Chuyên đề Tốt nghiệp Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương khu vực II – Hai Bà Trưng – Hà Nội

chương i:

lý luận cơ bản về ttkdtm

trong nền kinh tế thị trường

i. sự cần thiết khách quan và vai trò của ttkdtm trong nền kinh tế thị trường.

1. Sự cần thiết khách quan của TTKDTM trong nền kinh tế

Thanh toán là khâu mở đầu và cũng là khâu kết thúc của quá trình sản xuất, lưu

thông hàng hoá.Chính vì vậy mà các phương tiện thanh toán luôn luôn được đổi mới

hiện đại để phù hợp với nhịp độ tăng trưởng không ngừng của sản xuất- lưu thông

hàng hoá.

Nền sản xuất hàng hoá càng phát triển thì nhu cầu của con người ngày càng cao

và khối lượng hàng hoá, dịch vụ ngày càng đa dạng cả về khối lượng và chất lượng,

các quan hệ thương mại được mở rộng ra trên phạm vi quốc tế thì việc thanh toán

bằng tiền mặt gặp nhiều trở ngại và bộc lộ những hạn chế nhất định. Trước hết là

thanh toán dùng tiền mặt có độ an toàn không cao, với khối lượng hàng hoá, dịch vụ

giao dịch lớn thì việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt sẽ không an toàn cho cả

người trả tìên và người nhận tiền do trong quá trình thanh toán phải có sự kiểm đếm,

bảo quản, vận chuyển tiền. Tiếp đó, khi quan hệ thanh toán mở rộng ra phạm vi quốc

tế thì chi phí về thủ tục chuyển đổi tiền để thanh toán chi trả sẽ rất lớn vì khoảng

cách giữa người mua và người bán nhiều khi ở rất xa nhau trong khi thời gian để

người mua mang tiền đến trả bị khống chế, điều này dẫn đến sự kìm hãm sản xuấtlưu thông hàng hoá. Hơn nữa, thanh toán bằng tiền mặt hạn chế khả năng tạo tiền

của NHTM, gây ra nạn làm tiền giả. Nền kinh tế luôn có nhu cầu tiền mặt để thanh

toán, chi tiêu gây sức ép giả tạo về sự khan hiếm tiền mặt trong nền kinh tế, làm cho

giá cả của hàng hoá có khả năng tăng cao (không phản ánh giá trị thực của hàng hoá)

gây khó khăn cho ngân hàng nhà nước (NHNN) trong việc điều hành chính sách tiền

tệ. Ngoài ra, còn một vấn đề quan trọng nữa là chi phí rất lớn mà NHNN phải bỏ ra

để in tiền, vận chuyển, bảo quản tiền mặt.

Từ thực tế khách quan này, và trong thời kỳ nền kinh tế chuyển sang một một

giai đoạn phát triển mạnh mẽ tiền mặt không thể đáp ứng nhu cầu thanh toán của

toàn bộ nền kinh tế đòi hỏi phải có những hình thức thanh toán mới ra đời tiên tiến

hơn, hiện đại hơn phù hợp đáp ứng nhu cầu sản xuất lưu thông hàng hoá. Hình thức

thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM ) ra đời đã khắc phục những hạn chế của

thanh toán dùng tiền mặt, đồng thời thúc đẩy sự phát triển sản xuất và lưu thông

hàng hoá trong nền linh tế.Vậy TTKDTM là gì ?

“ TTKDTM là cách thanh toán không có sự xuất hiện của tiền mặt mà được tiến

hành bằng cách trích từ tài khoản của người chi trả để chuyển vào tài khoản của

người thụ hưởng mở tại ngân hàng, hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò

trung gian của ngân hàng “.

pdf 63 trang chauphong 20/08/2022 11840
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chuyên đề Tốt nghiệp Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương khu vực II – Hai Bà Trưng – Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyên đề Tốt nghiệp Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương khu vực II – Hai Bà Trưng – Hà Nội

Chuyên đề Tốt nghiệp Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương khu vực II – Hai Bà Trưng – Hà Nội
 Trang 1 
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP 
KHOA 
TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG 
Đề tài: ”Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thanh toán 
không dùng tiền mặt tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương 
khu vực II – Hai Bà Trưng – Hà Nội “. 
 Trang 2 
lời mở đầu 
Năm 2003 tình hình kinh tế- xã hội nước ta tiếp tục đạt được những thành tựu 
quan trọng, tăng trưởng kinh tế khả quan và đạt mức cao nhất trong những năm gần 
đây, cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, khả 
năng hội nhập và cạnh tranh của nền kinh tế tăng lên cùng với những cải thiện đáng 
kể trong các lĩnh vực xã hội. Đạt được những kết quả này có sự đóng góp rất lớn của 
hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam, đặc biệt là hoạt động thanh toán 
qua ngân hàng. Hoạt động thanh toán là hoạt động không thể thiếu của bất cứ một 
ngân hàng thương mại, một tổ chức kinh tế nào. Hoạt động thanh toán là loại sản 
phẩm dịch vụ mà NHTM cung cấp cho nền kinh tế để đáp ứng yêu cầu thanh toán 
tiền hàng hoá, dịch vụ của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân trong xã hội. 
Khi nền kinh tế càng phát triển, công tác thanh toán của ngân hàng ngày càng chiếm 
một vị trí vô cùng quan trọng. 
 Nhận rõ được tầm quan trọng của hoạt động thanh toán nhất là thanh toán không 
dùng tiền mặt (TTKDTM), trong những năm qua ngành ngân hàng nói chung và hệ 
thống ngân hàng công thương (NHCT) nói riêng đã tập trung chỉ đạo, cải tiến về cơ 
chế nghiệp vụ và hiện đại hoá công nghệ thanh toán nhằm thu hút ngày càng nhiều 
khách hàng và nhanh chóng hội nhập vào khu vực và thế giới. Do đó công tác 
TTKDTM qua ngân hàng đã thực sự đi vào đời sống xã hội và đem lại những thành 
tựu đáng kể. Tuy nhiên so với yêu cầc phát triển của nền kinh tế trong thời kỳ đổi 
mới thì dịch vụ thanh toán của các NHTM Việt Nam còn bất cập về nhiều mặt, đặc 
biệt là hiện đại hoá công nghệ thanh toán và phổ cập TTKDTM trong khu vực dân 
cư. Điều này đặt ra cho ngành ngân hàng Việt Nam nói chung và hệ thống NHCT 
nói riêng cũng như các nhà khoa học kinh tế phải tìm ra các giải pháp hữu hiệu để 
hoàn chỉnh dịch vụ này và tạo tiền đề để ngành ngân hàng mau chóng hội nhập 
chung vào mạng lưới thanh toán quốc tế. 
 Trang 3 
 Bằng những kiến thức tiếp thu được do các thầy cô giáo của Học viện Ngân hàng 
truyền đạt, sự quản lý giáo dục của trường Đại học Dân lập Đông đô và qua gần hai 
tháng thực tập tại Ngân hàng Công Thương Hai Bà Trưng Hà Nội em đã lựa chọn đề 
tài: ”Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thanh toán không dùng tiền mặt tại chi 
nhánh Ngân hàng Công Thương khu vực II – Hai Bà Trưng – Hà Nội “. 
Bản chuyên đề được kết cấu làm 3 chương: 
 Chương I: Lý luận cơ bản về TTKDTM trong nền kinh tế thị trường. 
 Chương II: Thực trạng TTKDTM tại chi nhánh NHCT khu vực II- Hai Bà Trưng
 Hà Nội. 
 Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng TTKDTM tại chi nhánh
 NHCT- Hai Bà Trưng. 
 Do vốn kiến thức còn hạn chế nên chuyên đề tốt nghiệp sẽ không tránh khỏi 
nhiều khuyết điểm. Vậy rất mong được sự quan tâm và giúp đỡ của các thầy cô giáo 
Học viện Ngân hàng cùng ban giám hiệu trường Đại học Dân lập Đông đô, và tập 
thể cán bộ nhân viên Ngân hàng Công Thương- Hai Bà Trưng- Hà Nội giúp em 
hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp với kết quả tốt đẹp và mong được góp phần nhỏ bé 
của mình vào sự nghiệp phát triển của ngành. 
 Em xin chân thành cảm ơn! 
 Hà nội Ngày 22/04/2004 
 Trang 4 
 chương i: 
lý luận cơ bản về ttkdtm 
trong nền kinh tế thị trường 
i. sự cần thiết khách quan và vai trò của ttkdtm trong nền kinh tế thị trường. 
 1. Sự cần thiết khách quan của TTKDTM trong nền kinh tế 
Thanh toán là khâu mở đầu và cũng là khâu kết thúc của quá trình sản xuất, lưu 
thông hàng hoá.Chính vì vậy mà các phương tiện thanh toán luôn luôn được đổi mới 
hiện đại để phù hợp với nhịp độ tăng trưởng không ngừng của sản xuất- lưu thông 
hàng hoá. 
Nền sản xuất hàng hoá càng phát triển thì nhu cầu của con người ngày càng cao 
và khối lượng hàng hoá, dịch vụ ngày càng đa dạng cả về khối lượng và chất lượng, 
các quan hệ thương mại được mở rộng ra trên phạm vi quốc tế thì việc thanh toán 
bằng tiền mặt gặp nhiều trở ngại và bộc lộ những hạn chế nhất định. Trước hết là 
thanh toán dùng tiền mặt có độ an toàn không cao, với khối lượng hàng hoá, dịch vụ 
giao dịch lớn thì việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt sẽ không an toàn cho cả 
người trả tìên và người nhận tiền do trong quá trình thanh toán phải có sự kiểm đếm, 
bảo quản, vận chuyển tiền. Tiếp đó, khi quan hệ thanh toán mở rộng ra phạm vi quốc 
tế thì chi phí về thủ tục chuyển đổi tiền để thanh toán chi trả sẽ rất lớn vì khoảng 
cách giữa người mua và người bán nhiều khi ở rất xa nhau trong khi thời gian để 
người mua mang tiền đến trả bị khống chế, điều này dẫn đến sự kìm hãm sản xuất- 
lưu thông hàng hoá. Hơn nữa, thanh toán bằng tiền mặt hạn chế khả năng tạo tiền 
của NHTM, gây ra nạn làm tiền giả. Nền kinh tế luôn có nhu cầu tiền mặt để thanh 
toán, chi tiêu gây sức ép giả tạo về sự khan hiếm tiền mặt trong nền kinh tế, làm cho 
giá cả của hàng hoá có khả năng tăng cao (không phản ánh giá trị thực của hàng hoá) 
gây khó khăn cho ngân hàng nhà nước (NHNN) trong việc điều hành chính sách tiền 
 Trang 5 
tệ. Ngoài ra, còn một vấn đề quan trọng nữa là chi phí rất lớn mà NHNN phải bỏ ra 
để in tiền, vận chuyển, bảo quản tiền mặt. 
Từ thực tế khách quan này, và trong thời kỳ nền kinh tế chuyển sang một một 
giai đoạn phát triển mạnh mẽ tiền mặt không thể đáp ứng nhu cầu thanh toán của 
toàn bộ nền kinh tế đòi hỏi phải có những hình thức thanh toán mới ra đời tiên tiến 
hơn, hiện đại hơn phù hợp đáp ứng nhu cầu sản xuất lưu thông hàng hoá. Hình thức 
thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM ) ra đời đã khắc phục những hạn chế của 
thanh toán dùng tiền mặt, đồng thời thúc đẩy sự phát triển sản xuất và lưu thông 
hàng hoá trong nền linh tế.Vậy TTKDTM là gì ? 
“ TTKDTM là cách thanh toán không có sự xuất hiện của tiền mặt mà được tiến 
hành bằng cách trích từ tài khoản của người chi trả để chuyển vào tài khoản của 
người thụ hưởng mở tại ngân hàng, hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò 
trung gian của ngân hàng “. 
2. Vai trò của TTKDTM trong nền kinh tế 
 TTKDTM ra đời và phát triển cho đến ngày nay cũng là nhờ nó có những vai 
trò to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế: 
- TTKDTM cung cấp cho các chủ thể thanh toán những công cụ thanh toán 
nhanh chóng, thuận tiện, hiện đại. Khi thực hiện thanh toán, họ không phải mang 
theo tiền mặt mà chỉ cần sử dụng một số những hình thức TTKDTM, do vậy sẽ tránh 
được rủi ro mất trộm, giảm chi phí vận chuyển, kiểm đếm, bảo quản tiền mặt. Nhờ 
đó, chất lượng của hoạt động thanh toán ngày càng nâng cao, góp phần thúc đẩy 
hoạt động sản xuất lưu thông hàng hoá mang lại hiệu quả kinh tế cao và hạn chế 
được hoạt động rửa tiền. 
 - TTKDTM giúp cho ngân hàng tập trung được nguồn vốn trong xã hội phục vụ 
cho quá trình phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.TTKDTM qua ngân 
hàng tạo điều kiện cho ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong thanh 
toán cho đầu tư, cho vay sản xuất sau khi đã tính toán dự trữ một lượng vốn nhất 
 Trang 6 
định đảm bảo được tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khoản dự trữ đảm bảo khả năng thanh toán 
của mình. Khi TTKDTM qua ngân hàng được nhanh chóng, thuận tiện sẽ tạo điều 
kiện thu hút các đơn vị cá nhân đến mở tài khoản thanh toán hoặc gửi tiền. 
- TTKDTM góp phần làm giảm lượng tiền mặt trong lưu thông qua đó tiết kiệm 
được chi phí lưu thông như: in ấn tiền mặt, bảo quản, vận chuyển kìm hãm và đẩy 
lùi lạm phát, đảm bảo an toàn cho việc dự trữ tiền và tài sản của xã hội, đẩy mạnh 
tốc độ lưu chuyển tiền tệ. TTKDTM góp phần giải quyết được tình trạng thiếu tiền 
mặt trong ngân quỹ làm cho hoạt động của ngân hàng được thực hiện trong suốt, 
hoàn thiện chức năng trung gian thanh toán của NHTM. 
- TTKDTM tạo điều kiện cho NHTM thực hiện chức năng“ tạo tiền “. 
TTKDTM sử dụng tiền ghi sổ, thực hiện thanh toán bằng cách trích chuyển từ tài 
khoản người phải trả sang tài khoản người thụ hưởng hoặc bù trừ giữa các NHTM 
với nhau. Do đó, TTKDTM luôn tạo ra một lượng tiền nhàn rỗi mà ngân hàng có thể 
sử dụng cho vay. Đây chính là cơ sở để ngân hàng thực hiện chức năng tạo tiền của 
mình. 
- TTKDTM giúp ngân hàng có thể kiểm soát một phần lượng tiền trong nền 
kinh tế, nắm bắt được tình hình biến động số dư tài khoản của khách hàng, tình hình 
thu nhập, tình hình hoạt động kinh doanh, khả năng tài chính để cung ứng các 
dịch vụ, cho vay, tư vấnĐồng thời, thông qua các thông tin từ tài khoản thanh toán 
của khách hàng, ngân hàng sẽ có được những quyết định cho vay đúng đắn, đảm bảo 
thu gốc và lãi đúng hạn, giam tỷ trọng nợ quá hạn, nợ khó đòi, nợ xấu; tăng dư nợ 
tín dụng, mở rộng và phát triển nghiệp vụ tín dụng 
- TTKDTM nâng cao năng lực cạnh tranh giữa các NHTM và thúc đẩy các dịch 
vụ khác phát triển. Hiện nay, ngoài sự có mặt của các NHTM quốc doanh còn có sự 
góp mặt của rất nhiều của các tổ chức ngân hàng nước ngoài, các tổ chức phi ngân 
hàng như bảo hiểm, bưu diện cũng cung cấp một số dịch vụ ngân hàng cho khách 
hàng. Khách hàng ngày càng có nhiều cơ hội lựa chọn dịch vụ ngân hàng sao cho 
 Trang 7 
thoả mãn nhu cầu tốt nhất, chi phí thấp nhất, độ an toàn cao nhất, nhanh chóng và 
thuận tiện....Do vậy, để thu hút khách hàng đến sử dụng dịch vụ của mình ( nhất là 
TTKDTM ) các ngân hàng phải không ngừng cải tiến dịch vụ để thắng trong cạnh 
tranh, tích cực áp dụng công nghệ hiện đại, đổi mới phong cách giao dịch. 
- TTKDTM còn có vai trò đối với quản lý vĩ mô của nhà nước. Việc TTKDTM 
qua ngân hàng đòi hỏi hoạt động thanh toán của khách hàng phải qua ngân hàng 
hoặc phải mở tài khoản tại ngân hàng. Vì vậy, thông qua hoạt động TTKDTM nhà 
nước có thể kiểm soát được lượng tiền mặt lưu thông trên thị trường để có biện pháp 
quản lý lạm phát, quản lý sự biến động của thị trường, thiết lập các chính sách tài 
chính – tiền tệ quốc gia. Bên cạnh đó việc thanh toán qua ngân hàng sẽ kiểm soát 
được tình trạng thu chi của các doanh nghiệp hạn chế tình trạng tham ô, chi tiêu mờ 
ám, chốn thuế, rửa tiền. 
Tóm lại, TTKDTM trong nền kinh tế thị trường có vai ttrò đặc biệt quan trọng 
đối với các chủ thể thanh toán, các trung gian thanh toán, các đối tượng cơ quan 
quản lý nhà nước. Đứng trên góc độ ngành nó phản ánh khá trung thực bộ mặt hay 
trang thiết bị cơ sở vật chất của ngành. ở tầm vĩ mô TTKDTM phản ánh trình độ 
phát triển kinh tế và dân trí của một nước. Bên cạnh đó, việc áp dụng những thành 
tựu khoa học công nghệ vào công tác TTKDTM làm cho hệ thống ngân hàng ngày 
càng trở nên hiện đại góp phần ổn định và phát triển hệ thống tài chính quốc gia, đẩy 
mạnh quá trình hội nhập quốc tế. 
ii. sơ lược quá trình phát triển ttkdtm ở việt nam 
 1. TTKDTM trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung 
 Trong thời kỳ này, nền kinh tế nước ta gồm có hai thành phần kinh tế cơ bản là 
kinh tế quốc doanh và kinh tế tập th ...  hợp như: Chi nhánh phải 
xác định thị trường hiện tại, tương lai cho các dịch vụ thanh toán để phục vụ nhu cầu 
tốt nhất của khách hàng; Tặng quà, áp dụng mức phí ưu đãi đối với những khách 
hàng thường xuyên sử dụng các hình thức TTKDTM hoặc thanh toán với khối lượng 
lớn; Tăng cường quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng về những tiện 
ích mà TTKDTM mang lại để thu hút nhiều khách hàng hơn. 
iii. một số kiến nghị về vận dụng các hình thức ttkdtm 
1. Về Séc 
Hiện nay trên thế giới Séc là công cụ được sử dụng rất phổ biến, nhiều nước đã 
có luật riêng về Séc. ở nước ta, mới đây Chính phủ ban hành Nghị định 
159/2003/NĐ- CP về cung ứng và sử dụng Séc. Do thanh toán bằng Séc vẫn còn hạn 
chế nên cần có một số giải pháp sau. 
 Trang 56 
1.1 Về Séc chuyển khoản 
Hiện nay, việc sử dụng Séc chuyển khoản vẫn bó hẹp trong phạm vi địa bàn một 
tỉnh, thành phố giữa các khách hàng có tài khoản tại cùng một ngân hàng hoặc khác 
ngân hàng nhưng có tham gia thanh toán bù trừ trên địa bàn. Như vậy thanh toán 
Séc chuyển khoản chưa được áp dụng trong toàn quốc. Với việc áp dụng thanh toán 
quâ mạng máy vi tính trong các hệ thống NHTM ngày càng mở rộng và tạo điều 
kiện hình thành trung tâm thanh toán bù trừ Séc trên phạm vi toàn quốc, ngành ngân 
hàng nên mở rộng phạm vi thanh toán Séc chuyển khoản. Ngân hàng nên nghiên cứu 
và áp dụng thanh toán Séc chuyển khoản giữa các khách hàng khác địa bàn trong 
cùng một hệ thống. Điều này hoàn toàn có thể làm được vì từ trước đến nay Séc bảo 
chi đã được sử dụng trên phạm vi này. Mặc dù mức độ an toàn của Séc chuyển 
khoản không bằng Séc bảo chi, nhưng thủ tục phát hành lại đơn giản hơn dễ sử dụng 
hơn nhiều. Điều kiện hiện nay việc nối mạng và thông tin nhanh các ngân hàng hoàn 
toàn có thể biết được thực trạng của khách hàng cũng như khả năng thanh toán của 
họ. Tuy nhiên khi áp dụng thanh toán bằng Séc chuyển khoản giữa các địa bàn khác 
nhau không thể bỏ qua các công đoạn luân chuyển chứng từ. Chính điều này có thể 
làm cho quá trình thanh toán bị chậm lại ảnh hưởng đến quyền lợi của người thụ 
hưởng Séc. Để giải quyết khó khăn này nên chăng các ngân hàng có thể cung ứng 
trước cho khách hàng một loại dịch vụ như ở các ngân hàng Singapo áp dụng là “ 
mua Séc ngoài địa bàn ”. Theo cách này khi người thụ hưởng nộp Séc vào ngân 
hàng, ngân hàng sẽ thoả thuận mua lại tờ Séc đó với giới hạn tối đa và ghi Có ngay 
vào tài khoản người được hưởng số tiền tương ứng đồng thời trích phí hoa hồng 
thanh toán của ngân hàng. Trường hợp tờ Séc bị từ chối thanh toán ngân hàng sẽ ghi 
Nợ lại vào tài khoản của khách hàng, trả lại Séc cho khách hàng để xử lý theo luật 
định. Hình thức này giống như chiết khấu có truy đòi một thương phiếu. Để đảm bảo 
an toàn, ngân hàng khi nhận Séc sẽ ký kết một thoả thuận về hình thức mua lại Séc 
với các khách hàng có uy tín, luôn đảm bảo khả năng thanh toán, đồng thời ngân 
 Trang 57 
hàng phải nắm được rõ thông tin về người phát hành Séc qua mạng máy vi tính của 
hệ thống. 
Mặt khác, SCK có ưu điểm là phát hành đơn giản thuận tiện với bên mua song 
cũng có nhược điểm là dễ bị phát hành quá số dư, gây thiệt hại cho người bán mặc 
dù nhiều khi người mua không muốn. Vì thế mà các bên mua bán rất “ dè dặt “ khi 
sử dụng loại hình thanh toán này. Khi một tờ Séc phát hành quá số dư thì người phát 
hành Séc sẽ bị phạt ( Phạt phát hành quá số dư và phạt trả chậm ) còn người thụ 
hưởng sẽ bị chậm trễ trong thanh toán có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh. 
Vì vậy để khắc phục nhược điểm này, đồng thời tạo điều kiện cho khách hàng, ngân 
hàng nên cho phép khách hàng có thể bị dư nợ hay phát hành Séc chuyển khoản quá 
số dư trong một hạn mức tín dụng cho phép. 
Đây thực chất là một loại cho vay thanh toán đối với SCK. Tuy nhiên đối tượng 
sử dụng hình thức này là khách hàng có khả năng tài chính tốt, nguồn thu ổn định, 
kỷ luật thanh toán tốt, có uy tín trong quan hệ thanh toán. Hiện nay ở nước ta chưa 
áp dụng hình thức này. 
Đối với các tờ Séc nộp chậm ( quá thời hạn lưu hành ). Theo quy định hiện nay, ở 
nước ta ngân hàng từ chối chấp nhận tờ Séc nộp quá hạn trừ phi có xác nhận của 
UBND phường , xã. Nhưng theo thông lệ quốc tế thì Séc là một lệnh trả tiền vô điều 
kiện, việc xác nhận của UBND phường, xã là những thủ tục rườm rà, không cần 
thiết; người thụ hưởng vẫn sẽ nhận được tiền nếu như thời hạn hiệu lực của Séc vẫn 
còn, số dư tài khoản của người phát hành vẫn còn đủ. Như vậy, việc xây dựng cơ sở 
pháp lý về Séc của Việt Nam cũng cần tuân thủ những thông lệ quốc tế để việc mở 
rộng thanh toán Séc không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn được mở rộng ra trên 
phạm vi quốc tế. 
1.2 Về Séc bảo chi 
Theo quy định hiện hành khách hàng muốn phát hành SBC thì phải ký gửi tiền 
phát hành vào “ Tài khoản đảm bảo thanh toán SBC “. Tuy nhiên hiện nay với 
 Trang 58 
phương tiện lưu ký tiền gửi trên máy vi tính đã cho phép một số ngân hàng không 
cần trích tiền gửi vào “ Tài khoản đảm bảo thanh toán SBC “ mà vẫn kiểm soát được 
hoạt động phát hành Séc của khách hàng. Để tránh được tiền bị ứ đọng trên “ Tài 
khoản đảm bảo thanh toán SBC “ gây lãng phí vốn, NHNN nên vừa cho phép các tổ 
chức cung ứng dịch vụ thanh toán áp dụng hình thức SBC có lưu ký vừa áp dụng 
SBC không phải lưu ký. áp dụng theo cách nào là tuỳ thuộc vào sự tín nhiệm về mặt 
tài chính của người xin bảo chi Séc với ngân hàng và phương tiện kỹ thuật của ngân 
hàng. Nếu làm được như vậy, chắc chắn SBC sẽ phát triển mạnh hơn. 
2. Về UNT và UNC 
2.1 Kiến nghị về UNT 
Trên thực tế khách hàng sử dụng UNT rất hạn chế và chủ yếu áp dụng đối với 
các khoản thu mang tính chất định kỳ thường xuyên như: tiền nước, tiền điện, tiền 
điện thoại....Đó là do quy trình thanh toán của hình thức này còn lòng vòng. NHNN 
nên quy định khi người bán cung ứng hàng hoá, dịch vụ cho người mua thì lập UNT 
gửi trực tiếp đến ngân hàng phục vụ người mua để thu hộ. Như vậy, quá trình thanh 
toán sẽ diễn ra nhanh chóng hơn. Khi lập UNT, người bán có quyền ghi rõ thời hạn 
thanh toán và hình thức phạt chậm trả để đảm bảo lợi ích của mình và chủ động hơn 
trong thanh toán. Tiến tới NHNN phải khuyến khích các NHTM mở rộng phạm vi 
thanh toán như: Thu phí bảo hiểm của các loại hình bảo hiểm ( đặc biệt là BHXH ), 
thu tiền trả góp, thu lãi hay lợi nhuận từ đầu tư chứng khoán. Ngoài ra NHNN cần 
quy định chặt chẽ hơn thể thức thanh toán này để tránh tình trạng bên bán lập nhờ 
thu khống hoặc thu vượt tiền so với giá trị thực của hàng hoá dịch vụ đã cung cấp 
cho người mua. Nếu xẩy ra thu vượt tiền hoặc thu khống thì bên bán cũng phải chịu 
phạt để bồi hoàn cho bên thiệt hại. 
2.2 Kiến nghị về UNC 
UNC là hình thức thanh toán chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng phương tiện 
TTKDTM vì những tiện ích của nó. Tuy nhiên để hình thức này ngày càng phát triển 
 Trang 59 
thì nên áp dụng “ UNC có phạt trả chậm “. Cụ thể, sau khi nhận hàng hoá hay dịch 
vụ thì chậm nhất sau 2 ngày người mua phải hoàn thành việc thanh toán tiền cho 
người bán.Nếu sau 2 ngày mới lập UNC gửi cho ngân hàng để đề nghị thanh toán thì 
NH sẽ tính phạt chậm trả bắt đầu từ ngày thứ 3. Tỷ lệ phạt và cách tính phạt chậm 
trả giống hình thức UNT như hiện nay( lãi suất phạt = 150% lãi suất vay đang áp 
dụng cho DN). Trường hợp người mua lập và nộp UNC vào NH trong phạm vi thời 
hạn của UNC nhưng số dư tài khoản tiền gửi của người mua không đủ tiền thanh 
toán thì NH được lưu giữ UNC và ghi nhập “Sổ theo dõi UNC quá hạn” . Khi TK 
tiền gửi người mua đủ tiền thì sẽ xuất “Sổ theo dõi UNC quá hạn” để hạch toán thu 
tiền cho người bán và tính phạt chậm trả. Để NH có thể biết được đã quá hạn thanh 
toán hay chưa thì khi gửi UNC vào NH phục vụ người mua phải đính kèm theo hoá 
đơn mua hàng để đối chiếu với ngày mua ghi trên hoá đơn. 
3. Một số kiến nghị khác 
* Đối với nhà nước: Nhà nước nên nghiên cứu đưa ra những quy định như: 
- Tổ chức trả lương cho cán bộ, công nhân viên của các xí nghiệp doanh nghiệp 
nhà nước qua tài khoản ngân hàng. Đồng thời tiến tới thu thuế, phí, dịch vụ hướng tự 
nguyện hoặc bắt buộc qua ngân hàng. 
- Hỗ trợ vốn cho ngành ngân hàng trong việc nâng cấp đổi mới trang thiết bị phục 
vụ công tác TTKDTM. 
* Đối với cán bộ, nhân viên ngân hàng: 
- Không ngừng nâng cao kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ, đồng thời luân tự 
học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp cả trong và ngoài ngân hàng. 
- Lắng nghe ý kiến đóng góp của khách hàng, từ đó hoàn thiện công tác thanh 
toán, quan hệ tốt với khách hàng để thu huút ngày càng nhiều khách hàng. 
* Đối với khách hàng: 
 Trang 60 
Thường xuyên có hoạt động quảng cáo, tuyên truyền đối vơi các hình thức 
TTKDTM cũng như tiện ích của nó để khách hàng biết và sử dụng nó nhiều hơn, 
khuyến khích mở tài khoản thanh toán qua ngân hàng. 
 Trang 61 
 kết luận 
Hoạt động thanh toán là một trong những chức năng quan trọng của hoạt động 
kinh doanh không những của ngành ngân hàng mf nó còn tác động rất lớn tới sự 
tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế. Để có thể hoà nhập cùng các nước trong khu 
vực và thế giới, một vấn đề dặt ra đối với hệ thống ngân hàng nước ta là phải làm tốt 
công tác thanh toán cho nền kinh tế nhất là TTKDTM. 
Xuắt phát từ thực tế áp dụng các hình thức TTKDTM trong những năm vừa qua 
ở nước ta nói chung và qua thời gian thực tập tại NHCT- HBT, trong đề tài này em 
đã đề cập đến một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng TTKDTM. Những vấn đè 
nêu lên, đặc biệt là những kiến nghị của em đều xuất phát từ thực tế dựa trên cơ sở 
lý luận cơ bản mà các thầy, cô đã giảng dậy tại trường cùng với việc tìm hiểu tình 
hình TTKDTM tại NHCT- HBT. Với sự quan tâm nhiệt tình giúp đỡ, hướng dẫn của 
cán bộ NHCT- HBT và đặc biệt là sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo Lê Văn Luyện- 
nguyên phó khoa Kế toán- Kiểm toán, cùng với sự nỗ lực cố gắng của bản thân em 
đã hoàn thành được chuyên đề tốt nghiệp. Tuy nhiên vì kiến thức có hạn, em kính 
mong các thầy cô trong khoa Kế toán- Kiểm toán ngân hàng và các cô chú tại 
NHCT- HBT đóng góp ý kiến để đề tài có tính hiện thực và ý nghĩa thực tiễn hơn 
nữa. Em tin rằng trong tương lai các hình thức TTKDTM sẽ phát triển mạnh hơn để 
đưa Việt Nam vào một tương lai rực rỡ. 
Em xin chân thành cảm ơn và kết thúc chuyên đề tốt nghiệp tại đây. 
 Trang 62 
tài liệu tham khảo 
1. Thông tin NHCT Việt Nam số 1, 4 ( năm 2004 ) 
2. Giáo trình Kế toán ngân hàng- Tác giả Vũ Thiện Thập 
3. Marketing ngân hàng- Tác giả Nguyễn Thị Minh Hiền 
4. Báo cáo công tác Huy động vốn- sử dụng vốn năm 2002, 2003 của NHCT- HBT 
5. Báo cáo Tổng kết Hoạt động kinh doanh năm 2002, 2003 của NHCT- HBT 
6. Báo cáo nghiệp vụ thanh toán năm 2002, 2003 của NHCT- HBT 
7. Nghị định 159/2003/NĐ- CP ngày 10/12/2003 của Chính Phủ về cung ứng và sử 
dụng Séc. 
8. Tạp chí ngân hàng 
9. Tạp chí lý luận và nghiệp vụ ngân hàng ( Vụ thông tin báo chí ) 
 Trang 63 
Nhận xét của cơ quan nơi thực tập 
Hà Nội. Ngày 30 tháng 5 năm 2004 
 Giám đốc ngân hàng 

File đính kèm:

  • pdfchuyen_de_tot_nghiep_giai_phap_nham_nang_cao_chat_luong_than.pdf