Tiểu luận Tình hình nhập siêu ở Việt Nam - Biện pháp khắc phục
I. Tổng Quan Nền Xuất Nhập Khẩu Của Việt Nam:
Xuất nhập khẩu là một ngành kinh tế quan trọng,có ý nghĩa quyết định đến sự thành
công của công cuộc công nghiệp hóa.Hơn hai mươi năm trước, kể từ Đại hội Đảng VI
(1986), công cuộc “đổi mới” đã tạo nên tiền đề vững chắc, đẩy nền kinh tế Việt Nam (VN)
chuyển mình, thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Hai mươi năm sau, hội nhập WTO là
“cú hích” đưa vị thế VN lên một tầm cao mới, ổn định và tăng tốc. Trên các “mặt trận”,
ngoại thương luôn giữ vững vị trí tiên phong, khẳng định vai trò quan trọng trong tăng
trưởng kinh tế, ổn định chính trị xã hội và thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế,tỉ lệ xuất nhập khẩu có bước chuyển rõ rệt.
20 năm đổi mới trải qua 4 kế hoạch 5 năm,Việt nam đã có diện mạo mới,nền kinh tế
VN hiện tại cũng đứng ở vị thế khác trong bảng xếp hạng kinh tế thế giới.
Nếu như năm 1988 ta còn phải nhập khẩu 4,5 tấn gạo thì sang năm 1989 ta đã sản
xuất đc 21.4 tấn gạo đã có dự trữ và xuất khẩu đc 1,5 triệu tấn.Việc nông nghiệp đạt đc kế
hoạch đề ra đã chấm dứt tình trạng đói kinh niên của nhân dân,lương thực nước ta đã có
tích lũy và xuất khẩu thay đổi cán cân xuất nhập khẩu lương thực của đất nước.
Dưới đường lối đổi mới của các chính sách kinh tế,hàng xuất khẩu của nước ta tăng
hơn trước các mặt hàng xuất khẩu mới xuất hiện như:gạo,dầu thô nhập khẩu giảm đáng
kể tiến gần đến mức cân bằng giữa nhập khẩu và xuất khẩu.
Từ 1 nước phải sống nhờ vào hàng viên trơ và nhập khẩu hàng triệu tấn lương thực
mỗi năm,VN bỗng trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới,thứ nhất về xuất khẩu
hạt tiêu,thứ hai về cà phê và hạt điều,thứ tư về cao su thực sự khẳng định vị trí cường
quốc xuất khẩu nông sản Hàng VN đã có mặt ở gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên
thế giới
Theo Bộ công thương,đến nay,đã có gần 40000 doanh nghiệpVN hoạt động xuất
nhập khẩu trực tiếp,tăng khoảng 1000 lần so với năm 1986.Số mặt hàng xuất khẩu cũng
tăng,từ 4 nhóm là dầu thô,thủy sản,gạo ,dệt may lên tới 40 nhóm mặt hang.Năm 2007,”câu
lạc bộ 1 tỷ USD”đã có 10 thành viên, trong đó có 3 nhóm hàng trên 3 tỷ USD, 2 nhóm
hàng trên 2 tỷ USD, xứng đáng nằm trong Top 50 quốc gia có nền ngoại thương lớn của
thế giới. Chính sách tự do hoá thương mại, xoá bỏ độc quyền ngoại thương, mở rộng quyền
kinh doanh xuất nhập khẩu là bước đột phá tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động ngoại thương, đẩy nhanh tăng trưởng
xuất khẩu trên cả nước.
Kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta năm 2001 đã đạt tới 31,2 tỷ USD, nghĩa là
xấp xỉ với tổng giá trị GDP, trong đó giá trị xuất khẩu khoảng 15 tỷ. Trước thập kỷ 1990,
tổng kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP của nước ta chỉ vào khoảng 30%.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP của Trung Quốc hiện nay cũng chỉ vào
khoảng trên 30%. Các nước Xingapo, Malaixia, Thái Lan đã có tỷ trọng so sánh giữa giá
trị xuất nhập khẩu và GDP cao hơn ta.
Năm 1995, hàng tiêu dùng còn chiếm 15,2% tổng giá trị nhập khẩu, nhưng đến năm
2001, đã giảm xuống chỉ còn 5,3%. Trong nhiều năm ta tỏ ra rất yên tâm về cơ cấu nhập
khẩu này, vì cho rằng ta chỉ nhập máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu cần cho phát
triển sản xuất trong nước. Một cơ cấu cần cho phát triển sản xuất trong nước hẳn phải là
một cơ cấu tiến bộ. Song thực tế đã không hẳn như vậy. Việc ta chỉ nhập khẩu ít hàng tiêu
dùng - khoảng 10% tổng giá trị nhập khẩu - là điều không bình thường.
Thường các nước ở trình độ phát triển thấp như ta, kể cả Nhật Bản thời kỳ những năm
1950, tỷ lệ nhập khẩu hàng tiêu dùng cũng vào khoảng 20% tổng giá trị hàng nhập khẩu. Ở
nước ta, vì nhập khẩu hàng tiêu dùng chính thức chịu mức thuế cao và nhiều cấm đoán,
nên tình trạng buôn lậu mới trở thành quốc nạn, và kèm theo nó là nạn tham nhũng. Nếu
cộng cả giá trị hàng nhập lậu nữa, thì tỷ trọng nhập khẩu hàng tiêu dùng chắc đã không
kém 20% tổng giá trị nhập khẩu.
Từ 1 nước phải sống nhờ vào hàng viên trợ và nhập khẩu hang triệu tấn lương thực mỗi
năm,VN bỗng trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới,thứ nhất về xuất khẩu hạt
tiêu,thứ hai về cà phê và hạt điều,thứ tư về cao su thực sự khẳng định vị trí cường quốc
xuất khẩu nông sản Hàng VN đã có mặt ở gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế
giới
Tuy nhiên,việc ta không nhập khẩu bằng phát minh sáng chế là một khiếm khuyết lớn.
Nước ta chỉ xuất khẩu dầu thô, nông hải sản, khó đủ vốn mua được máy móc thiết bị hiện
đại, do vậy phải mua máy móc thiết bị cũ - xuất hiện nguy cơ biến nước ta thành "bãi thải
công nghệ cũ". Do ta không nhập bằng phát minh sáng chế để hiện đại hóa các máy móc
cũ, nên phải dùng máy móc cũ, công nghệ lạc hậu, tiêu xài nhiều nguyên, nhiên liệu vật
liệu nhập khẩu - làm gia tăng chi phí. Ta cũng không nhập khẩu các dịch vụ cần cho phát
triển công nghiệp như các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, tư vấn v.v.
nên các máy móc thiết bị và nguyên nhiên vật liệu nhập khẩu về được sử dụng càng kém
hiệu quả.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Tình hình nhập siêu ở Việt Nam - Biện pháp khắc phục
Kinh Tế Vĩ Mô 1 TIỂU LUẬN Tình hình nhập siêu ở Việt Nam- Biện pháp khắc phục Kinh Tế Vĩ Mô 2 Mục lục: I. Tổng Quan Tình Hình Xuất Nhập Khẩu2 II. Tình Hình Nhập Siêu Trước 2007..4 III. Tình Hình Nhập Siêu Sau 2007.7 1. Nhập siêu 2007..8 2. Nhập siêu 2008.9 3. Nhập siêu 2009.11 IV. Tình Hình Nhập Siêu Năm 2010..13 V. Tác Động Của Nhập Siêu17 VI. Nguyên Nhân..18 1. Giai đoạn 2000-2006.18 2. Giai đoạn 2007-2010.19 3. Nguyên nhân chung...21 VII. Biện Pháp Khắc Phục.26 VIII. Kết Luận........27 Kinh Tế Vĩ Mô 3 I. Tổng Quan Nền Xuất Nhập Khẩu Của Việt Nam: Xuất nhập khẩu là một ngành kinh tế quan trọng,có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của công cuộc công nghiệp hóa.Hơn hai mươi năm trước, kể từ Đại hội Đảng VI (1986), công cuộc “đổi mới” đã tạo nên tiền đề vững chắc, đẩy nền kinh tế Việt Nam (VN) chuyển mình, thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Hai mươi năm sau, hội nhập WTO là “cú hích” đưa vị thế VN lên một tầm cao mới, ổn định và tăng tốc. Trên các “mặt trận”, ngoại thương luôn giữ vững vị trí tiên phong, khẳng định vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị xã hội và thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,tỉ lệ xuất nhập khẩu có bước chuyển rõ rệt. 20 năm đổi mới trải qua 4 kế hoạch 5 năm,Việt nam đã có diện mạo mới,nền kinh tế VN hiện tại cũng đứng ở vị thế khác trong bảng xếp hạng kinh tế thế giới. Nếu như năm 1988 ta còn phải nhập khẩu 4,5 tấn gạo thì sang năm 1989 ta đã sản xuất đc 21.4 tấn gạo đã có dự trữ và xuất khẩu đc 1,5 triệu tấn.Việc nông nghiệp đạt đc kế hoạch đề ra đã chấm dứt tình trạng đói kinh niên của nhân dân,lương thực nước ta đã có tích lũy và xuất khẩu thay đổi cán cân xuất nhập khẩu lương thực của đất nước. Dưới đường lối đổi mới của các chính sách kinh tế,hàng xuất khẩu của nước ta tăng hơn trước các mặt hàng xuất khẩu mới xuất hiện như:gạo,dầu thônhập khẩu giảm đáng kể tiến gần đến mức cân bằng giữa nhập khẩu và xuất khẩu. Từ 1 nước phải sống nhờ vào hàng viên trơ và nhập khẩu hàng triệu tấn lương thực mỗi năm,VN bỗng trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới,thứ nhất về xuất khẩu hạt tiêu,thứ hai về cà phê và hạt điều,thứ tư về cao suthực sự khẳng định vị trí cường quốc xuất khẩu nông sảnHàng VN đã có mặt ở gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới Theo Bộ công thương,đến nay,đã có gần 40000 doanh nghiệpVN hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp,tăng khoảng 1000 lần so với năm 1986.Số mặt hàng xuất khẩu cũng tăng,từ 4 nhóm là dầu thô,thủy sản,gạo ,dệt may lên tới 40 nhóm mặt hang.Năm 2007,”câu lạc bộ 1 tỷ USD”đã có 10 thành viên, trong đó có 3 nhóm hàng trên 3 tỷ USD, 2 nhóm hàng trên 2 tỷ USD, xứng đáng nằm trong Top 50 quốc gia có nền ngoại thương lớn của thế giới. Chính sách tự do hoá thương mại, xoá bỏ độc quyền ngoại thương, mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu là bước đột phá tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Kinh Tế Vĩ Mô 4 thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động ngoại thương, đẩy nhanh tăng trưởng xuất khẩu trên cả nước. Kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta năm 2001 đã đạt tới 31,2 tỷ USD, nghĩa là xấp xỉ với tổng giá trị GDP, trong đó giá trị xuất khẩu khoảng 15 tỷ. Trước thập kỷ 1990, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP của nước ta chỉ vào khoảng 30%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP của Trung Quốc hiện nay cũng chỉ vào khoảng trên 30%. Các nước Xingapo, Malaixia, Thái Lan đã có tỷ trọng so sánh giữa giá trị xuất nhập khẩu và GDP cao hơn ta. Năm 1995, hàng tiêu dùng còn chiếm 15,2% tổng giá trị nhập khẩu, nhưng đến năm 2001, đã giảm xuống chỉ còn 5,3%. Trong nhiều năm ta tỏ ra rất yên tâm về cơ cấu nhập khẩu này, vì cho rằng ta chỉ nhập máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu cần cho phát triển sản xuất trong nước. Một cơ cấu cần cho phát triển sản xuất trong nước hẳn phải là một cơ cấu tiến bộ. Song thực tế đã không hẳn như vậy. Việc ta chỉ nhập khẩu ít hàng tiêu dùng - khoảng 10% tổng giá trị nhập khẩu - là điều không bình thường. Thường các nước ở trình độ phát triển thấp như ta, kể cả Nhật Bản thời kỳ những năm 1950, tỷ lệ nhập khẩu hàng tiêu dùng cũng vào khoảng 20% tổng giá trị hàng nhập khẩu. Ở nước ta, vì nhập khẩu hàng tiêu dùng chính thức chịu mức thuế cao và nhiều cấm đoán, nên tình trạng buôn lậu mới trở thành quốc nạn, và kèm theo nó là nạn tham nhũng. Nếu cộng cả giá trị hàng nhập lậu nữa, thì tỷ trọng nhập khẩu hàng tiêu dùng chắc đã không kém 20% tổng giá trị nhập khẩu. Từ 1 nước phải sống nhờ vào hàng viên trợ và nhập khẩu hang triệu tấn lương thực mỗi năm,VN bỗng trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới,thứ nhất về xuất khẩu hạt tiêu,thứ hai về cà phê và hạt điều,thứ tư về cao suthực sự khẳng định vị trí cường quốc xuất khẩu nông sảnHàng VN đã có mặt ở gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới Tuy nhiên,việc ta không nhập khẩu bằng phát minh sáng chế là một khiếm khuyết lớn. Nước ta chỉ xuất khẩu dầu thô, nông hải sản, khó đủ vốn mua được máy móc thiết bị hiện đại, do vậy phải mua máy móc thiết bị cũ - xuất hiện nguy cơ biến nước ta thành "bãi thải công nghệ cũ". Do ta không nhập bằng phát minh sáng chế để hiện đại hóa các máy móc cũ, nên phải dùng máy móc cũ, công nghệ lạc hậu, tiêu xài nhiều nguyên, nhiên liệu vật liệu nhập khẩu - làm gia tăng chi phí. Ta cũng không nhập khẩu các dịch vụ cần cho phát triển công nghiệp như các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, tư vấn v.v.. nên các máy móc thiết bị và nguyên nhiên vật liệu nhập khẩu về được sử dụng càng kém hiệu quả. Kinh Tế Vĩ Mô 5 II. Tình hình nhập siêu trước năm 2007: Từ năm 2001-2006, tình trạng nhập siêu xảy ra liên tục.Ngoại trừ năm 2005,nhập siêu giảm nhẹ,các năm còn lại nhập siêu tăng liên tục. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005 ước đạt 110,829 tỷ USD, với tốc độ tăng bình quân 17,5%/năm. Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa cùng thời kỳ đạt 130,151 tỷ USD, tăng bình quân 18,8%/năm, cao hơn tốc độ tăng bình quân của kim ngạch xuất khẩu. Như vậy nhập siêu cả giai đoạn 2001 - 2005 là 19,322 tỷ USD, bằng 17,43% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả giai đoạn này. Nếu so sánh với giai đoạn 1991- 1995 (32,8%) và giai đoạn 1996 - 2000 (19%) thì tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu của giai đoạn 2001 - 2005 thấp hơn về mặt tỷ trọng nhưng lớn hơn về số tuyệt đối. Nhập siêu của Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005 có đặc điểm là nếu tính cả dầu thô, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 12,729 tỷ USD trong khi đó khu vực 100% vốn trong nước nhập siêu 32,051 tỷ USD; nếu không tính dầu thô, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài nhập siêu 10,532 tỷ USD còn khu vực 100% vốn trong nước nhập siêu 8,79 tỷ USD. Về mặt thị trường xuất nhập khẩu, Việt Nam đạt xuất siêu vào thị trường châu Âu và Mỹ nhưng nhập siêu từ ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan và tương đối cân bằng với Nhật Bản. Theo đánh giá của Bộ Công thương, nhập siêu tăng mạnh trước hết do nhu cầu nhập khẩu để phục vụ sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển kinh tế.Nhưng đáng lo ngại là một số ngành xuất khẩu mũi nhọn như dệt may, da giày và mới đây là thủy sản, điều...,muốn tăng xuất khẩu buộc phải tăng nhập khẩu nguyên, phụ liệu.Trong khi, VN hoàn toàn có khả năng để sản xuất, nhưng đáng tiếc nền công nghiệp phụ trợ chưa đáp ứng được.Và một số ngành sản xuất hàng tiêu dùng nội địa cũng trong tình trạng tương tự. Về sâu xa, nhập siêu tăng cao cũng có nguyên nhân là tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thấp hơn tốc độ nhập khẩu. Trong khi nhu cầu nhập khẩu phục vụ sản xuất và đầu tư phát triển tăng cao thì khối lượng và giá trị xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực lại có xu hướng giảm, các nhóm hàng công nghiệp chế tạo được kỳ vọng lại chưa có sự tăng trưởng bứt phá. Điều này thể hiện một thực tế là năng lượng cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Bên cạnh đó, ảnh hưởng của việc cắt giảm thuế nhập khẩu và nhu cầu tiêu dùng cao, khiến hàng ngoại thừa cơ “đổ bộ”. Kinh Tế Vĩ Mô 6 bảng 1: tổng hợp kim ngạch và tốc độ tăng kim ngạch của xuất nhập khẩu, nhập siêu và tỷ lệ nhập siêu qua các năm từ 2001-2006. Đvt: Triệu USD 0 5 10 15 20 25 30 35 40 45 2001 2002 2003 2004 2005 2006 xuất khẩu nhập khẩu ( Nguồn: Thời báo kinh tế Sài Gòn) Về cơ cấu nhập khẩu: Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu bình quân của ba nhóm hàng: máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng; nguyên, nhiên vật liệu; hàng tiêu dùng trong giai đoạn 2001-2006 lần lượt là 17,4%; 25,9% và 19,3%. Sau 5 năm 2001-2006, cơ cấu nhập khẩu đã có thay đổi theo hướng tăng dần tỉ trọng nhóm hàng nguyên, nhiên vật liệu, giảm tỉ trọng hai nhóm hàng máy móc, thiết bị và hàng tiêu dùng. Năm 2006 khoảng 70% là hàng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất để tái xuất khẩu và sản xuất trong nước, bao gồm các mặt hàng: gỗ nguyên liệu, bột giấy, đồng nguyên liệu, bông và sợi các loại, phân bón, sắt thép, da nguyên liệu, máy móc thiết bị Các mặt hàng năm Xuất khẩu Tốc độ tăng(%) Nhập khẩu Tốc độ tăng(%) Nhập siêu Tỷ lệ nhập siêu (%) 2001 15,027 3.8 16,162 3.4 1,135 7.9 2002 16,705 11.2 19,733 21.8 3,027 18.2 2003 20,149 20.6 25,256 27.9 5,106 25.3 2004 26,504 31.5 31,954 26.5 5,450 20.6 2005 32,233 21.6 36,881 15.4 4,648 14.4 2006 39,5 22 44,8 22 5,3 12.8 Kinh Tế Vĩ Mô 7 tiêu dùng khác chiếm khoảng 30% thì trong 7 tháng đầu năm 2007 kim ngạch nhập khẩu vẫn chủ yếu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất như máy móc, thiết bị dụng cụ, phụ tùng ước tính đạt 4,4 tỷ USD, tăng tới 46,4% so với cùng kỳ; xăng dầu 3,3 tỷ USD, tăng 8,2%; sắt thép 2,15 tỷ USD, tăng 60,9%, hóa chất tăng 47,1%, ô tô tăng 76,9%,tân dược tăng 25,6%. Các thị trường chủ yếu Các đối tác Việt Nam nhập khẩu nhiều nhất đều thuộc khu vực Đông Á: Trung Quốc, Singapore, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, Hồng Kông. Năm 2001, Việt Nam nhập khẩu đến 73,7% hàng hóa từ các nước trên; đến 11 tháng đầu năm 2007, con số này là 76,3%. Trong chính sách về cơ cấu thị trường nhập khẩu, định hướng đưa ra là giảm tỷ trọng nhập khẩu từ các nước châu Á xuống còn 55% vào năm 2010. Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kì 2001-2010 còn đề cập tới việc gia tăng nhập khẩu từ các thị trường công nghệ nguồn như Mỹ, EU, Nhật Bản lên 40% vào năm 2010. Tuy nhiên, đến thời điểm này có thể thấy mục tiêu này hoàn toàn không khả thi. Nguồn: Tổng cục thống kê Mặc dù có rất nhiều thuận lợi do các hiệp định thương mại mang lại nhưng chính phủ cũng như các doanh nghiệpViệt Nam chưa nắm bắt hết được, chưa biết tận dụng những cơ hội này, do đó Việt Nam vẫn là một đất nước nhập siêu với tỉ lên nhập có thể không tăng mấy nhưng giá trị nhập siêu thì có xu hướng ngày càng tăng.Tuy vậy, nền ngoại thương của VN vẫn được đánh giá là lành mạnh. Hơn nữa, dù nhập siêu, song cán cân thanh toán vẫn trong tầm kiểm soát, vì ngoài phần ngoại tệ thu được từ xuất khẩu hàng hóa, mấy năm nay các nguồn vốn hỗ ... Tế Vĩ Mô 24 của hàng hoá trong nước và ngoài nước cũng như giá trị tương đối của ngoại tệ và bản tệ. Nó là tác nhân chính gây ra tình trạng nhập siêu ngày càng nghiêm trọng của Việt Nam. - Mấu chốt nằm ở năng lực quản lý điều hành Ngoài nguyên nhân bắt nguồn từ chính sách điều hành tỷ giá, tình trạng nhập siêu cao của Việt còn có gốc rễ từ chính sách chưa đầu tư đúng mức cho ngành công nghiệp phụ trợ. Mặc dù Việt Nam được đánh giá là quốc gia thu hút đầu tư nước ngoài mạnh mẽ, nhưng với thực tế Việt Nam chỉ là “nhà xưởng” thực hiện gia công, lắp ráp (tạm nhập, tái xuất) 80% nguyên nhiên liệu đầu vào nhập khẩu từ nước ngoài thì đây chính là áp lực lớn cho việc cải thiện tình hình nhập siêu của Việt Nam. Ngoài ra, với năng lực quản lý điều hành còn yếu, Việt Nam còn phải chịu nhiều thiệt thòi từ “chiêu thức chuyển giá” để trốn thuế ở Việt Nam của một số nhà đầu tư là tập đoàn đa quốc gia, có mạng lưới sản xuất kinh doanh trên khắp thế giới. Theo ông Thành, hàng hóa gia công, lắp ráp tại Việt sẽ được xuất với giá rẻ mạt sang các thị trường trung gian như Hồng Công, British Virgin Islands , Cayman Islands- nơi được coi là thiên đường về thuế. Từ đây, hàng hóa sẽ được xuất khẩu sang thị trường các nước phát triển để hưởng chênh lệch giá cao gấp 2-3 lần so với giá xuất đi từ Việt . Vì vậy, lợi nhuận sẽ rơi vào túi của các Tập đoàn này trong khi Việt Nam “thiệt đơn thiệt kép” do không thu được thuế mà lại phải gánh nhập siêu và ô nhiễm môi trường. -Cơ cấu kinh tế Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam, những sản phẩm công nghiệp chủ lực là dệt- may, da - giày, điện tử, chế biến gỗ, nhựa... cho đến nay hầu hết vẫn chỉ là gia công ở công đoạn cuối với giá trị gia tăng rất thấp, nên lượng ngoại tệ mang về cho nền kinh tế không nhiều và không đủ để bù đắp cho phần giá trị nguyên vật liệu nhập khẩu để sản xuất hàng tiêu thụ ở thị trường nội địa. Nguồn thu ngoại tệ lớn nhất trong những năm qua là xuất khẩu tài nguyên khoáng sản và hàng nông, thủy sản. Nhưng cán cân xuất, nhập khẩu nhiều sản phẩm thuộc nhóm này đã thay đổi, từ thặng dư sang thâm hụt, do số lượng xuất khẩu liên tục giảm sút, trong khi nhập khẩu mỗi năm đều tăng do nhu cầu tiêu thụ trong nước. Tiêu dùng tăng mạnh, trong khi ngành công nghiệp trong nước chưa đủ sức đáp ứng, nhất là những sản phẩm cao cấp, tất yếu sẽ làm tăng nhập khẩu Thông thường khi chọn ngành trọng điểm thường phải xem xét đến hai yếu tố là chỉ số lan tỏa nội địa và chỉ số kích thích nhập khẩu. Tuy nhiên thực tế cho thấy một số ngành có tỷ trọng vốn đầu tư khá lớn nhưng chỉ số lan tỏa nội địa thấp và chỉ số kích thích nhập khẩu cao bất thường. Những nhóm ngành này hầu hết nằm ở khu vực II (công nghiệp và xây dựng). Kinh Tế Vĩ Mô 25 -Hiệu quả sản xuất kinh doanh sút giảm khá mạnh Điều này được minh chứng qua tỷ lệ chi phí trung gian so với giá trị sản xuất (dựa vào các bảng cân đối liên ngành của Tổng cục Thống kê công bố cho năm 2000 và 2007) tăng gần 10 điểm phần trăm từ năm 2000-2007, tức là mỗi năm tỷ lệ này tăng thêm hơn 1 điểm phần trăm. Riêng điều này có thể lý giải rằng do thay đổi quy trình công nghệ nhưng nếu xét thêm đến yếu tố này thông qua chỉ tiêu năng suất nhân tố tổng hợp có thể thấy chỉ tiêu này ngày một giảm sút. Giai đoạn trước chỉ tiêu năng suất nhân tố tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng khoảng 22-25% thì trong ba năm 2007-2010 đóng góp của chỉ tiêu này vào GDP chỉ khoảng 10-15%. Khi Việt Nam hội nhập và thực hiện tự do thương mại mà hiệu quả sản xuất yếu đi thì hàng hóa sản xuất trong nước sẽ không cạnh tranh được với hàng nhập khẩu. Việt Nam đầu tư quá ít vào phát triển các ngành phụ trợ, khiến ta vẫn chỉ là nơi gia công, lắp ráp cho nước ngoài, sản phẩm không có hàm lượng giá trị gia tăng cao. Thêm vào đó, chúng ta còn phải thực hiện giảm thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế, trong khi giá nguyên vật liệu thế giới leo thang kéo giá trị nhập khẩu tăng theo. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế lại làm thu hẹp khả năng xuất khẩu của Việt Nam Một quan chức của Bộ Công thương cho rằng, nhập siêu là cần thiết để đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Quan điểm của ông xuất phát từ phân tích cơ cấu nhập khẩu, trong đó máy móc thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất chiếm đến 92% tổng giá trị nhập khẩu của cả nước. Tuy nhiên, đây mới là vấn đề đáng lo ngại nhất. Vì trong khi đầu tư và sản xuất kém hiệu quả, thì đầu tư, sản xuất càng nhiều, nhập siêu sẽ càng lớn và đến một lúc nào đó nền kinh tế sẽ không còn đủ sức để bù đắp cho phần thiếu hụt đó. Hiệu quả đầu tư giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và doanh nghiệp trong nước đang có khoảng cách lớn. Hiện nay, doanh nghiệp FDI đang chiếm gần 40% giá trị sản xuất công nghiệp và gần 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong khi đó, tỷ trọng nhập khẩu của khối này lại thấp, chỉ khoảng 44%. Mức đầu tư hàng năm của doanh nghiệp FDI còn thấp hơn khu vực trong nước nhiều, bình quân chỉ chiếm 14-15% tổng đầu tư toàn xã hội. Năm ngoái, tổng vốn đầu tư của khối doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI gần xấp xỉ nhau, nhưng kết quả về tăng trưởng trong lĩnh vực công nghiệp lại rất khác biệt, chênh lệch đến gần 8 điểm phần trăm. Nhập khẩu ít hơn và mức đầu tư hàng năm khá khiêm tốn, nhưng các doanh nghiệp FDI Kinh Tế Vĩ Mô 26 vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong sản xuất công nghiệp và xuất khẩu. Kết quả đó phần nào cho thấy tình trạng nhập siêu tăng vọt trong thời gian gần đây chủ yếu bắt nguồn từ hiệu quả đầu tư và sản xuất kém của nền kinh tế, trong đó đáng ngại nhất là khu vực doanh nghiệp quốc doanh. Do vậy, không thể cho rằng, nhập siêu để phục vụ phát triển sản xuất là cần thiết và không đáng ngại. Nhập siêu lớn và liên tục như vậy tất nhiên là một điều không tốt cho sự ổn định của kinh tế vĩ mô. Chính sách bảo hộ của Việt Nam còn nhiều cảm tính Qua tính toán cho thấy với những ngành có thể cạnh tranh thì hệ số bảo hộ hữu hiệu - bảo hộ sản xuất (Effective Rate of Protection) ngày càng giảm và có những nhóm ngành tỷ lệ này âm. Ngược lại, với những ngành không thể cạnh tranh thì hệ số bảo hộ hữu hiệu cho sản xuất lại ngày càng tăng VII. Các Biện Pháp Khắc Phục: Kinh Tế Vĩ Mô 27 Nhập siêu chưa bao giờ là tốt cho nền kinh tế. Chính vì vậy Quốc hội đã thông qua chỉ tiêu khống chế nhập siêu dưới 20% kim ngạch xuất khẩu năm 2010. Thủ tướng Chính phủ cũng đã có nhiều ý kiến chỉ đạo việc kiểm soát và giảm nhập siêu: 1.Chính phủ cần có quy định cụ thể đối với các tập đoàn kinh tế nhà nước trong việc sử dụng các thiết bị trong nước sản xuất được đối với các dự án mà tập đoàn làm chủ đầu tư.Nếu không, nhập siêu vẫn không ngừng gia tăng mà các doanh nghiệp trong nước lại thua ngay trên sân nhà. 2.Có thể hạn chế và giảm nhập siêu bằng cách căn bản nhất là điều chỉnh mô hình kinh tế từ chỗ chỉ dựa vào nguồn vốn đầu tư , khai thác tài nguyên và chưa tận dụng được nguồn lao động mới ( chỉ sử dụng lao động giá rẻ) sang chỗ tăng cường áp dụng tiến bộ khoa học , công nghệ , tận dụng nguồn lực lao động và nâng dần năng suất lao động , và chất lượng sản phẩm . Từ chủ yếu là công nghiệp gia công lấp ráp sang đẩy mạnh công nghiệp chế tạo , chế biến, công nghiệp phụ trợ, từ chủ yếu xuất khẩu tài nguyên khoáng sản , nguyên liệu, sản phẩm thô sang tủy trọng xuất khẩu sản phẩm chế biến. Đặc biệt là phải phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, giảm bớt nhập khẩu Nguyên Vật Liệu. 3.Điều chỉnh chiến lược ngoại thương theo hướng nguồn lực sẵn có của quốc gia để phát triển các nghành công nghiệp đáp ứng được yêu cầu sản phẩm xuất khẩu. Điểu này cho phép khai thác hiệu quả tài nguyên , lao động , giảm nhập siêu tăng ngoại tệ , phát triển sản xuất trong nước . Đồng thời phải duy trì chính sách tỉ giá phù hợp, duy trì giá tương đối của các nhân tố sản xuất và trợ giúp của chính phủ với các doang nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. 4.Nâng cao hiệu quả đầu tư , đầu tư công chỉ nên tập trung cho các công trình trọng điểm có ý nghĩa lớn với nền kinh tế , tăng cường cơ sở hạ tầng cho những vùng khó khăn , khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư . Chú ý trình độ công nghệ các dự án và hạn chế các dự án công nghệ lạc hậu , gây ô nhiễm môi trường. 5.Huy động các nguồn tiết kiệm trong nước theo hai hướng : (1) Tiết kiệm chi tiêu thường xuyên của chính phủ và quản lý nợ công đảm bảo an toàn và hiệu quả ; (2) Khuyến khích các hộ gia đình sử dụng các khoản tiết kiệm vào đầu tư sản xuất đồng thời với mở rộng tiêu dùng hang hóa dịch vụ Việt Nam . 6.Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam một cách sâu rộng và phài bắt đầu tư các cơ quan chính phủ rồi đến người dân. VIII. KẾT LUẬN Kinh Tế Vĩ Mô 28 Nhập siêu là một vấn đề nóng bỏng của nền kinh tế trong những năm qua nhập khẩu lại có tốc độ tăng cao hơn tốc độ tăng của xuất khẩu , khiến tình hình nhập siêu càng nghiêm trọng. Từ năm 2001 đến nay nước ta luôn có hiện tượng nhấp siêu và đặc biệt là từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh , bên cạnh đó thì nhập khẩu tăng cũng không kém cạnh do nhu cầu sản xuất và tiêu dùng dẫn đến nhập siêu triền miên . Nhập siêu ảnh hưởng rất lớn đến sự ổn định kinh tế, khiến lạm phát tăng cao, ảnh hưởng đến tỷ giá đồng Việt Nam, chỉ số giá tiêu dùng trong nước, cán cân thanh toán Đồng thời nhập siêu mạnh cũng thể hiện sự yếu kém của nền công nghiệp phụ trợ nước ta. Trong cơ cấu nhập siêu từ 2001 đến nay, dù là trước hay sau 2007 thì mặt hàng Nguyên vật liệu vẫn chiếm tỉ trọng cao, nếu chúng ta có thể phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên khoáng sản trong nước thì không những tình hình nhập siêu được cải thiện mà các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu cũng có thể phát triển mạnh hơn. Vì vậy hạn chế nhập siêu là vấn đề cấp thiết nhằm ổn định và xây dựng nề kinh tế vững mạnh. Dự kiến của Bộ Công thương là kế hoạch 5 năm đến 2015 thì giảm nhập siêu trên kim ngạch xuất khẩu còn 14%. Song song với đó là cân bằng cán cân thương mại, qua đó giúp cải thiện cán cân thanh toán và ổn định kinh tế vĩ mô. Với mục tiêu đã đặt ra như trên, chúng ta đã đưa ra nhiều biện pháp khắc phục phù hợp với từng thời điểm, mục tiêu, nguyên nhân như phát triển công nghiệp phụ trợ, nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng lượng vốn đầu tư trong nền kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu,vận động người Việc dùng hàng ViệtThời gian qua Chính phủ đã chỉ đạo hết sức quyết liệt kiểm soát chặt chẽ giảm nhập siêu. Bước đầu có một số việc có kết quả. Năm 2008 nhập siêu 18 tỉ USD, tỷ lệ trên kim ngạch xuất khẩu là 30%, 2009 là 12,9 tỉ USD, (tỷ lệ 22,5%); năm nay khả năng chỉ là 11,9 hoặc 12 tỉ USD, bằng 17% so với kim ngạch xuất khẩu. Đó là những dấu hiệu đáng mừng nhưng không thể chủ quan, chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa trong việc hạn chế nhập siêu, xây dựng nền kinh tế vững mạnh, tiên tiến
File đính kèm:
- tieu_luan_tinh_hinh_nhap_sieu_o_viet_nam_bien_phap_khac_phuc.pdf