằng thì có lợi cho nhiều dân 
tộc, tuy nhiên trong thực tế toàn cầu hoá không phải diễn ra một cách thuận 
lợi đối với tất cả các nước, nhất là đối với các nước nghèo trong đó có nước 
ta. Bởi phần vì các nước, các tập đoàn kinh tế và chính trị thế giới đều xuất 
phát từ lợi ích của chính mình để giải quyết các vấn đề toàn cầu mà không có 
sự đối sử công bằng, hợp lý đối với các phía đối tác, phần vì khả năng hạn chế 
của các nước kém phát triển nên không đủ thế và lực để giải quyết các vấn đề 
có liên quan tới mình. Bởi vậy nguy cơ bị nhất thể hoá, bị phương Tây hoá và 
do dó đi đến mất quyền độc lập, tự chủ của dân tộc là nguy cơ có thể sảy ra. 
So với nguy cơ này, nguy cơ đánh mất giá trị truyền thống dân tộc, đi đến cái 
chết của nền văn hoá dân tộc càng có nhiều khả năng xuất hiện. Đây dó trên 
thế giới, người ta đã gióng tiếng chuông cảnh tỉnh bởi một số dân tộc, giá trị 
truyền thống tuy có lịch sử lâu đời song lại thường là không hấp dẫn đối với 
lối sống hiện đại, nhất là đối với tầng lớp trẻ. Mặt khác, các sinh hoạt văn hoá 
mới của thế giới được du nhập và thì vàng thau lẫn lộn, tốt xấu đều có, nếu 
không có sự chỉ đạo sáng suốt dễ đi đến lấn át giá trị cũ, lâu dần thay thế giá 
trị cũ của dân tộc, làm mất bản sắc văn hoá dân tộc. Mất giá trị truyền thống 
dân tộc là mất cơ sở để tự khẳng định mình, mất điều kiện tự tin và sáng tạo. 
Toàn cầu hoá là hiện tượng mới mẻ và phức tạp vừa mang lại cho ta 
những cơ hội mới để phát triển (sự phát triển của khoa học công nghệ như vũ 
bảo đạt được những thành tựu kỳ diệu, đưa lại năng suất lao động gấp trước 
nhiều lần, những tiện lợi nhiều mặt về thông tin, đi lại, hưởng thụ, hợp tác 
làm con người cảm thấy gần nhau hơn phụ thuộc vào nhau hơn) nhưng đồng 
thời đi kèm với nó cũng không ít khó khăn (văn hoá tư tưởng cũ đang sống 
bình yên khi có văn hoá tư tưởng mới đến tất yếu sẽ sảy ra đụng độ ) cho 
nên phân biệt thế nào là cơ hội, thế nào là nguy cơ là một vấn đề khó, biến cái 
đang diễn thành cơ hội để lợi dụng càng khó hơn. Bởi vậy nguy cơ và cơ hội 
cá thể tồn tại bên nhau, đan xen nhau, có khi lại là nguyên nhân của nhau. 
Đứng ngoài chúng ta khó có thể nhận biết, chỉ có xông vào với một sự sáng 
suốt và quyết tâm mới chiếm được cái này và loại được cái kia, mới có thể 
bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, những giá trị truyền thống dân 
tộc. 
Trước xu thế toàn cầu hoá văn hoá Việt Nam có cơ hội để thẩm định lại 
mình, có điều kiện để tiếp xúc, thử nghiệm và lựa chọn các văn hoá khác. Kết 
quả sẽ như thế nào là phụ thuộc vào sự nhìn nhận của chủ thể văn hoá – con 
người Vịêt Nam trước các hiện tượng mới mẽ đầy thách thức và chông gai 
của thế giới, của đất nước. 
2.3.2 Chủ động đón nhận thách thức của toàn cầu hoá để hội nhập với 
thế giới, đưa giá trị truyền thống dân tộc di lên một bước 
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam đã nhiều lần gặp thách thức, có thách 
thức từ phía thiên nhiên: hạn hán, bão lụt, có thách thức từ phía xã hội: nạn 
ngoại xâm, các cuộc cát cứ chia rẽ đất nước và nhiều lần dân tộc ta đã vượt 
qua nhờ đó mà giữ gìn được sự sinh tồn và phát triển nhưng cũng đã có nhiều 
lần dân tộc ta không vượt qua được thử thách như chủ trương cải cách để phù 
hợp với trào lưu thế giới ở thế kỷ XIX không trở thành hiện thực. Tất cả các sự 
việc thành công hay thất bại đều có ý nghĩa của một bài học đối với thách thức 
được coi là chưa chừng có đối với chúng ta – xu thế toàn cầu hoá hiện nay và 
nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc, các giá trị truyền thống dân tộc, trở thành 
cái bóng mờ của người khác là do xu thế này gây nên. 
Xu thế toàn cầu hoá hiện nay buộc dân tộc ta phải tham gia vào các công 
việc chung của thế giới mà đối tượng phải đối phó không phải là một, mà là 
nhiều phía, nhiều thành phần, nhiều mức độ khách nhau. Xu thế này còn đưa 
dân tộc ta vào cuộc đấu tranh quyết liệt vừa có tính khu vực, vừa có tính toàn 
cầu, trong khi thế và lực của ta chưa đủ, nhưng không được thua chỉ có thể và 
phải thắng. 
Bài học lịch sử đã dạy cho dân tộc ta một cách nhìn, một thái độ và một 
việc làm thích hợp. Đó là xem toàn cầu hoá như một xu thế khách quan, xu thế 
đó vừa tạo ra thời cơ vừa có nguy cơ do vậy dám đương đầu , chủ động đón 
nhận và phấn đấu để có nhiều cơ hội, nhiều dịp may, ít nguy cơ, ít rủi ro. 
Không lúc nào bằng lúc này, con người dân tộc phải kiên cường, phải thông 
minh, linh hoạt và sáng tạo. Theo lối mòn chì chỉ chuốc lấy thất bại. Hơn 10 
năm nay đảng và nhà nước ta đã thực hiện đường lối mở cửa, hội nhập, tham 
gia liên doanh, liên kết kinh tế, kêu gọi đầu tư, tạo thông thoáng để thu hút đầu 
tư, thực hiện đa phương, đa dạng hoá quan hệ quốc tế Cần phải khẳng định 
các việc làm đó và còn phải phải đẩy nhanh tiến độ thực hiện hơn nữa. 
Thực tế trong mấy năm vừa qua nhiều thành tựu về văn hoá của thế giới, 
nhất là văn hoá đương đại do sự đa dạng và mới mẻ thường chinh phục được 
nhiều người, đặt biệt là thế hệ trẻ. Nhưng Việt Nam khác với nhiều nước 
chúng ta không thể thay thế các giá trị truyền thống đã làm nên bản sắc văn 
hoá Việt Nam, bản lĩnh dân tộc Việt Nam: tinh thần yêu nước, tính cộng đồng, 
lòng nhân ái, lối sống thanh bạch, cần cù, giản dị Và mặc dù các luồn văn 
hóa tư tưởng bên ngoài vào Việt Nam theo nhiều hướng, nhiều kênh, nên 
chúng ta cần cảnh giác vì về đại thể các luồn văn hoá tư tưởng ấy mang hai 
loại: giá trị và phản giá trị và chúng ta chỉ có thể chấp nhận cái giá trị và bài 
trừ cái phản giá trị. 
Toàn cầu hoá như một dòng nước lớn đang lan truyền khắp mọi miền đất 
của hành tinh. Đứng trong đó thì phải bơi theo nó, có bản lĩnh sẽ không sợ 
chết chìm, có sự thông minh sẽ sáng tạo sẽ trạnh thủ được nhiều sơ hội, tránh 
được khỏi nhiều nguy cơ. Giá trị truyền thống và giá trị hiện đại dân tộc có thể 
qua đây mà được giữ gìn, nâng cao va phong phú hoá. 
KẾT LUẬN 
Là một nước có nền kinh tế đang ở trình độ kém phát triển, hơn bao giờ 
hết chúng ta phải xem công nghiệp hoá hiện đại hoá là nhiệm vụ bức bách của 
toàn xã hội. Sự phụ thuộc của nền kinh tế nước ta vào nguồn vốn, đầu tư khoa 
học kỹ thuật hiện đại của các nước phát triển buộc chúng ta không ngừng đề 
cao tính độc lập tự chủ. 
Yêu cầu đặt ra cho nước ta trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay là với sự 
giao lưu văn hoá giữa các nước, ngoài việc tiếp thu, tiếp nhận nền văn hoá mới 
chúng ta cần phải duy trì bảo vệ và phát triển nền văn hoá truyền thống của 
nước ta. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Huỳnh Thái Vinh, Những vấn đề văn hoá Việt Nam đương đại (Tập 
1 & 2),NXB Khoa học xã hội. 
2. Đặng Hữu Toàn, Chủ nghĩa Mác – Lênin và công cuộc đổi mới ở 
Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, 2002 
3. Nguyễn Phú Trọng, Vì một nền văn hoá dân tộc hiện đại, NXB Văn 
hoá thông tin. 
4. Nguyễn Trọng Chuẩn – Nguyễn Văn Huyên, Giá trị truyền thống 
trước thách thức của toàn cầu hoá, NXB Chính trị quốc gia. 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_gia_tri_truyen_thong_viet_nam_truoc_xu_the_toan_ca.pdf