Chuyên đề Tốt nghiệp Bàn về công tác quản lí thu thuế giá trị gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể trên địa bàn quận Ba Đình

Phần I

Sự cần thiết phải quản lý thuế giá trị gia tăng

đối với thành phần kinh tế cá thể.

I. Thuế và vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường:

1. Khái niệm, đặc điểm của Thuế:

Thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước và sự phát

triển tồn tại của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ. Nhà nước sử dụng thuế

như một công cụ để phục vụ cho việc thực hiện các chức năng và nhiệm

vụ của mình. Lịch sử càng phát triển, các hệ thống thuế khoá, các hình

thức thuế khoá và pháp luật thuế ngày càng đa dạng và hoàn thiện cùng

với sự phát triển của kinh tế thị trường, các khoản đóng góp của người

dân cho Nhà nước được xác định và được quy định công khai bằng luật

pháp của Nhà nước .

Các khoản thuế đóng góp của dân tạo thành quỹ tiền tệ của Nhà

nước. Cùng với sự hoàn thiện chức năng của Nhà nước, phạm vi sử

dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước ngày càng mở rộng. Nó không chỉ đảm

bảo chi tiêu để duy trì quyền lực của bộ máy Nhà nước, mà còn để chi

tiêu cho các nhu cầu phúc lợi chung và kinh tế. Như vậy gắn liền với

Nhà nước, thuế luôn là một vấn đề thời sự nóng bỏng đối với các hoạt

động kinh tế xã hội và với mọi tầng lớp dân cư.

Có rất nhiều các quan điểm nhìn nhận thuế dưới nhiều hình thức

khác nhau, nhưng đứng trên góc độ tài chính, có thể xem xét thuế dưới

khái niệm như sau:Trang 8

Thuế là một trong những biện pháp tài chính bắt buộc nhưng

phi hình sự của Nhà nước nhằm động viên một số bộ phận thu nhập

từ lao động, từ của cải, từ vốn, từ các chi tiêu hàng hoá và dịch vụ, từ

tài sản của các thể nhân và pháp nhân nhằm tập trung vào tay Nhà

nước để trang trải các khoản chi phí cho bộ máy nhà nước và các

nhu cầu chung của xã hội. Các khoản động viên qua thuế được thể

chế hoá bằng luật.

Với nhận thức như vậy, có thể thấy rõ sự khác nhau giữa thuế với

các hình thức phân phối khác dựa trên những đặc điểm chủ yếu sau đây:

 Đặc điểm thứ nhất : Thuế là một biện pháp tài chính của

Nhà nước mang tính quyền lực, tính cưỡng chế, tính pháp lý cao nhưng

sự bắt buộc này là phi hình sự.

Quá trình động viên nguồn thu từ thuế của Nhà nước là quá trình

chuyển đổi quyền sở hữu một bộ phận thu nhập của các pháp nhân và

thể nhân thành quyền sở hữu của Nhà nước. Do đó Nhà nước phải dùng

quyền lực để thực hiện quyền chuyển đổi. Tính quyền lực tạo nên sự

bắt buộc là một tất yếu khách quan, nhưng vì các hoạt động thu nhập

của thể nhân và pháp nhân không gây cản trở cho xã hội nên tính bắt

buộc này là phi hình sự. Vì vậy có thể nói việc đánh thuế không mang

tính hình phạt.

Đặc điểm này được thể chế hoá trong hiến pháp của mọi quốc gia,

việc đóng góp thuế cho nhà nước được coi là một trong những nghĩa vụ

bắt buộc đối với công dân. Mọi công dân làm nghiã vụ đóng thuế theo

những luật thuế được cơ quan quyền lực tối cao quy định và nếu không

thi hành sẽ bị cưỡng chế theo những hình thức nhất định.

* Đặc điểm thứ hai: Thuế tuy là biện pháp tài chính của Nhà nước

mang tính bắt buộc, song sự bắt buộc đó luôn luôn được xác lập trênTrang 9

nền tảng kinh tế-xã hội của người làm nhiệm vụ đóng thuế, do đó thuế

bao giờ cũng chứa đựng các yếu tố kinh tế xã hội.

+ Yếu tố kinh tế thể hiện : Hệ thống thuế trước hết phải kể đến

thu nhập bình quân đầu người của một Quốc gia, cơ cấu kinh tế, thực

tiễn vận động của cơ cấu kinh tế đó, cũng như chính sách, cơ chế quản

lý của Nhà nước. Cùng với yếu tố đó còn phải kể đến phạm vi, mức độ

chi tiêu của Nhà nước nhằm thực hiện các chức năng kinh tế của mình.

+ Yếu tố xã hội thể hiện : Hệ thống thuế phải dựa trên phong tục,

tập quán của quốc gia, kết cấu giai cấp cũng như đời sống thực tế của

các thành viên trong từng giai đoạn lịch sử. Mặt khác thuế còn thực

hiện phân phối lại thu nhập xã hội đảm bảo công bằng xã hội.

Như vậy mức động viên qua thuế trong GDP của một quốc gia

phụ thuộc vào nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và các vấn đề kinh tế, xã

hội của quốc gia đó.

pdf 83 trang chauphong 20/08/2022 9920
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chuyên đề Tốt nghiệp Bàn về công tác quản lí thu thuế giá trị gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể trên địa bàn quận Ba Đình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chuyên đề Tốt nghiệp Bàn về công tác quản lí thu thuế giá trị gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể trên địa bàn quận Ba Đình

Chuyên đề Tốt nghiệp Bàn về công tác quản lí thu thuế giá trị gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể trên địa bàn quận Ba Đình
Trang 1 
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP 
KHOA 
TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG 
Đề tài: “Bàn về công tác quản lí thu thuế giá trị gia tăng 
ở khu vực kinh tế cá thể trên địa bàn quận Ba đình" . 
Trang 2 
Lời nói đầu 
 Thuế là khoản thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước, là công cụ 
quan trọng để phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập 
quốc dân. Như vậy, có thể thấy rằng Thuế là một biện pháp kinh tế của mọi 
Nhà nước. Song để biện pháp đó đạt hiệu quả sẽ rất cần đến một bộ phận 
chuyên trách, chất lượng trong quá trình quản lý và hành thu. 
 Nhận thức được điều này, đồng thời để bắt nhịp được với bước 
chuyển biến về cơ cấu, thành phần kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã thực 
thi cải cách hệ thống Thuế bước hai. Trong đó, nổi bật nhất là việc thay thế 
2 sắc thuế Doanh thu và thuế Lợi tức bằng thuế Giá trị gia tăng và thuế 
Thu nhập doanh nghiệp được thông qua tại kỳ họp thứ 11 và có hiệu lực thi 
hành từ 1/1/1999. Đây là bước đi vô cùng quan trọng, thể hiện sự mạnh 
dạn của Đảng ta trong công cuộc đổi mới nền kinh tế. Tuy nhiên sự khởi 
đầu nào cũng đều có những chắc trở không thể tránh khỏi, nhất là ở khu 
vực kinh tế cá thể cả nước nói chung và đặc biệt ở Quận Ba Đình nói riêng. 
Để có thể tháo gỡ được những khó khăn này và tìm ra hướng đi mới là cả 
một vấn đề nan giải đối với Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế và các cơ quan 
hữu quan. 
 Quận Ba Đình là một trong 7 Quận nội thành của thành phố Hà 
nội. Quận Ba Đình không rộng về diện tích nhưng có nhiều trụ sở, cơ quan 
trung ương của Đảng, chính phủ, các cơ quan ngoại giao, đại sứ quán. Tuy 
nhiên hoạt động sản xuất kinh doanh ở đây cũng rất phong phú. Qua thời 
gian thực tập ở Chi cục Thuế quận Ba đình, được sự giúp đỡ tận tình của 
các thầy, cô giáo và các cán bộ công tác tại Chi cục, tôi đã đi sâu nghiên 
cứu và phân tích tình hình thực tế quản lí thu thuế giá trị gia tăng ở 
Trang 3 
khu vực kinh tế cá thể trên địa bàn Quận Ba đình trong những tháng 
đầu triển khai luật thuế mới này.Từ đó cũng xin được đưa ra một số 
phương hướng nhằm tăng cường công tác quản lí thu thuế giá trị gia tăng ở 
khu vực kinh tế cá thể, góp phần tăng thu cho Ngân sách nhà nước. 
 Bắt nguồn từ những lí do trên nên đề tài có tên gọi là: “Bàn về 
công tác quản lí thu thuế giá trị gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể trên 
địa bàn quận Ba đình" . 
 Toàn bộ đề tài được trình bày theo kết cấu sau: 
 Phần I: Sự cần thiết phải quản lý thuế giá trị gia tăng đối với 
thành phần kinh tế cá thể hiện nay. 
 Phần II: Tình hình quản lý thu thuế giá trị gia tăng ở khu vực kinh 
tế cá thể trên địa bàn quận Ba đình trong quý I năm 2003 
 Phần III: Một số phương hướng tăng cường quản lý thu thuế giá 
trị gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể ở quận Ba đình. 
 Vì thời gian thực tập và trình độ hạn hẹp nên bài viết không thể 
tránh khỏi khiếm khuyết, sai sót. Rất mong được sự góp ý, chỉ bảo của các 
thầy cô, các cán bộ thuế và những người quan tâm. 
 Xin chân thành cảm ơn. 
Trang 4 
Mục lục 
Phần I: Sự cần thiết phải quản lý thuế giá trị gia tăng đối 
với thành phần kinh tế cá thể hiện nay. 
I. Thuế và vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường: 
1. Khái niệm, đặc điểm của thuế. 
2. Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường. 
II. Sự cần thiết phải áp dụng thuế giá trị gia tăng ở nước ta hiện 
nay: 
1. Sự cần thiết phải áp dụng thuế Giá trị gia tăng thay cho 
thuế Doanh thu. 
2. Thuế Giá trị gia tăng và những ưu điểm nổi bật. 
3. Nội dung cơ bản của luật thuế giá trị gia tăng. 
III. ý nghĩa của công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với khu 
vực kinh tế cá thể: 
1. Vị trí, vai trò của kinh tế cá thể trong nền kinh tế thị 
 trường. 
2. ý nghĩa của việc tăng cường quản lý thuế giá trị gia tăng 
đối với khu vực kinh tế cá thể. 
Phần II: Tình hình quản lý thu thuế giá trị 
gia tăng ở khu vực kinh tế cá thể trên địa bàn Quận Ba Đình 
quý I năm 2003. 
Trang 5 
I. Đặc điểm kinh tế xã hội và tình hình quản lý thu thuế trên địa 
bàn quận Ba Đình: 
1. Một số nét về đặc điểm kinh tế xã hội. 
2. Công tác tổ chức bộ máy thu thuế trên địa bàn quận Ba 
Đình. 
II. Tình hình quản lý thu thuế giá trị gia tăng với các hộ kinh tế cá 
thể trên địa bàn quận Ba Đình trong những tháng đầu thực hiện luật 
thuế mới: 
1. Quản lý đối tượng nộp thuế. 
2. Quản lý căn cứ tính thuế. 
3. Quản lý khâu thu nộp tiền thuế. 
Phần III: Một số phương hướng 
tăng cường quản lý thu thuế ở khu vực kinh tế cá thể tại 
Quận Ba Đình. 
I. Quản lí đối tượng nộp thuế: 
1. Quản lý những hộ đã quản lý được . 
2. Quản lý những hộ chưa quản lý được. 
II. Quản lý về căn cứ tính thuế: 
III. Một số biện pháp quản lý thu nộp trên thuế: 
1. Công tác xây dựng kế hoạch. 
2. Công tác đôn đốc thu nộp thuế. 
Trang 6 
3. Công tác kiểm tra và thanh tra thuế. 
IV. Các biện pháp về tổ chức cán bộ: 
1. Chấn chỉnh bộ máy hoạt động của Chi cục thuế Quận Ba 
Đình. 
2. Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ một cách có hệ thống. 
 3. Có chính sách về lương thoả đáng đối với cán bộ thuế. 
 4. Tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cơ quan thuế và các 
cấp, các ngành có liên quan. 
V. Một số biện pháp khác: 
1. Từng bước đưa khoa học kỹ thuật vào quản lý thu thuế 
như ứng dụng công cụ tin học. 
2. Làm thay đổi thói quen của người dân về việc sử dụng hoá 
đơn, chứng từ. 
3. Kiến nghị về văn bản luật, chính sách của Nhà nước. 
Trang 7 
 Phần I 
Sự cần thiết phải quản lý thuế giá trị gia tăng 
đối với thành phần kinh tế cá thể. 
I. Thuế và vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường: 
1. Khái niệm, đặc điểm của Thuế: 
 Thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước và sự phát 
triển tồn tại của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ. Nhà nước sử dụng thuế 
như một công cụ để phục vụ cho việc thực hiện các chức năng và nhiệm 
vụ của mình. Lịch sử càng phát triển, các hệ thống thuế khoá, các hình 
thức thuế khoá và pháp luật thuế ngày càng đa dạng và hoàn thiện cùng 
với sự phát triển của kinh tế thị trường, các khoản đóng góp của người 
dân cho Nhà nước được xác định và được quy định công khai bằng luật 
pháp của Nhà nước . 
 Các khoản thuế đóng góp của dân tạo thành quỹ tiền tệ của Nhà 
nước. Cùng với sự hoàn thiện chức năng của Nhà nước, phạm vi sử 
dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước ngày càng mở rộng. Nó không chỉ đảm 
bảo chi tiêu để duy trì quyền lực của bộ máy Nhà nước, mà còn để chi 
tiêu cho các nhu cầu phúc lợi chung và kinh tế. Như vậy gắn liền với 
Nhà nước, thuế luôn là một vấn đề thời sự nóng bỏng đối với các hoạt 
động kinh tế xã hội và với mọi tầng lớp dân cư. 
 Có rất nhiều các quan điểm nhìn nhận thuế dưới nhiều hình thức 
khác nhau, nhưng đứng trên góc độ tài chính, có thể xem xét thuế dưới 
khái niệm như sau: 
Trang 8 
 Thuế là một trong những biện pháp tài chính bắt buộc nhưng 
phi hình sự của Nhà nước nhằm động viên một số bộ phận thu nhập 
từ lao động, từ của cải, từ vốn, từ các chi tiêu hàng hoá và dịch vụ, từ 
tài sản của các thể nhân và pháp nhân nhằm tập trung vào tay Nhà 
nước để trang trải các khoản chi phí cho bộ máy nhà nước và các 
nhu cầu chung của xã hội. Các khoản động viên qua thuế được thể 
chế hoá bằng luật. 
 Với nhận thức như vậy, có thể thấy rõ sự khác nhau giữa thuế với 
các hình thức phân phối khác dựa trên những đặc điểm chủ yếu sau đây: 
 Đặc điểm thứ nhất : Thuế là một biện pháp tài chính của 
Nhà nước mang tính quyền lực, tính cưỡng chế, tính pháp lý cao nhưng 
 sự bắt buộc này là phi hình sự. 
 Quá trình động viên nguồn thu từ thuế của Nhà nước là quá trình 
chuyển đổi quyền sở hữu một bộ phận thu nhập của các pháp nhân và 
thể nhân thành quyền sở hữu của Nhà nước. Do đó Nhà nước phải dùng 
quyền lực để thực hiện quyền chuyển đổi. Tính quyền lực tạo nên sự 
bắt buộc là một tất yếu khách quan, nhưng vì các hoạt động thu nhập 
của thể nhân và pháp nhân không gây cản trở cho xã hội nên tính bắt 
buộc này là phi hình sự. Vì vậy có thể nói việc đánh thuế không mang 
tính hình phạt. 
 Đặc điểm này được thể chế hoá trong hiến pháp của mọi quốc gia, 
việc đóng góp thuế cho nhà nước được coi là một trong những nghĩa vụ 
bắt buộc đối với công dân. Mọi công dân làm nghiã vụ đóng thuế theo 
những luật thuế được cơ quan quyền lực tối cao quy định và nếu không 
thi hành sẽ bị cưỡng chế theo những hình thức nhất định. 
 * Đặc điểm thứ hai: Thuế tuy là biện pháp tài chính của Nhà nước 
mang tính bắt buộc, song sự bắt buộc đó luôn luôn được xác lập trên 
Trang 9 
nền tảng kinh tế-xã hội của người làm nhiệm vụ đóng thuế, do đó thuế 
bao giờ cũng chứa đựng các yếu tố kinh tế xã hội. 
 + Yếu tố kinh tế thể hiện : Hệ thống thuế trước hết phải kể đến 
thu nhập bình quân đầu người của một Quốc gia, cơ cấu kinh tế, thực 
tiễn vận động của cơ cấu kinh tế đó, cũng như chính sách, cơ chế quản 
lý của Nhà nước. Cùng với yếu tố đó còn phải kể đến phạm vi, mức độ 
chi tiêu của Nhà nước nhằm thực hiện các chức năng kinh tế của mình. 
 + Yếu tố xã hội thể hiện : Hệ thống thuế phải dựa trên phong tục, 
tập quán của quốc gia, kết cấu giai cấp cũng như đời sống thực tế của 
các thành viên trong từng giai đoạn lịch sử. Mặt khác thuế còn thực 
hiện phân phối lại thu nhập xã hội đảm bảo công bằng xã hội. 
 Như vậy mức động viên qua thuế trong GDP của một quốc gia 
phụ thuộc vào nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và các vấn đề kinh tế, xã 
hội của quốc gia đó. 
 * Đặc điểm thứ ba: Thuế là một khoản đóng góp không mang tính 
chất hoàn trả trực tiếp. Nghiã là khoản đóng góp của công dân bằng 
hình thức thuế không đòi hỏi phải hoàn trả đúng bằng số lượng và 
khoản thu mà nhà nước thu từ công dân đó như là một khoản vay 
mượn. Nó sẽ được hoàn trả lại cho người nộp thuế thông qua cơ chế 
đầu tư của Ngân sách nhà nước cho việc sản xuất và cung cấp hàng hoá 
công cộng. 
 Đặc điểm này làm nổi rõ sự khác nhau giữa thuế và lệ phí. Lệ phí 
được coi là một khoản đối giá giữa Nhà nước với công dân, khi công 
dân thừa hưởng những dịch vụ công cộng do nhà nước cung cấp phải 
trả một phần thu nhập của mình cho nhà nước. Tuy nhiên việc trao đổi 
này thường không tuân thủ theo hình thức trao đổi ngang giá dựa trên 
quy luật của thị trường. 
Trang 10 
 Tóm lại, Thuế là một biện pháp kinh tế của mọi Nhà nước, nó 
được thực thi khi hoạt động kinh tế tạo ra thu nhập hoặc sử dụng nguồn 
thu nhập tạo ra. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường vai trò của Nhà 
nước ngày càng trở nên quan trọng thì vai trò của thuế cũng chiếm vị trí 
không thể thiếu được trong công tác quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh 
tế. 
2. Vai trò của Thuế trong nền kinh tế thị trường: 
 Sử dụng cơ chế thị trường để giải quyết 3 vấn để cơ bản của nền 
kinh tế (sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai) là phát kiến vĩ đại của nhân 
loại, cơ chế thị trường thông qua những yếu tố của nó đã tạo ra động 
lực thúc đẩy sản xuất phát triển, kích thích tăng năng suất lao động, 
nâng cao chất lượng hiệu quả, thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất, 
đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung hoá sản xuất. 
 Bên cạnh những ưu điểm đó, cơ chế ... một việc làm hết sức cấp 
bách không chỉ riêng ngành thuế mà đòi hỏi tất cả các ngành, các cấp cũng cần 
phải có. Muốn vậy Chi cục cần phải có những biện pháp sau đây: 
+ Khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho các cán bộ theo học các lớp 
hệ tập trung dài hạn và ngắn hạn với những người chưa qua đại học. Biện 
pháp để nâng cao trình độ cho cán bộ là thông qua các lớp học tại chức, lớp 
học tập trung dài hạn, Chi cục cần tạo mọi điều kiện về cơ sở, vật chất cho 
cán bộ theo học. 
+ Thường xuyên mở các lớp đào tạo bồi dưỡng nâng cao cho cán bộ 
chuyên sâu theo từng loại nghiệp vụ công tác của họ. Tăng cường phổ biến 
những kinh nghiệm, những điển hình tốt trong công tác này. Hàng tháng, hàng 
quý tổ chức các cuộc hội thảo, thảo luận theo chuyên đề về thuế và các nghiệp 
vụ thu để cán bộ có điều kiện trao đổi kinh nghiệm với nhau. Coi đây là một 
trong những giải pháp nhằm nâng cao trình độ quản lý cho cán bộ chuyên 
quản. 
Trang 76 
+ Đổi mới việc tuyển chọn cán bộ vào ngành thuế , tuyển chọn theo 
phương thức thi tuyển các sinh viên đã tốt nghiệp đại học đặc biệt là các đối 
tượng đã tốt nghiệp chuyên ngành thuế của trường Đại học Tài chính kế toán. 
+Gắn chặt quyền lợi và trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ được 
giao. Trên cơ sở đó mà kích thích tinh thần phấn đấu công tác hoàn thành 
nhiệm vụ được giao. 
+ Cần có một qui chế định rõ quyền hạn và trách nhiệm của cán bộ, 
nhân viên trong ngành thuế. Kiên quyết đưa ra khỏi ngành những cán bộ yếu 
về năng lực, thoái hoá biến chất để làm trong sạch và nâng cao chất lượng đội 
ngũ cán bộ thuế. Phải thường xuyên liên tục bồi dưỡng giáo dục phẩm chất 
đạo đức, tác phong cho cán bộ và thực hiện tốt 10 điều kỷ luật của ngành thuế, 
tổ chức các đợt thi đua ( cán bộ thuế giỏi) nhằm tác động tích cực đến việc 
hoàn thành nhiệm vụ công tác. 
3. Có chính sách về lương thoả đáng với cán bộ thuế để tạo 
điều kiện làm việc tốt hơn: 
Ngành thuế là ngành có vị trí quan trọng trong thu ngân sách nhà nước. 
Điều kiện làm việc của cán bộ thuế không như các ngành khác phải đi lại 
nhiều, thời gian thất thường nhiều khi phải làm thêm ngoài giờ kể cả ngày chủ 
nhật, đối tượng tiếp xúc là nhiều hạng người, vì thế gặp nhiều khó khăn trong 
công tác. Môi trường làm việc và cuộc sống khó khăn sẽ xảy ra tình trạng các 
cán bộ thuế lơ là trách nhiệm của mình. Vì thế vừa để tạo điều kiện cho các 
cán bộ thuế yên tâm công tác, vừa khuyến khích động viên thì chế độ lương 
với cán bộ thuế mà cụ thể là các cán bộ trực tiếp thu phải được nâng lên và 
Trang 77 
nên chăng có phụ cấp cao. Để tránh mọi hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra phải 
xây dựng một chế độ thưởng phạt thích hợp. 
4. Tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cơ quan thuế và các 
cấp, các ngành có liên quan: 
Trong công tác quản lý thuế nói chung và đẩy mạnh thu thuế Giá trị gia 
tăng nói riêng cần phối hợp chặt chẽ với các ngành có liên quan nhằm giúp đỡ 
Chi cục thuế hoàn thành nhiệm vụ của mình. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, 
giáo dục pháp luật về thuế trong công tác quản lý thu thuế. Chi cục thuế phải 
thường xuyên thông báo với các cấp chính quyền địa phương về tình hình kết 
quả thu thuế, thực trạng thất thu thuế để từ đó tăng cường phối kết hợp quản lý 
thu thuế và chống thất thu thuế. 
Tăng cường phối kết hợp với các cơ quan báo chí, phát thanh truyền 
hình đẩy mạnh công tác tuyên truyền thuế một cách thường xuyên và liên tục. 
Đặc biệt là phải tuyên truyền phổ biến chính sách chế độ theo quý hoặc tháng 
ở các khu trung tâm chợ. Nâng cao nhận thức vai trò của công tác tuyên truyền 
cho mọi cán bộ công nhân viên trong ngành thuế . Mỗi cán bộ trong ngành 
thuế là một tuyên truyền viên giỏi trong quần chúng nhân dân, tăng cường đầu 
tư cho công tác tuyên truyền bao gồm cả đào tạo cán bộ, sức lực, trí tuệ, kinh 
phí và trang bị phương tiện. 
V. Một số biện pháp khác: 
1. Từng bước đưa khoa học kỹ thuật vào quản lý thu thuế như 
ứng 
Trang 78 
dụng công nghệ tin học: 
Trong những năm qua công tác tin học ngày càng phát triển mạnh mẽ, 
có tác dụng quan trọng trong mọi lĩnh vực. Vì vậy để giảm bớt lao động nặng 
nhọc cho con người, tăng nhanh tốc độ và hiệu quả công việc Tổng cục thuế 
đã phối hợp với Công ty đầu tư và phát triển công nghệ (FPT) hoàn thiện phần 
mềm quản lý thuế Giá trị gia tăng. Đây là một bước nhảy vọt trong công tác 
tin học hoá ngành thuế của chúng ta. Gần đây Chi cục thuế Ba Đình cũng đã 
được Tổng cục thuế đầu tư một mạng máy vi tính hiện đại nhằm giúp công tác 
quản lý thu thuế trên địa bàn quận được hoàn thiện hơn. 
Chi cục thuế Ba Đình cần xác định được tầm quan trọng của công tác 
này để tuyển dụng, đào tạo các cán bộ thuế có đủ trình độ năng lực ứng dụng 
kỹ thuật hiện đại này vào công tác quản lý ở các tổ đội, nghiệp vụ kế toán tính 
thuế, kế toán ấn chỉ ..vv. Có như vậy sẽ giảm bớt được ghi chép tính toán trên 
sổ bộ của lao động thủ công, có thể tính toán chính xác hơn, nhanh nhất và đạt 
hiệu quả cao nhất trong mọi công việc. 
2. Làm thay đổi thói quen của người dân về việc sử dụng 
hoá đơn, chứng từ: 
- Cần phải quản lý chứng từ hoá đơn ở các khâu mua hàng, xuất hàng hoặc 
nhập nguyên vật liệu, bán sản phẩm cũng như ở các nghiệp vụ hạch toán khác. 
Đây là những điều mang tính chất quyết định đến việc có thể áp dụng thuế Giá trị 
gia tăng hay không. 
Trang 79 
- Mặt khác cần phải thúc đẩy hệ thống kế toán tư nhân áp dụng trên phạm vi 
cả nước và phải coi đó là một sắc lệnh của Nhà nước đối với các hộ cá thể, có 
như vậy mới áp dụng được thuế Giá trị gia tăng theo đúng như tính chất của nó. 
Tâm lý chung của các hộ cá thể là không muốn áp dụng chế độ sổ sách kế toán 
bởi vì một phần do trình độ của nhiều người còn hạn chế, phần nữa do sợ ghi 
chép phản ánh đầy đủ vào sổ sách kế toán thì thuế sẽ phải nộp nhiều hơn. Do đó 
chúng ta phải thực hiện tốt điều này bởi vì thuế Giá trị gia tăng chỉ có tác dụng 
khi cơ sở kinh doanh nhận thức được quyền lợi trong việc ghi chép được sổ sách 
cũng như việc lưu trữ phát hành hoá đơn đầu vào, đầu ra. 
3. Kiến nghị về văn bản luật, chính sách của Nhà nước: 
Qua 3 tháng thực thi thu thuế Giá trị gia tăng tại Chi cục thuế Quận Ba 
Đình tôi thấy cần có một số kiến nghị nhằm giúp các hộ kinh doanh có được 
điều kiện buôn bán thuận tiện hơn, giảm bớt khó khăn trong quá trình thực 
hiện loại thuế này: 
* Lẽ ra khi thực hiện thuế Giá trị gia tăng sẽ thúc đẩy việc mua bán có 
hoá đơn, chứng từ tốt hơn, nhưng điều này chỉ cần thiết đối với các cơ sở sản 
xuất kinh doanh được khấu trừ thuế, còn các cơ sở nộp thuế trực tiếp thì không 
cần đến, bởi nếu có đủ hoá đơn chứng từ thì rất có thể phải đóng thuế cao hơn. 
* Nhà nước cần có những giải pháp giúp cho các hộ nộp thuế theo 
phương pháp khấu trừ khi có quan hệ bạn hàng với các hộ, cơ sở kinh doanh 
nộp thuế theo phương pháp trực tiếp có thể được khấu trừ một phần nào đó 
thuế giá trị gia tăng đầu vào đã nộp ở khâu trước. 
* Quy trình quản lý thuế hiện nay, không dựa trên căn cứ tự tính thuế 
của các đối tượng nộp thuế. Với số lượng các hộ kinh doanh quá lớn các cán 
bộ thuế luôn luôn bận rộn với công việc đơn điệu :Chấm nghỉ, kiểm tra doanh 
thu, xác định mức thuế, ra thông báo v..v.. Số cán bộ làm công việc này tương 
Trang 80 
đối lớn, trong khi biên chế thì có hạn. Nên chăng luật thuế giá trị gia tăng cần 
đưa ra những điều luật để tiến hành công tác cưỡng chế thuế và tăng cường 
công tác kiểm tra đối tượng nộp thuế. Đối với khu vực kinh tế cá thể cần cải 
tiến quy trình quản lý thuế sao cho đơn giản hoá nhất. 
Nhìn chung việc thực thi thuế Giá trị gia tăng chỉ có ý nghĩ thực chất 
khi được áp dụng theo phương pháp khấu trừ hoặc trực tiếp trên Giá trị gia 
tăng. Còn hiện nay ở Chi cục thuế Quận Ba Đình phần lớn chỉ áp dụng 
phương pháp khoán nên cũng không có gì thay đổi rõ rệt. Nên chăng các cấp, 
các ngành và những cơ quan ban hành luật cần có những biện pháp thích hợp 
hơn, hoàn thiện hơn trong công tác xây dựng một luật thuế Giá trị gia tăng với 
đầy đủ bản chất của luật thuế mang tính hiện đại, nhất là đối với khu vực kinh 
tế cá thể. 
Trang 81 
Kết luận: 
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển kinh tế theo hướng công 
nghiệp hoá- hiện đại hoá, vai trò của chính sách tài chính cói chung và vai trò 
của chính sách thuế nói riêng ngày càng trở nên vô cùng quan trọng. Để đáp 
ứng nhiệm vụ được giao, đòi hỏi ngành thuế phải cải cách hệ thống chính sách 
thuế, đổi mới công tác quản lý hành chính, nhằm tăng thu cho Ngân sách Nhà 
nước, thúc đẩy kinh tế phát triển, thực hiện công bằng xã hội: “ Thu đúng, thu 
đủ, thu kịp thời cho ngân sách”. 
Trong nền kinh tế thị trường, khu vực kinh tế cá thể phát triển mạnh mẽ 
và đa dạng. Công tác thu trong khu vực kinh tế này đã đảm bảo nguồn thu 
quan trọng cho ngân sách Nhà nước phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của từng 
giai đoạn cách mạng góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. 
Qua thời gian thực tập tại Chi cục thuế Quận Ba Đình-Hà nội, tuy là 
một Chi cục nắm giữ việc thu thuế trên địa bàn nhỏ, chưa được sự đầu tư lớn 
nhưng với sự đoàn kết tìm tòi, áp dụng các quy trình biện pháp thu thuế mới 
nên kết quả thu đã đạt được rất đáng khích lệ. Song bên cạnh đó công tác quản 
lý thuế Giá trị gia tăng ở khu vực kinh tế này còn bộc lộ những điểm tồn tại: 
hiện tượng thất thu về thuế nói chung và thuế Giá trị gia tăng nói riêng, nợ 
đọng vẫn còn nhiều, chậm được giải quyết. 
Qua tìm hiểu thực trạng tôi đã mạnh dạn nêu lên một số biện pháp, kiến 
nghị nhằm khắc phục những tồn tại để việc áp dụng thuế Giá trị gia tăng ngày 
một hoàn thiện hơn, nhất là trên khu vực kinh tế cá thể. 
Trang 82 
Thuế Giá trị gia tăng là sắc thuế mới, có sự thay đổi cơ bản về nội dung, 
phương pháp tính thuế và biện pháp hành thu so với thuế doanh thu mà nó 
thay thế. Vì vậy trong quá trình áp dụng sẽ không tránh khỏi những khó khăn 
có thể giải quyết một sớm một chiều được, nhưng với quyết tâm và biện pháp 
thích hợp nhất định Chi cục thuế Ba Đình sẽ thực thi luật thuế này như mong 
muốn. Hy vọng rằng những đề xuất trên sớm được Chi cục xem xét, áp dụng 
đem lại hiệu quả đối với công tác thu của Chi cục trong thời gian tới. 
Với trình độ lý luận hạn chế, thực tế công tác chưa nhiều nên đề tài 
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự đóng góp ý kiến của các 
thầy cô giáo, các cán bộ thuế và các bạn đọc quan tâm để đề tài được hoàn 
thiện và có tính khả thi hơn. 
Tôi xin trân thành cám ơn thầy cô giáo trong bộ môn Thuế và các cán 
bộ thuế đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này./. 
Trang 83 
PHụ lục 
1. Giáo trình bài giảng về thuế nhà nước. 
2. Các tạp chí thuế nhà nước. 
3. Thời báo tài chính. 
4. Diễn đàn doanh nghiệp. 
5. Luật thuế giá trị gia tăng và các văn bản hướng dẫn. 
6. Các báo cảo tổng kết tháng, quý, năm của chi cục thuế quận Ba đình. 
7. TàI liệu hỏi đáp về pháp luật thuế. 
8. Các văn bản quy định về quản lý ngoài quốc doanh. 
9. Sổ tay nghiệp vụ quản lý thu thuế ngoài quốc doanh. 

File đính kèm:

  • pdfchuyen_de_tot_nghiep_ban_ve_cong_tac_quan_li_thu_thue_gia_tr.pdf