Luận văn Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình phát triển tự nhiên

I. Cơ sở lý luận

1. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình

lịch sử tự nhiên.

Lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau

từ thấp đến cao. Tơng ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế - xã

hội. Sự vận động thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch

sử đều do tác động của quy luật khách quan, đó là quá trình lịch sử tự nhiên

của xã hội. Marx viết "Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã

hội là một quá trình lịch sử tự nhiên".

Các mặt cơ bản hợp thành một hình thái kinh tế - xã hội: lực lợng sản

xuất quan hệ sản xuất và kiến trúc thợng tầng tách rời nhau, mà liên hệ biện

chứng với nhau hình thành nên những quy luật phổ biến của xã hội. Do tác

động của quy luật khách quan đó, mà các hình thái kinh tế - xã hội vận động

và phát triển thay thế nhau từ thấp lên cao trong lịch sử nh một quá trình

lịch sử tự nhiên không phụ thuộc và ý trí, nguyện vọng chủ quan của con

ngời.

Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa ở

sự phát triển của lực lợng sản xuất.

Lực lợng sản xuất, một mặt của phơng thức sản xuất, là yếu tố bảo

đảm tính kế thừa trong sự phát triển lên của xã hội qui định khuynh hớng

phát triển từ thấp. Quan hệ sản xuất là mặt thứ hai của phơng thức sản xuất

biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển của lịch sử. Những quan hệ sản

xuất lỗi thời đợc xoá bỏ và đợc thay thế bằng những kiểu quan hệ sản xuất

mới cao hơn và hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn ra đời. Nh vậy, sự

xuất hiện, sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội, sự chuyển biến từ hình

thái đó lên hình thái cao hơn đợc giải thích trớc hết bằng sự tác động của

quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực3

lợng sản xuất. Quy luật đó là khuynh hớng tự tìm đờng cho mình trong sự

phát triển thay thế các hình thái kinh tế - xã hội. Nghiên cứu con đờng tổng

quát của sự phát triển lịch sử đợc quy định bởi quy luật chung của sự vận

động của nền sản xuất vật chất chúng ta nhìn thấy logic của lịch sử thế giới.

Thực tế lịch sử loài ngời đã trải qua các hình thái kinh tế xã hội: cộng

sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, t bản chủ nghĩa. Sau khi xây

dựng học thuyết hình thái kinh tế xã hội, C.Mác đã vận dụng học thuyết đó

vào phân tích xã hội t bản, vạch rõ các quy luật vận động, phát triển của xã

hội và đã đi đến dự báo sự ra đời cùa hình thái kinh tế xã hội cao hơn, hình

thái cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.

 

pdf 19 trang chauphong 20/08/2022 38622
Bạn đang xem tài liệu "Luận văn Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình phát triển tự nhiên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận văn Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình phát triển tự nhiên

Luận văn Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình phát triển tự nhiên
Luận văn: 
"Sự phỏt triển của cỏc hỡnh thỏi kinh 
tế xó hội là một quỏ trỡnh phỏt triển 
tự nhiờn" 
 1 
Lời mở đầu 
 Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân còn được gọi là giai 
cấp vô sản, là giai cấp hoàn toàn không có tư liệu sản xuát, phải bán sức lao 
động cho nhà tư bản để kiếm sống. Là giai cấp gắn liền với sản xuất đại công 
nghiệp và được nền công nghiệp rèn luyện, giai cấp công nhân có tính tổ 
chức, kỷ luật cao và có điều kiện thuận lợi tập hợp lực lượng, biểu thị sức 
mạnh của mình. Là giai cấp bị áp bức, bóc lột, có lợi ích đối lập trực tiếp với 
giai cấp tư sản, giai cấp công nhân kiên quyết đấu tranh chống giai cấp tư 
sản, có khả năng đoàn kết với quần chúng lao động bị áp bức bóc lột trong 
cuộc đấu tranh chung. 
Cùng với sự phát triển không ngừng của sản xuất đại công nghiệp, giai 
cấp công nhân không ngừng lớn lên về mặt số lượng và chất lượng. Do lợi ích 
đối lập của giai cấp tư sản, giai cấp công nhân không ngừng đấu tranh chống 
giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh ấy dẫn đến hình thành ý thức giai cấp và 
chính đảng của giai cấp công nhân. Thông qua chính đảng tiên phong của 
mình, giai cấp công nhân lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền tiến 
hành cuộc cải biến cách mạng đối với xã hội không có giai cấp, do đó, giai 
cấp công nhân tự xoá bỏ với tư cách là một giai cấp. 
 Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” C.Mác và Ăngghen 
có viết: 
Sự phát triển của nền đại công nghiệp đã phá sập dưới chân giai cấp 
tư sản chính ngay cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã xây dựng lên chế 
độ sản xuất và chiếm hữu nó Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của 
giai cấp vô sản là tất yếu như nhau 
 2 
I. Cơ sở lý luận 
1. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình 
lịch sử tự nhiên. 
Lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau 
từ thấp đến cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế - xã 
hội. Sự vận động thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch 
sử đều do tác động của quy luật khách quan, đó là quá trình lịch sử tự nhiên 
của xã hội. Marx viết "Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã 
hội là một quá trình lịch sử tự nhiên". 
Các mặt cơ bản hợp thành một hình thái kinh tế - xã hội: lực lượng sản 
xuất quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tách rời nhau, mà liên hệ biện 
chứng với nhau hình thành nên những quy luật phổ biến của xã hội. Do tác 
động của quy luật khách quan đó, mà các hình thái kinh tế - xã hội vận động 
và phát triển thay thế nhau từ thấp lên cao trong lịch sử như một quá trình 
lịch sử tự nhiên không phụ thuộc và ý trí, nguyện vọng chủ quan của con 
người. 
Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa ở 
sự phát triển của lực lượng sản xuất. 
Lực lượng sản xuất, một mặt của phương thức sản xuất, là yếu tố bảo 
đảm tính kế thừa trong sự phát triển lên của xã hội qui định khuynh hướng 
phát triển từ thấp. Quan hệ sản xuất là mặt thứ hai của phương thức sản xuất 
biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển của lịch sử. Những quan hệ sản 
xuất lỗi thời được xoá bỏ và được thay thế bằng những kiểu quan hệ sản xuất 
mới cao hơn và hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn ra đời. Như vậy, sự 
xuất hiện, sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội, sự chuyển biến từ hình 
thái đó lên hình thái cao hơn được giải thích trước hết bằng sự tác động của 
quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực 
 3 
lượng sản xuất. Quy luật đó là khuynh hướng tự tìm đường cho mình trong sự 
phát triển thay thế các hình thái kinh tế - xã hội. Nghiên cứu con đường tổng 
quát của sự phát triển lịch sử được quy định bởi quy luật chung của sự vận 
động của nền sản xuất vật chất chúng ta nhìn thấy logic của lịch sử thế giới. 
Thực tế lịch sử loài người đã trải qua các hình thái kinh tế xã hội: cộng 
sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa. Sau khi xây 
dựng học thuyết hình thái kinh tế xã hội, C.Mác đã vận dụng học thuyết đó 
vào phân tích xã hội tư bản, vạch rõ các quy luật vận động, phát triển của xã 
hội và đã đi đến dự báo sự ra đời cùa hình thái kinh tế xã hội cao hơn, hình 
thái cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. 
Vạch ra con đường tổng quát của lịch sử, điều đó có nghĩa là giải thích 
được rõ ràng sự phát triển xã hội trong mỗi thời điểm của quá trình lịch sử. 
Lịch sử cụ thể vô cùng phong phú, có hàng loạt những yếu tố làm cho quá 
trình lịch sử đa dạng và thường xuyên biến đổi, không thể xem xét quá trình 
lịch sử như một đường thẳng. 
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhân tố quyết định quá 
trình lịch sử, xét đến cùng là nền sản xuất đời sống thực hiện. Nhưng nhân tố 
kinh tế không phải là nhân tố duy nhất quyết định các nhân tố khác nhau của 
kiến trúc thượng tầng đều có ảnh hưởng đến quá trình lịch sử. Nếu không 
tính đến sự tác động lẫn nhau của các nhân tố đó thì không thấy hàng loạt 
những sự ngẫu nhiên mà tính tất yếu kinh tế xuyên qua để tự vạch ra đường 
đi cho mình. Vì vậy để hiểu lịch sử cụ thể thì cần thiết phải tính đến tất cả 
các nhân tố bản chất có tham gia trong quá trình tác động lẫn nhau đó. 
Có nhiều nguyên nhân làm cho quá trình chung của lịch sử thế giới có 
tính đa dạng, điều kiện của môi trường địa lý có ảnh hưởng nhất định đến sự 
phát triển xã hội. Đặc biệt ở buổi ban đầu của sự phát triển xã hội, thì điều 
kiện của môi trường địa lý là một trong những nguyên nhân quy định quá 
trình không đồng đều của lịch sử thế giới, có dân tộc đi lên, có dân tộc trí tuệ 
 4 
lạc hậu. Cũng không thể không tính đến sự tác động của những yếu tố như 
Nhà nước, tính độc đáo của nền văn hoá của truyền thống của hệ tư tưởng và 
tâm lý xã hội vv đối với tiến trình lịch sử. 
Điều quan trọng trong lịch sử là sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các dân 
tộc. Sự ảnh hưởng đó có thể diễn ra dưới những hình thức rất khác nhau từ 
chiến tránh và cướp đoạt đến việc trao đổi hàng hoá và giao lưu văn hoá. Nó 
có thể được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế, 
khao học - kỹ thuật đến hệ tư tưởng. Trong điều kiện của thời đại ngày nay, 
có những nước phát triển kỹ thuật rất nhanh chóng, nhờ nắm vững và sử dụng 
những thành tựu khoa học - kỹ thuật của các nước khác. ảnh hưởng của ý 
thức đã có một ý nghĩa lớn lao trong lịch sử. 
Không thể hiểu được tính độc đáo của các riêng biệt nếu không tính 
đến sự phát triển không đồng đều của sự phát triển lịch sử thế giới một dân 
tộc này tiến lên phía trước, một số dân tộc khác lại ngừng trệ, một số nước do 
hàng loạt những nguyên nhân cụ thể lại bỏ qua một hình thái kinh tế- xã hội 
nào đó. Điều đó chứng tỏ là sự kế tục thay thế các hình thái kinh tế - xã hội 
không giống nhau ở tất cả các dân tộc. 
Tuy nhiên, trong toàn bộ tính đa dạng của lịch sử của các dân tộc khác 
nhau thì trong mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể vẫn có khuynh hướng chủ đọ nhất 
định của sự phát triển xã hội. Để xác định đặc trưng của giai đoạn này hay 
giai đoạn khác của lịch sử thế giới phù hợp với khuynh hướng lịch sử chủ đạo 
đó là khái niệm thời đại lịch sử. 
2. Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có các giai 
cấp đối kháng 
Nghiên cứu phép biện chứng nói chung, quy luật thống nhất và đấu 
tranh giữa các mặt đối lập nói riêng, chúng ta thấy rằng, mâu thuẫn nói 
chung và đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự phát 
 5 
triển. Nguồn gốc của sự phát triển xã hội là do sự phát triển của sản xuất, là 
sự thay thế các phương thức sản xuất khi lực lượng sản xuất phát triển đến 
mức mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất lỗi thời. 
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, do lợi ích của mình, giai cấp thống 
trị đã duy trì, bảo vệ quan hệ sản xuất cũ bằng tất cả sức mạnh hiện có, đặc 
biệt dùng bộ máy nhà nước thống trị để chống lại lực lượng của các giai cấp 
mới đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến. Vì vậy muốn thay đổi quan hệ 
sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới mở đường cho lực lượng sản xuất tiếp 
tục phát triển phải gạt bỏ sự cản trở của giai cấp thống trị, phải thông qua 
cuộc đấu tranh giai cấp. Rõ ràng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan 
hệ sản xuất được biểu hiện về mặt xã hội là cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai 
cấp đại diện cho lực lượng sản xuất mới và giai cấp thống trị muốn duy trì 
quan hệ sản xuất cũ, để bảo vệ lợi ích của chúng. Song, vì giai cấp thống trị 
có cả bộ máy quyền lực nhà nước để chống lại các lực lượng tiến bộ, cho nên 
cuộc đấu tranh giai cấp ấy dẫn tới cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội – 
“cái đầu tiên của lịch sử ấy” dẫn đến xoá bỏ chế độ xã hội chũ, xoá bỏ giai 
cấp thống trị và quan hệ sản xuất thống trị, thiết lập chế độ mới, tạo điều kiện 
để quan hệ sản xuất mới ra đời phát triển, trở thành quan hệ sản xuất chi 
phối, thống trị, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Bởi vậy, đấu 
tranh giai cấp có ý nghĩa là động lực lớn của sự phát triển xã hội, nó là một 
phương thức cơ bản để giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan 
hệ sản xuất, xác lập phương thức sản xuất mới, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Có 
thể nói rằng, đấu tranh giai cấp trong mỗi thời kỳ lịch sử có các giai cấp đối 
kháng đều xuất phát từ kinh tế và nhằm giải quyết vấn đề kinh tế, từ đó kéo 
theo những vấn đề khác và thông qua đó thúc đẩy xã hội phát triển. 
Đấu tranh giai cấp là phương tiện, điều kiện chứ không phải là mục 
đích, mục đích của đấu tranh giai cấp là làm cho sản xuất phát triển, kinh tế 
phát triển, xã hội tiến bộ, xác lập một hình thái kinh tế – xã hội mới tiến bộ, 
thay thế cho hình thái kinh tế xã hội cũ đã lỗi thời. 
 6 
Đối với người cộng sản, lý tưởng của họ là đấu tranh nhằm tiến tới xoá 
bỏ giai cấp bóc lột cuối cùng trong lịch sử, thực hiện tự do, bình đẳng, bác ái 
trên thực tế. Song đó là một quá trình lịch sử lâu dài, trải qua các bước gập 
ghềnh, quanh co, chứ không phải là con đường thẳng tắp, dễ dàng. 
Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển quan trọng 
của xã hội có giai cấp, như C.Mác và Ăngghen nói, nó là một đòn bẩy vĩ đại 
của cuộc cách mạng xã hội hiện đại. Nhu cầu ngày càng tăng của con 
người, sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ, cả những nhân tố, 
về tư tưởng, đạo đức . đều là những động lực của sự phát triển xã hội. Đấu 
tranh giai cấp là một động lực cơ bản của sự phát triển của xã hội có các giai 
cấp đối kháng 
3. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân 
Chủ nghĩa Mác Lênin không coi giai cấp công nhân chỉ là giai cấp 
chịu nhiều đau khổ, “đáng được cứu vớt” mà chính là giai cấp có sự mệnh 
lịch sử hết sức to lớn là xoá bỏ chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa – chế độ bóc 
lột cuối cùng trong xã hội loài người, thực hiện sự chuyển hoá từ xã hội tư 
bản lên xã hội xã hội chủ nghĩa. 
Theo Mác và Ăngghen, sứ mệnh lịch sử ấy không phải do ý muốn chủ 
quan của giai cấp công nhân hoặc do sự áp đặt của các nhà tư tưởng, mà do 
những điều kiện khách ... ùng đều tan vỡ. Rõ ràng vấn đề 
không thể được giải quyết nếu như mẫu thuẫn cơ bản ấy không được giải 
quyết. 
Trong tình hình đó chủ nghĩa tư bản cỉa lương lại xuất đầu lộ diện. 
Nhiều chính trị gia, học giả tư sản thường nêu ra chiêu bài xã hội sẽ biến đổi 
về cơ bản không phải bàng đấu tranh cách mạng mà bằng sự chuyển biến dần 
nhận thức và lòng chắc ẩn của giai cấp tư sản, số khác thì rêu rao về các khả 
năng giải quyết những mâu thuẫn giữa tư bản và lao động nằm ngay trong 
quá trình thực hiện những nhiệm vụ sản xuất. Nghĩa là, theo họ cần phải tiến 
hành "cuộc cải cách trí tuệ và đạo đức" ngay trước khi giành được chính 
quyền từ giai cấp tư sản. Tất cả chỉ là mị dân bởi trong tình hình hiện nay mà 
giai cấp tư sản đang làm ra sức củng cố lực lượng và sẵn sàng tiêu diệt bất cứ 
một sự phản kháng nào hay một ý đồ nào đụng tới sự tồn vong cuả chính 
quyền tư sản. 
Gần đây, người ta cũng luôn bàn luận nhiều về một yếu tố trong nền 
chính trị của các nước chủ nghĩa tư bản phát triển là chế độ xã hội dân chủ ở 
 11 
một số nước từng được coi là kiểu mẫu chính trị cho các nước tư bản. Đúng 
là không ai phủ nhận được một số thành tựu quan trọng về kinh tế - xã hội 
mà các nước ày đạt được và một thời tạo ra cái ảo tưởng về một lối thoát cho 
chủ nghĩa tư bản là có thể thay đổi được hoàn toàn thực trạng mà không thay 
đổi thực chất nhưng hiện nay tình hình đã không như người ta mong muốn. 
Nhưng vấn đề cố hữu của chủ nghĩa tư bản một thời được khoả lấp nay lại nổi 
lên. 
Cuối cùng nếu quan sát một các cách khách quan trên bình diện các 
mối quan hệ quốc tế, người ta không thể thấy rõ số phận của các nước tư bản 
chủ nghĩa phát triển nói riêng và vận mệnh của chủ nghĩa tư bản nói chung. 
Chủ nghĩa tư bản không thể sử dụng mãi những biện pháp đàn áp, khai thác 
hay lợi dụng như trước đây đối với các nước thuộc thế giới thứ ba. Vị trí và 
quyền lợi cua rhọ ở các nước thứ ba luôn bị đe doạ. Những món nợ cũ liệu có 
mãi là xích xiềng đối với các nước thế giới thứ ba, khi ngày càng nhiều nước 
đói xoá nợ giảm nợ hoặc hoãn trả nợ vô thời hạn? và các Nhà nước thế giới 
thứ ba liệu có cam chịu mãi những cuộc trao đổi bất bình đẳng với các nước 
tư bản trong khi họ không thiếu cơ hội trong trao đổi với các nước khác và 
giữa họ với nhau? điều này đã trực tiếp làm lung lay địa vị và chi phối số 
phận của chủ nghĩa tư bản. 
Thậm chí, ngay sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông 
Âu, liệu sự ổn định của chủ nghĩa tư bản có đủ sức chứng tỏ chủ nghĩa tư bản 
là con đường phát triển tối ưu của nhân loại ? không bởi vì chủ nghĩa tư bản 
vẫn không thoát khỏi những căn bệnh "thâm căn cố đế" của nó, dù "mối đe 
doạ cộng sản" tưởng như nhẹ đi. Chủ nghĩa tư bản vẫn không khát vọng xâm 
phạm nền độc lập của các quốc gia, trà đạp quyền lợi tự do của các dân tộc 
bằng đủ hình thức can thiệp vũ trang thô bạo cuộc chiến Kôsôvô - hay âm 
mưu diễn biến hoà mình với những cuộc chiến trah nhung lụa kích động và 
xô đầy các nước và chém giết đẫm mấu ở khắp các châu lục. Và người ta 
cũng đang chức thực khối mâu thuẫn ngày càng lớn và căng thằng giữa các 
 12 
nước tư bản phát triển trong cuộc xấu xé giành vị trí hàng đầu trong trật tự 
thế giới hiện nay, mâu thuẫn đó đang trở thành nguy cơ đe doạ không những 
chính số phận họ mà còn cả nhân loại. Đó là bằng chứng không gì chối bỏ 
được. 
Sự đổ vỡ của Đông Âu xã hội chủ nghĩa và của Liên Xô là sự đổ vỡ 
của mọt mô hình xã hội chủ nghĩa có một số mặt thích hợp ở một thời kỳ 
thích hợp nhưng chậm đổi mới cho phù hợp với sự tiến hoá. Đây không phải 
là sự phá sản của chủ nghĩa xã hội. Nếu chúng ta cho rằng đây là sự đổ vỡ 
của chủ nghĩa xã hội nói chung, là sự phá sản của học thuyết xã hội chủ 
nghĩa thì phải chăng chúng ta cho rằng lịch sử đã đi tới sự kết thúc vận động. 
Thực ra, lịch sử luôn vận động, không tuỳ thuộc vào ý muốn của ai. Một số 
chính khách, học giả tư sản muốn kéo lùi lịch sử, muốn chủ nghĩa tư bản tồn 
tại vĩnh viễn nhưng lịch sử vẫn tìm ra con đường phát triển của nó để tiến tới 
một xã hội công bằng, bác ái thực sự thay thế chủ nghĩa tư bản. Đó là chủ 
nghĩa xã hội. Mộ hình chủ nghĩa xã hội của Liên Xô trước đây là một mô 
hình được thể nghiệm, không đồng nhất với chủ nghĩa xã hội khoa học. Từ 
khi Liên Xô sụp đổ đến nay, phong trào xã hội chủ nghĩa với những mô hình 
mới như mô hình của chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc, mô hình 
chủ nghĩa xã hội của Việt Nam đang phát triển. Những tìm tòi sáng tạo mới 
đang thúc đẩy phong trào xã hội chủ nghĩa đi lên, không bị gò bó bởi những 
công thức có sẵn. 
Trong thời đại ngày nay, nhân tố kinh tế sự phát triển cao của lực 
lượng sản xuất suy cho cùng là nhân tố quyết định thắng lợi của chủ nghĩa xã 
hội. Song nhân tố chính trị xét về mặt chủ thể (chủ quan ) của lịch sử lại trở 
thành nhân tố quyết định trong bước đường phát triển của dân tộc. 
Vào giữa những năm 80, kinh tế xã hội nước ta lầm vào cuộc khùng 
hoảng trầm trọng, chế độ xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đang chao đảo. 
Nhưng cũng chính vào lúc ấy, Đảng ta đã quyết định đường lối đổi mới, chủ 
 13 
trương xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ 
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ 
nghĩa, hội nhập và mở cửa với bên ngoài. Một lần nữa sự khẳng định của 
Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã được thực tiễn xác nhận là 
đúng đắn. 
Có thể nói, những quyết sách của Đảng ta ở thời kỳ này thể hiện sự 
năng động về tư duy lý luận gắn liền với sự mẫn cảm về thực tiễn cùng bản 
lĩnh chính trị vững vàng. Đó là sự khẳng định tính tất yếu của sự đổi mới theo 
định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới để phát triển, để thoát khỏi tình trạng 
khùng hoảng, để vượt qua những kìm hãm của mô hình cũ - mô hình hành 
chính bao cấp, để giải phóng và khia thác mọi tiềm năng phát triển của xã hội 
nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. 
Đổi mới không phải là từ bỏ chủ nghĩa xã hội, mà là khẳng định tính quy luật 
của con đường phát triển đó làm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội 
công bừng văn minh, đúng với quy luật khách quan hơn phù hợp với hoàn 
cảnh, điều kiện thực tế của đất nước với xu thế, đặc điểm của thế giới hiện 
đại. Đổi mới là để xây dựng chủ nghĩa xã hội hiệu quả hơn làm cho chủ 
nghĩa xã hội hộc lộ và khẳng định bản chất ưu việt của nó, từng bước định 
hình và phát triển trong thực tế, làm, cho đời sống vật chất ngày càng tăng, 
đời sống tinh thần ngày càng tốt, xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ", để cho 
nhân dân ta có cuộc sống ấm no, hạnh phúc được học hành tiến bộ và phát 
triển mọi khả năng sáng tạo của mình" để cho "dân thực sự là chủ và làm chủ 
lẫy và cuộc xống của mình? Như Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh. 
Mặc dù xuất phát điểm khi bước vào thời kỳ quá độ ở nước ta còn rất 
thấp, nhiều yếu tố còn ở mức tiền thời kỳ quá độ. Song, trong những năm 
qua, chúng ta đã xây dựng được một số cơ sở vật chất kỹ thuật bước đầu rất 
quan trọng (tuy còn non yếu). Hơn nữa, bằng vai trò lãnh đạo của Đảng và 
vai trò quản lý của Nhà nước, chúng ta có thể đưa ra đường lối đúng và có kế 
hoạch, biện pháp thích hợp để giải phóng và khai thác mọi tiềm năng về sức 
 14 
sản xuất hiện có; động viên tối đa mọi nguồn lực vật chất, trí tuệ của dân tộc; 
kết hợp tối ưu sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Tranh thủ ứng dụng 
có hiệu quả những thành tựu khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại do 
quá trình quốc tế hoá tạo ra. Đó là cách đi tốt nhất để pháp triển lực lượng 
sản xuất nhằm khắc phục tình trạng lạc hậu về kinh tế và xây dựng cơ sở vật 
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, để rút ngắn quá trình lịch sử tự nhiên, 
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 
Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất 
cả các nước. Mở rộng quan hệ kinh tế với các nước, các tổ chức quốc tế, kể 
cả tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng 
cùng có lợi để khai thác tốt nhất mọi nguồn lực bên ngoài: thành tựu khoa 
học - kỹ thuật và công nghệ, vốn và kinh nghiệm tổ chức quản lý..v.v.. 
Như vậy, đi lên xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan, và nó được thể 
hiện trong cuộc sống đổi mới của Đảng ta, đổi mới để xác lập một sự ổn định 
mới nhằm làm cho đất nước đạt tới sự phát triển bền vững. Chế độ xã hội chủ 
nghĩa mà chúng ta đa xây dựng sẽ là chế độ phát triển và sử dụng tốt nhất 
những nguồn lực của chính mình, trong đó sức mạnh quyết định chính là là 
nguồn lực con người. Đó là mục tiêu quan trọng nhất của chủ nghĩa xã hội. 
2. Liên hệ bản thân 
Trong hoàn cảnh hiện nay khi mà hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa 
bị thu hẹp, kẻ địch đang tấn công quyết liệt bằng nhiều hình thức và thủ 
đoạn, mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, những tệ nạn xã hội hàng ngày 
hàng giờ đang tác động nhưng tôi vẫn giữ niềm tin, phấn đấu không mệt mỏi 
để góp một phần nhỏ trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta 
mà Đảng ta đã vạch ra, tham gia tích cực vào công cuộc đổi mới đất nước, 
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, chấp hành nghiệp chỉnh Cương lĩnh, 
 15 
đường lối, nghị quyết, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, có một 
cuộc sống lành mạnh vui tươi không chịu ảnh hưởng của các tệ nạn xã hội. 
Đất nước ta đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới, với nhiệm vụ trọng 
tâm là xây dựng phát triển kinh tế. Vì vậy tôi luôn cố gắng phấn đấu học tập, 
nghiên cứu khoa học, ngoài ra tôi vẫn tham gia tiếp tục các khoá học như tin 
học, ngoại ngữ đế có điều kiện tiếp cận với những tri thức của thế giới, ngoài 
ra tôi còn thường xuyên đọc thêm các tài liệu sách báo, theo dõi các sự kiện 
trong nước và quốc tế để trau dồi kiến thức góp phần, phục vụ công cuộc xây 
dựng và phát triển đất nước. Luôn luôn cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ 
được giao 
 16 
Kết Luận 
Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu đối với tất cả nhân loại. 
Chúng ta phải nhận thấy rằng con đường mà chúng ta đang đi tới là một con 
đường gian lao, thử thách, đòi hỏi toàn Đảng - toàn dân - toàn quân ta phải 
cùng đồng lòng, chung sức và cùng cố gắng, thì mới có thể thành công. 
Chúng ta bước được tới đỉnh vinh quang hay không, có bước được đến 
CNXH-CNCS hay không, điều đó còn phải tuỳ thuộc vào tất cả mọi người có 
cố gắng, nỗ lực hay không. Tất cả chúng ta sẽ cùng cố gắng để có thể thực 
hiện được ước mơ và nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân, bởi 
quá độ được đến CNXH, chúng ta sẽ tìm được thấy hạnh phúc, ấm no và 
công bằng, chúng ta sẽ thấy được ánh sáng của văn minh nhân loại, cái mà 
bấy lâu nay chúng ta tìm kiếm nó. 
 17 
 18 
Tài Liệu Tham Khảo 
1. Giáo trình Triết học 
2. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học 
3. Giáo trình Kinh tế chính trị 
4. Văn kiên Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX - NXB CTQG. 
5. "Về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam " Tác giả 
:GS.Nguyễn Đức Bình . NXB CTQG . 
6. Tạp chí Cộng sản 
7. Tạp chí Lý luận chính trị 

File đính kèm:

  • pdfluan_van_su_phat_trien_cua_cac_hinh_thai_kinh_te_xa_hoi_la_m.pdf