Tiểu luận Các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam
I/ TỔNG QUAN VỀ CÁC NGHIỆP VỤ TRONG HOẠT ĐỘNG
NGÂN HÀNG
1/ Khái niệm
Khi nghiên cứu về ngân hàng, do có sự xâm nhập mạnh mẽ
của các định chế tài chính phi ngân hàng và sự phát triển đa dạng của
bản thân ngành ngân hàng nên rất khó để đưa ra một định nghĩa
chính xác, ngắn gọn về ngân hàng.
Ở Việt Nam, luật các tổ chức tín dụng đã đưa ra một định
nghĩa về ngân hàng như sau: Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng
được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác có liên quan. Trong đó hoạt động ngân hàng là hoạt động
kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên
là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các
dịch vụ thanh toán.
Hệ thống ngân hàng hiện nay được chia thành hai bộ phận
chính: Ngân hàng Trung Ương và các ngân hàng trung gian. Vì sự
liên đối mật thiết với nhau trên thị trường tiền tệ và tài chính, nhiều
tổ chức không phải là ngân hàng nhưng cũng tham gia vào hoạt động
cho vay và kinh doanh tiền tệ như các tổ chức tín dụng, công ty Bảo
hiểm, công ty Tài chính, các quỹ tiền tệ. được nhiều nước xem như
là bộ phận thứ ba của hệ thống ngân hàng .
2/ Những nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng
Như phần trên đã nghiên cứu, hệ thống ngân hàng hiện nay
được chia thành hai bộ phận chính, và mỗi bộ phận này sẽ thực hiện
những chức năng riêng có của nó.
Ở tất cả các nước, Ngân hàng Trung Ương là cơ quan duy nhất
phát hành giấy bạc để đưa vào lưu hành trong nền kinh tế. Nó có4
nhiệm vụ là tổ chức in tiền và đưa khối lượng tiền giấy vào trong lưu
thông thông qua kênh cần thiết, đồng thời lựa chọn, tiêu huỷ các
đồng tiền không đủ tiêu chuẩn lưu hành và điều chỉnh cơ cấu tiền
theo mệnh giá giữa các vùng của đất nước giữa các thời kỳ khác
nhau.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Trung Ương còn đóng vai trò là ngân
hàng của các ngân hàng thực hiện. Điều đó có nghĩa là Ngân hàng
Trung Ương mở tài khoản và quản lý tiền gửi cho hệ thống các Ngân
hàng Thương mại và các tổ chức tín dụng khác, hay Ngân hàng Trung
Ương có thể cho vay đối với các Ngân hàng Thương mại. Mặt khác,
Ngân hàng Trung Ương cũng còn là ngân hàng của Nhà nước; hoạt
động của Ngân hàng Trung Ương đặt dưới sự kiểm soát và điều hành
của cơ quan Nhà nước, đồng thời Ngân hàng Trung Ương cũng thực
hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với các hoạt động của cả hệ
thống ngân hàng. Hơn nữa, Ngân hàng Trung Ương còn thay mặt cho
Nhà nước trong việc thực hiện một số quan hệ đối với nước ngoài
như thực hiện việc ký kết các hiệp định về tín dụng, tiền tệ đối với
Ngân hàng Trung Ương các nước hoặc các tổ chức tài chính tiền tệ
quốc tế mà các nước tham gia. Ngân hàng Trung Ương cũng có quan
hệ chặt chẽ đối với Kho bạc Nhà nước trong việc thực hiện các khoản
chi tiêu cho Chính phủ.
Còn về các hoạt động của ngân hàng trung gian, trong đó điển
hình là Ngân hàng Thương mại thì có thể chia thành ba nhóm hoạt
động chính; đó là hoạt động tập trung huy động vốn, hoạt động sử
dụng vốn và các hoạt động trung gian khác.
Về hoạt động tập trung huy động vốn, ngân hàng có thể tạo lập
nguồn vốn thông qua hoạt động mở tài khoản tiền gửi cho khách
hàng, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng, hoặc đi vay các ngân
hàng khác. Vốn chủ sở hữu của ngân hàng Thương mại có thể được
hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như do Nhà nước cấp, do các cổ
đông góp vốn hoặc của các bên liên doanh; ngoài ra, vốn chủ sơ hữu
còn có thể do ngân hàng mở rộng các hoạt động như làm dịch vụ, đại
lý.5
Về hoạt động sử dụng vốn, Ngân hàng Thương mại có thể cho
vay. Đây hoạt động chủ yếu của các Ngân hàng Thương mại và nó
cũng phản ánh đúng tính chất của các Ngân hàng Thương mại là huy
động vốn để cho vay. Bên cạnh đó, Ngân hàng Thương mại cũng có
thể đầu tư kinh doanh chứng khoán, đầu tư tài sản cố định .
Ngân hàng Thương mại còn thực hiện một số hoạt động trung
gian khác như làm trung gian thanh toán cho khách hàng, chuyển tiền
cho khách hàng, tư vấn, môi giới chứng khoán.
Chính vì những đặc trưng trong hoạt động của các Ngân hàng
Thương mại như nêu trên mà những rủi ro trong hoạt động ngân hàng
thường gắn liền với các Ngân hàng Thương mại .
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam
z CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP Đề tài: Các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam 1 MỤC LỤC Trang LỜI NÓI ĐẦU 2 NỘI DUNG PHẦN I: LÝ LUẬN VỀ NHỮNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 3 I/ TỔNG QUAN VỀ CÁC NGHIỆP VỤ TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 3 1. Khái niệm 3 2. Những nghiệp vụ chủ yếu trong hoạt động ngân hàng 3 II/ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 5 1. Rủi ro 5 2. Rủi ro tồn tại khách quan trong hoạt động ngân hàng 5 III/ NHỮNG RỦI RO ĐẶC THÙ TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 6 1. Rủi ro tín dụng 6 2. Rủi ro lãi suất 8 3. Rủi ro hối đoái 9 4. Rủi ro thanh toán 10 5. Rủi ro nguồn vốn 11 6. Rủi ro hoạt động ngoại bảng 12 7. Rủi ro công nghệ hoạt động 12 8. Rủi ro quốc gia 13 PHẦN II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG CỦA VIỆT NAM VÀ BIỆN PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 14 I/ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 14 II/ MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO 17 KẾT LUẬN 24 TÀI LIỆU THAM KHẢO 25 2 LỜI NÓI ĐẦU Sự ra đời hoạt động ngân hàng đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử phát triển và tiến bộ của con người. Lênin đã coi sự ra đời ngân hàng như ”Sự phát minh ra lửa” hay “Sự phát minh ra bánh xe”. Vai trò to lớn của hoạt động ngân hàng đối với sự phát triển nền kinh tế và xã hội được xuất phát từ chính những đặc trưng của nó. Hoạt động kinh doanh ngân hàng là một lĩnh vực kinh doanh đặc biệt bởi hàng hoá trong quá trình kinh doanh là tiền tệ-loại hàng hoá có tính nhạy cảm và sức cuốn hút đặc biệt. Chính tính đặc biệt riêng có này của tiền tệ mà hoạt động kinh doanh ngân hàng vừa là một loại hoạt động đem lại hiệu quả rất lớn đối với nền kinh tế, vừa là một lĩnh vực mà khả năng xảy ra rủi ro cao. Nghiên cứu về rủi ro trong hoạt động ngân hàng là một việc làm hết sức cần thiết đối với hệ thống ngân hàng thương mại của Việt nam. Việc nghiên cứu này sẽ cho ta thấy rõ được các loại rủi ro, nguyên nhân xuất hiện rủi ro và hậu quả của nó, và để từ đó đề ra các giải pháp hữu hiệu, thiết thực nhằm hạn chế rủi ro, giảm thiểu tổn thất cho hệ thống ngân hàng. Xuất phát từ những vấn đề trong lý thuyết cũng như thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt nam, em mạnh dạn lựa chọn đề tài nghiên cứu: "Các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng ở Việt nam" và cho rằng việc tìm hiểu và nghiên cứu ván đề này là hết sức cần thiết đối với một sinh viên khoa Ngân hàng-Tài chính của trường Đại học KTQD. Mặc dù đã có sự giúp đỡ hết sức nhiệt tình về mặt khoa học cũng như tài liệu phục vụ bài viết của cô giáo TS. Nguyễn Thị Bất, nhưng do kiến thức còn hạn chế nên bài viết của em sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót cần bổ sung. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cám ơn. Sinh viên: Phạm Thu Hương 3 PHẦN I LÝ LUẬN VỀ NHỮNG RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG I/ TỔNG QUAN VỀ CÁC NGHIỆP VỤ TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 1/ Khái niệm Khi nghiên cứu về ngân hàng, do có sự xâm nhập mạnh mẽ của các định chế tài chính phi ngân hàng và sự phát triển đa dạng của bản thân ngành ngân hàng nên rất khó để đưa ra một định nghĩa chính xác, ngắn gọn về ngân hàng. Ở Việt Nam, luật các tổ chức tín dụng đã đưa ra một định nghĩa về ngân hàng như sau: Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Trong đó hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Hệ thống ngân hàng hiện nay được chia thành hai bộ phận chính: Ngân hàng Trung Ương và các ngân hàng trung gian. Vì sự liên đối mật thiết với nhau trên thị trường tiền tệ và tài chính, nhiều tổ chức không phải là ngân hàng nhưng cũng tham gia vào hoạt động cho vay và kinh doanh tiền tệ như các tổ chức tín dụng, công ty Bảo hiểm, công ty Tài chính, các quỹ tiền tệ... được nhiều nước xem như là bộ phận thứ ba của hệ thống ngân hàng . 2/ Những nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng Như phần trên đã nghiên cứu, hệ thống ngân hàng hiện nay được chia thành hai bộ phận chính, và mỗi bộ phận này sẽ thực hiện những chức năng riêng có của nó. Ở tất cả các nước, Ngân hàng Trung Ương là cơ quan duy nhất phát hành giấy bạc để đưa vào lưu hành trong nền kinh tế. Nó có 4 nhiệm vụ là tổ chức in tiền và đưa khối lượng tiền giấy vào trong lưu thông thông qua kênh cần thiết, đồng thời lựa chọn, tiêu huỷ các đồng tiền không đủ tiêu chuẩn lưu hành và điều chỉnh cơ cấu tiền theo mệnh giá giữa các vùng của đất nước giữa các thời kỳ khác nhau. Bên cạnh đó, Ngân hàng Trung Ương còn đóng vai trò là ngân hàng của các ngân hàng thực hiện. Điều đó có nghĩa là Ngân hàng Trung Ương mở tài khoản và quản lý tiền gửi cho hệ thống các Ngân hàng Thương mại và các tổ chức tín dụng khác, hay Ngân hàng Trung Ương có thể cho vay đối với các Ngân hàng Thương mại. Mặt khác, Ngân hàng Trung Ương cũng còn là ngân hàng của Nhà nước; hoạt động của Ngân hàng Trung Ương đặt dưới sự kiểm soát và điều hành của cơ quan Nhà nước, đồng thời Ngân hàng Trung Ương cũng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với các hoạt động của cả hệ thống ngân hàng. Hơn nữa, Ngân hàng Trung Ương còn thay mặt cho Nhà nước trong việc thực hiện một số quan hệ đối với nước ngoài như thực hiện việc ký kết các hiệp định về tín dụng, tiền tệ đối với Ngân hàng Trung Ương các nước hoặc các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế mà các nước tham gia. Ngân hàng Trung Ương cũng có quan hệ chặt chẽ đối với Kho bạc Nhà nước trong việc thực hiện các khoản chi tiêu cho Chính phủ. Còn về các hoạt động của ngân hàng trung gian, trong đó điển hình là Ngân hàng Thương mại thì có thể chia thành ba nhóm hoạt động chính; đó là hoạt động tập trung huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn và các hoạt động trung gian khác. Về hoạt động tập trung huy động vốn, ngân hàng có thể tạo lập nguồn vốn thông qua hoạt động mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng, hoặc đi vay các ngân hàng khác. Vốn chủ sở hữu của ngân hàng Thương mại có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như do Nhà nước cấp, do các cổ đông góp vốn hoặc của các bên liên doanh; ngoài ra, vốn chủ sơ hữu còn có thể do ngân hàng mở rộng các hoạt động như làm dịch vụ, đại lý... 5 Về hoạt động sử dụng vốn, Ngân hàng Thương mại có thể cho vay. Đây hoạt động chủ yếu của các Ngân hàng Thương mại và nó cũng phản ánh đúng tính chất của các Ngân hàng Thương mại là huy động vốn để cho vay. Bên cạnh đó, Ngân hàng Thương mại cũng có thể đầu tư kinh doanh chứng khoán, đầu tư tài sản cố định ... Ngân hàng Thương mại còn thực hiện một số hoạt động trung gian khác như làm trung gian thanh toán cho khách hàng, chuyển tiền cho khách hàng, tư vấn, môi giới chứng khoán... Chính vì những đặc trưng trong hoạt động của các Ngân hàng Thương mại như nêu trên mà những rủi ro trong hoạt động ngân hàng thường gắn liền với các Ngân hàng Thương mại . II/ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG 1/ Rủi ro Rủi ro trong kinh doanh được hiểu là những thiệt hại trong kinh doanh có thể nằm ngoài khả năng kiểm soát của đơn vị kinh doanh. Từ đó ta có nhận xét: - Không được coi tất cả các thiệt hại trong kinh doanh là rủi ro trong kinh doanh - Mức độ rủi ro phụ thuộc nhiều vào trình độ quản lý thực có của đơn vị. - Rủi ro được gây ra bởi nhiều nguyên nhân: khách quan, chủ quan,có rủi ro bất khả kháng và rủi ro tự nhiên, nhưng dù là loại rủi ro nào cũng đều có khả năng phòng ngừa với các biện pháp có thể khác nhau. 2/Rủi ro tồn tại khách quan trong hoạt động ngân hàng Trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh và rủi ro là hai phạm trù cặp đôi. Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đã làm đa dạng hoá các thành phần kinh tế, tạo sự bình đẳng trong hoạt động của các 6 thành phần này và thúc đẩy sự cạnh tranh lẫn nhau một cách lành mạnh. Rủi ro tuy là sự bất trắc gây thiệt hại không mong đợi song lại là hiện tượng dồng hành với các hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường, trong quá trình cạnh tranh. Rủi ro xuất hiện ở những điểm yếu, kém hiệu quả, mất cân đối trong phát triển kinh tế. Rủi ro vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của những hoạt động kinh tế không có hiệu quả. Nó tạo tiền đề cho quá trình đào thải tự nhiên của các doanh nghiệp yếu kém, thúc đẩy sự chấn chỉnh, thích nghi của các doanh nghiệp, tạo xu hướng phát triển ổn định và có hiệu quả cho nền kinh tế. Trong điều kiện kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại cũng không nằm ngoài sự tác động trên. Thậm chí, với hoạt động ngân hàng, hầu như không có loại nghiệp vụ nào, không có loại dịch vụ nào của ngân hàng là không có rủi ro bởi một lẽ là hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường là một hoạt động rất nhậy cảm, mọi biến động trong nền kinh tế-xã hội đều nhanh chóng tác động đến hoạt động ngân hàng, có thể gây nên những xaó trộn bất ngờ và dẫn đến hiệu quả của ngân hàng bị giảm sút một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại luôn chứa đựng những rủi ro “tiềm ẩn”, nó có thể xẩy ra bất cứ lúc nào. Hoạt động kinh doanh ngân hàng là một lĩnh vực đặc biệt do hàng hoá của nó là tiền tệ-loại hàng hoá có tính nhạy cảm và sức cuốn hút rất lớn; vì vậy mà rủi ro trong kinh doanh ngân hàng cũng rất lớn và đa dạng. Do vậy, nhận thức rõ từng loại rủi ro, đề ra những biện pháp ngăn chặn phòng chống hữu hiệu để hạn chế thấp nhất rủi ro luôn là vấn đề cấp bách thường xuyên liên tục tồn tại song song với hoạt động của ngân hàng. 7 III/ NHỮNG RỦI RO ĐẶC THÙ TRONG KINH DOANH NGÂN HÀNG 1/Rủi ro tín dụng Nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng; nó thường chiếm phần lớn trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng cả về khối lượng công việc cũng như mức độ tạo thuận lợi. Tỷ lệ thuận với nó là mức độ rủi ro của nghiệp vụ này cũng chiếm phần lớn trong tổng mức rủi ro của hoạt động ngân hàng. Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay. Nói cách khác, “rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra do khách hàng không thực hiện trả nợ theo các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng”. Rủi ro tín dụng là loại rủi ro lớn nhất và thường xuyên xảy ra trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Rủi ro tín dụng xảy ra khi bên đi vay, trong một giao dịch nào đó, không thực hiện được việc thanh toán tiền vay theo thời hạn và điều kiện trong hợp đồng làm cho người cho vay phải gánh chịu tổn thất tài chính. Rủi ro tín dụng có muôn hình muôn vẻ, với nhiều hình thái, cung bậc khác nhau, chúng tiềm ẩn trong suốt quá trình trước, trong và sau khi cho vay và biểu ... quản lý tín dụng chi làm 4 giai đoạn: quá trình thẩm định, giám sát khách hàng vay, thu nợ và dự đoán được rủi ro trong quá trình cho vay. Về quá trình thẩm đinh: quá trình này được bắt đầu từ khi nhận đơn xin vay cho đến khi phát tiền vay, trong giai đoạn này chú ý đến mục tiêu kinh doanh, các nguyên tắc tín dụng đã quy định. Đây là giai đoạn khởi đầu nên mức độ rủi ro phụ thuộc nhiều vào việc xem xét, lập hồ sơ vay vốn, đánh giá tài sản thế chấp, quyết định cho vay và giám sát sau khi vay. Trong quá trình này, các ngân hàng phải tập trung đánh giá những mặt sau: + Năng lực pháp lý của khách hàng: khách hàng vay vốn phải có tư cách pháp nhân. Đây là điều kiện tiên quyết để ngân hàng xem xét cho vay nhằm xác định trách nhiệm trước pháp luật về việc trả nợ vay cho ngân hàng. + Uy tín của người vay vốn: đây là yếu tố hết sức quan trọng mà ngân hàng cần phải đánh giá. Phần lớn các thông tin về khách hàng đều đã được ngân hàng biết đến. Đối với một khách hàng truyền thống, những giao dịch trước đó của ngân hàng với họ sẽ đưa lại một lượng thông tin về tính trung thực, các nguồn tài chính và năng lực của khách hàng, thông tin về tính nghiêm túc trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ, tính ổn định trong sản xuất kinh doanh. Đối với khách hàng mớivà tiềm năng, phần nhiều phụ thuộc vào sự giới thiệu, 21 vào các doanh nghiệp khác có quan hệ với khách hàng đó, và thông báo thực trạng từ ngân hàng khác. + Phân tích tình hình tài chính của khách hàng: khách hàng có tiềm lực tài chính mạnh là cơ sở quan trọng đảm bảo tính tự chủ trong hoạt động kinh doanh, đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị trường và đảm bảo khả năng hoàn trả các khoản nợ trong tương lai. Đây cũng là căn cứ quan trọng nhất để ngân hàng xem xét có cho vay hay không? Mức cho vay là bao nhiêu?... + Đánh giá về năng lực về điều hành sản suất kinh doanh của ban lãnh đạo doanh nghiệp: khi xem xét, phân tích, ngân hàng cần đánh giá về năng lực chuyên môn, năng lực tài chính và uy tín của người lãnh đạo. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, cần khẳng định tư cách đạo đức họ như thế nào? Có nhạy bén, nắm được những cơ hội mới không? Có thực hiện các điều chỉnh kịp thời trong kinh doanh không? Có uy tín trong nội bộ và uy tín với các bạn hàng khác không? Có kiến thức, có kinh nghiệm trong quản lý không?... + Đánh giá về tài sản đảm bảo (cầm cố, thế chấp, bảo lãnh...): Đối với tài sản đảm bảo cần đánh giá một cách chính xác giá trị, xác định hiện trạng, sự hoàn hảo của tài sản được dùng làm đảm bảo. Trong quá trình tính toán, ngân hàng cần tính đến yếu tố rủi ro của tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh đó. 1.3/ Phân tán rủi ro - Không nên tập trung cho vay một vài lĩnh vực, khu vực vì khi đó ngân hàng sẽ chịu ảnh hưởng của các yếu tố, khuynh hướng vận động của các khu vực đó (về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội). - Ngân hàng Thương mại không nên dồn vốn đầu tư vào một vài khách hàng vì nếu khách hàng đó gặp khó khăn trong kinh doanh thì ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của Ngân hàng Thương mại. Do đó, cần phải tôn trọng giới hạn an toàn. Bất kỳ một khoản vay nào vượt giới hạn quy định so với vốn của ngân hàng đều có thể rơi vào trạng thái rủi ro. 22 Ở Việt nam, Luật tổ chức tín dụng áp dụng từ ngày 1/10/ 1998 có quy định rằng “dư nợ của một khách hàng không vượt quá 15% vốn của ngân hàng“, và “tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu được xác định bằng tỷ lệ giữa vốn tự có so với tài sản Có”. - Đa dạng hoá hoạt động kinh doanh là nhân tố hết sức quan trọng trong điều kiện nền kinh tế thị trường đầy biến động. Việc đa dạng hoá hoạt động kinh doanh sẽ phân tán được rủi ro cho các ngân hàng. - Cho vay hợp vốn là để cung cấp các khoản tín dụng lớn mà một ngân hàng khó có đủ khả năng cho vay, khó xác định mức rủi ro, mạo hiểm. Việc các ngân hàng tham gia cho vay hợp vốn sẽ giúp cho các ngân hàng có thể san sẻ rủi ro. - Bảo hiểm tín dung có thể được thực hiện dưới các loại như bảo hiểm hoạt động cho vay, bảo hiểm tài sản, bảo hiểm tiền vay... - Lập quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp các khoản cho vay bị rủi ro. Việc sử dụng các quỹ khi có rủi ro như sau: (1) Quỹ dự phòng rủi ro đặc biệt: dùng để bù đắp các khoản rủi ro khi ngân hàng làm ăn thua lỗ do những nguyên nhân khách quan mang lại; (2) Quỹ dự phòng rủi ro tín dụng: dùng để bù đắp các khoản tổn thất rủi ro tín dụng do khách hàng gây nên. 1.4/ Duy trì quan hệ khách hàng lâu dài Điều này có thể giảm chi phí tập hợp thông tin, sàng lọc thông tin và ngân hàng tránh được việc lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức từ phía khách hàng. 1.5/ Thực hiện tốt các hình thức đảm bảo tín dụng (Cầm cố, Thế chấp, Bảo lãnh...) 1.6/ Chú trọng đến nghệ thuật cho vay Các ngân hàng cần phải hiểu rõ cho vay là một nghệ thuật chứ không phải chỉ là một ngành khoa học đơn thuần. Do đó, cần phải đưa khía cạnh con người trong các ứng xử và tâm lý và công tác đào tạo và tín dụng, lựa chọn và sử dụng các cán bộ vừa có kỹ năng xử thế của con người vừa có năng lực kỹ thuật. 23 Trên đây là một số biện pháp làm giảm rủi ro có tính chất cơ bản. Tuy nhiên, trong từng điều kiện cụ thể của mỗi Ngân hàng Thương mại, tổ chức tín dụng đều có những biện pháp và sách lược riêng để hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình. 2/ Biện pháp làm giảm rủi ro lãi suất Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro lãi suất có thể giảm xuống bằng cách vận dụng các phương pháp sau: + Cho vay vốn với lãi suất thả nổi cho phép các ngân hàng có những thay đổi tương ứng trong mức lãi suất cho vay phù hợp với sự biến động của lãi suất thị trường. + Hợp đồng kỳ hạn sẽ tránh được rủi ro trong trường hợp đúng vào thời điểm cho vay mức lãi suất thị trường giảm xuống. Phương pháp này cho phép phân tán rủi ro lãi suất với khách hàng. + Các hợp đồng lãi suất tương lai giống như hợp đồng lãi suất có kỳ hạn nó tạo ra khả năng ấn định trước lãi suất cho một thời hạn trong tương lai. Đặc điểm nổi bật của các hợp đồng lãi suất trong tương lai là không có sự thay đổi lượng tiền gốc mà chỉ có các khoản chênh lệch lãi suất được trả theo số lượng tiền gốc và ngày thanh toán. 3/Các biện pháp làm giảm rủi ro hối đoái Rủi ro hối đoái là loại rủi ro biến động của tỷ giá hối đoái. Để giảm rủi ro biến động của tỷ giá hối đoái người ta thường sử dụng các biện pháp sau: + Hợp đồng ngoại tệ kỳ hạn là sự ký kết hợp đồng có thời hạn giữa ngân hàng với khách hàng về việc mua hay bán một loại ngoại tệ nào đó. Hợp đồng mua bán ngoại tệ kỳ hạn nhằm tránh rủi ro về tỷ giá. Việc tránh những rủi ro về tỷ giá được thể hiện ở chỗ những khoản ngoại tệ trong tương lai người ta mới cần đến và mới không phải tính bằng giá mua bán ngay thời điểm mà tỷ giá đó được xác định ngay khi hợp đồng kỳ hạn được thoả thuận. 24 Các điều kiện của hợp đồng tương lai có thể dễ được xem xét lại khi cần thiết. + Đa dạng hoá nguồn vốn ngoại tệ của ngân hàng Ngoài các biện pháp trên, ngân hàng còn có thể áp dụng biện pháp lựa chọn ngoại tệ, bảo hiểm ngoại tệ để giảm rủi ro hối đoái. 4/ Các biện pháp làm giảm rủi ro thanh toán Để giảm rủi ro thanh toán, ngân hàng thường phải thực thi các giái pháp sau: + Tính toán nhu cầu khả năng thanh toán: để tính toán được khả năng thanh toán đòi hỏi phải đánh giá được nhu cầu tiền phải chi và có thể phải chi. Muốn vậy phải dựa vào việc thanh toán nguồn tiền, chi tiết về các nguồn tiền gắn với tài sản Nợ, tài sản Có hiện hành. Ngân hàng phải dự tính khả năng tăng vốn trong cho vay và tiền gửi... + Quản lý khả năng thanh toán nhằm duy trì đủ mức vốn cần thiết để thanh toán cho các nhu cầu dự tính và nhu cầu đột xuất. Giống như rủi ro về lãi suất, để quản lý khả năng thanh toán, các ngân hàng buộc phải quản lý theo từng loại tiền mà ngân hàng có giao dịch. Hơn nữa, để định lượng được những hậu quả trong một môi trường bất ổn, ngân hàng thường có kế hoạch dự phòng bất trắc, kế hoạch này sẽ tính đến trường hợp xấu nhất có thể xẩy ra và đưa ra các biện pháp để đối phó với tình hình đó. 5/ Biện pháp làm giảm rủi ro về nguồn vốn Để giảm rủi ro do thừa vốn, ngan hàng không còn cách nào khác là phải tăng cường công tác kế hoạch hoá. Ngân hàng cần kết hợp tốt giữa khâu huy động vốn và khâu cho vay luôn đảm bảo cân đối mới mong hạn chế đưọc loại rủi ro này. Để giảm rủi ro do thiếu vốn thì không thể bằng cách huy động vốn rỗi để ở quỹ thanh toán nhiều cho an toàn. Cũng như loại rủi ro do thừa vốn, rủi ro do thiếu vốn cần phải đưa công tác kế hoạch hoá nguồn vốn và sử dụng vốn lên một bước. 25 Việc cân đối phải được thực hiện thường xuyên mới mong hạn chế được rủi ro này. Tóm lại, tất cả các biện pháp nêu trên chỉ nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. Rủi ro vẫn có thể xẩy ra ở ngân hàng này hay ngân hàng khác, tại thời điểm này hay thời điểm khác với nghiệp vụ này hay nghiệp vụ khác... Vấn đề đặt ra ở đây là phương pháp và nghệ thuật xử lý. Nếu xử lý đúng, chuẩn xác thì rủi ro sẽ giảm nhẹ nhiều. KẾT LUẬN Qua việc nghiên cứu, phân tích những rủi ro trong hoạt động ngân hàng ở trên, chúng ta đã nhận thấy được tầm quan trọng và cần thiết của việc nghiên cứu rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Thông qua việc phân tích rủi ro và những nguyên nhân gây nên rủi ro đó ta cũng nhận thấy rằng: hoạt động kinh doanh là một loại hoạt động đem lại hiệu quả rất lớn đối với nền kinh tế, song đây cũng là một lĩnh mà khả năng xảy ra rủi ro cao do những tính năng hoạt động phức tạp của nó. Do đó, rủi ro rất dễ xảy ra và có thể xảy ra trong rất nhiều nghiệp vụ khác nhau của ngân hàng. Hơn nữa, rủi ro còn gây ra những hậu quả không thể lường trước, thậm chí còn tạo ra những thiệt hại nặng nề không chỉ đối với một ngân hàng mà còn với cả hệ thống ngân hàng và toàn nền kinh tế. Đồng thời, chúng ta có thể thấy rõ được các nguyên nhân gây nên rủi ro trong hoạt động ngân hàng để có thể đề ra các biện pháp phòng tránh, hạn chế rủi ro. Có thể nói, rủi ro rất dễ xuất hiện trong hệ thống ngân hàng. Nó không chỉ xuất hiện ở một nghiệp vụ mà còn xuất hiện ở rất nhiều nghiệp vụ khác nhau của hoạt động ngân hàng. Có rủi ro gây ra những tổn thất nhỏ nhưng cũng có những rủi ro gây ra tổn thất lớn dẫn đến những thiệt hại nặng nề cho toàn hệ thống ngân hàng, cho 26 nền kinh tế. Để có thể hạn chế được những tổn thất đó thì cách duy nhất là phải nghiên cứu những rủi ro trong hoạt động ngân hàng và đề ra những biện pháp thiết thực phù hợp để phòng chống. TÀI LIỆU THAM KHẢO - Tạp chí Ngân hàng các năm 1999, 2000 - Tạp chí “Thị trường Tài chính Tiền tệ” năm 1998, 1999. - Cuốn “Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng” của NGUYỄN VĂN TIẾN, NXB ... - Cuốn “Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường Tài chính” của FREDERIC S . MISHKIN của NXB Khoa học Kỹ thuật, 1995. - Báo cáo của Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ quốc tế. 27
File đính kèm:
- tieu_luan_cac_bien_phap_han_che_rui_ro_trong_hoat_dong_ngan.pdf