Luận văn Lợi ích kinh tế và các hình thức phân phối thu nhập ở Việt Nam hiện nay

Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII một lần nữa khẳng

định sự kiên trì chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nớc, và đề ra chính

sách: Công nghiệp hoá và hiện đại hoá để đa nớc ta nhanh chóng trở thành

một nớc có nền kinh tế phát triển ngay trong thập kỷ đầu của thế kỷ XXI.

Nền kinh tế nớc ta đã chuyển đổi dần dần từ nền kinh tế tập trung quan liêu

bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mở cửa, vận hành theo

cơ chế thị trờng có sự điều tiết quản lý của Nhà nớc.

Khi nớc ta chuyển sang nền kinh tế thị trờng, xây dựng nền công

nghiệp hoá hiện đại hoá thì vấn đề nổi lên không chỉ ở nớc ta mà ở cả các

nớc đang phát triển là tình trạng cơ sở hạ tầng kém, thiếu kinh nghiệm, trình

độ đội ngũ cán bộ công nhân viên cha cao. Vì thế, cùng một lúc chúng ta

phải bắt tay vào giải quyết nhiều vấn đề cấp bách thì mới đáp ứng kịp thời với

yêu cầu đặt ra.

Đặc biệt vấn đề về lợi ích kinh tế là một trong những vấn đề kinh tế lớn

của Nhà nớc mà đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã đề ra cho giai đoạn

phát triển kinh tế nớc ta hiện nay.

Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá

tập trung sang cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng

xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện đó nhiều loại hình Doanh nghiệp , nhiều loại

hình kinh tế cùng tồn tại, cùng tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Để

tồn tại trong cơ chế mới với sự cạnh tranh khốc liệt, đòi hỏi hoạt động kinh

doanh nói chung, thì lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp nói riêng và lợi ích

của toàn xã hội nói chung luôn đợc quan tâm hàng đầu.

 

pdf 41 trang chauphong 19/08/2022 12520
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Lợi ích kinh tế và các hình thức phân phối thu nhập ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận văn Lợi ích kinh tế và các hình thức phân phối thu nhập ở Việt Nam hiện nay

Luận văn Lợi ích kinh tế và các hình thức phân phối thu nhập ở Việt Nam hiện nay
 Luận văn: 
Lợi ớch kinh tế và cỏc hỡnh thức phõn 
phối thu nhập ở Việt Nam hiện nay 
 1 
A.Phần mở đầu: 
B.nội dung: 
 Chương 1: Lý luận cơ bản về lợi ích Kinh tế 
 1.1.Bản chất đặc trưng cơ bản của lợi ích kinh tế..3 
1.1.1. Lợi ích kinh tế3 
1.1.2. Vai trò của lợi ích kinh tế..4 
1.2.Các cơ cấu kinh tế trong các thành phần kinh tế ở nước ta.5 
1.3. Lợi ích kinh tế và vấn đề phát triển cộng đồng trong giai đoạn phát 
triển hiện nay ..11 
 1.3.1. Quan hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích văn hoá xã hội12 
 1.3.2. Lợi ích kinh tế và các vấn đề chính sách xã hội.13 
 1.3.3. Lợi ích kinh tế và vấn đề môi trường sống.15 
chương 2: 
Các hình thức phân phối thu nhập ở Việt Nam 
 2 
2.1.Bản chất và vai trò của phân phối.20 
 2.1.1. Phân phối là một khâu của quá trình tái sản xuất..20 
 2.1.2. Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất...21 
2. 2. Các hình thái phân phối thu nhập.23 
 2.2.1. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nhiều hình thức phân 
phối23 
 2.2.2. Các hình thức phân phối thu nhập.24 
a. Phân phối theo lao động..24 
b. Các hình thức phân phối khác nhau.27 
c. Phân phối thông qua phúc lợi tập thể ,phúc lợi xã hội28 
d. Phân phối theo vốn và tài sản.29 
2.3. Từng bước thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập30 
 2.3.1. Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất..30 
 2.3.2. Tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền công, tiền lương, chống chủ 
nghĩa bình quân ,thu nhập bất hợp lý bất chính 31 
 3 
 2.3.3. Điều tiết thu nhập dân cư, hạn chế sự chênh lệch quá đáng về thu 
nhập.31 
 2.3.4. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm 
nghèo.32 
C.Kết luận.34 
D.Tài liệu tham khảo..35 
 4 
Mở đầu 
 Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII một lần nữa khẳng 
định sự kiên trì chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, và đề ra chính 
sách: Công nghiệp hoá và hiện đại hoá để đưa nước ta nhanh chóng trở thành 
một nước có nền kinh tế phát triển ngay trong thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. 
Nền kinh tế nước ta đã chuyển đổi dần dần từ nền kinh tế tập trung quan liêu 
bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mở cửa, vận hành theo 
cơ chế thị trường có sự điều tiết quản lý của Nhà nước. 
Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, xây dựng nền công 
nghiệp hoá hiện đại hoá thì vấn đề nổi lên không chỉ ở nước ta mà ở cả các 
nước đang phát triển là tình trạng cơ sở hạ tầng kém, thiếu kinh nghiệm, trình 
độ đội ngũ cán bộ công nhân viên chưa cao. Vì thế, cùng một lúc chúng ta 
phải bắt tay vào giải quyết nhiều vấn đề cấp bách thì mới đáp ứng kịp thời với 
yêu cầu đặt ra. 
Đặc biệt vấn đề về lợi ích kinh tế là một trong những vấn đề kinh tế lớn 
của Nhà nước mà đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã đề ra cho giai đoạn 
phát triển kinh tế nước ta hiện nay. 
Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá 
tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng 
xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện đó nhiều loại hình Doanh nghiệp , nhiều loại 
hình kinh tế cùng tồn tại, cùng tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Để 
tồn tại trong cơ chế mới với sự cạnh tranh khốc liệt, đòi hỏi hoạt động kinh 
doanh nói chung, thì lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp nói riêng và lợi ích 
của toàn xã hội nói chung luôn được quan tâm hàng đầu. 
 5 
Bên cạnh những thành công, tiến bộ của một số Doanh nghiệp thì còn 
không ít những Doanh nghiệp hiệu quả kinh doanh thấp dẫn đến nguy cơ sa 
sút, không đứng nổi trong cơ chế thị trường, phải sát nhập, phá sản hoặc giải 
thể. Mặt khác tình trạng hoạt động kinh doanh nói chung gặp rất nhiều khó 
khăn lúng túng và bị động khi chuyển sang cơ chế mới, chưa tìm ra được các 
giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Ngoài ra, khi 
chuyển sang cơ chế thị trường, việc xem xét đánh giá, phân tích hiệu quả kinh 
doanh của các Doanh nghiệp chưa được chú ý đúng mức, nhiều Doanh nghiệp 
còn chưa đủ tiêu chuẩn để đánh giá, các giải pháp cho việc đẩy mạnh kinh 
doanh . 
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề hiệu quả trong việc đánh giá, 
phân tích kết quả hoạt động kinh doanh, thì ta có thể thông qua những hình 
thức phân phối thu nhập của doanh nghiệp đó. Do đó tôi đã chọn đề tài: “Lợi 
ích kinh tế và các hình thức phân phối thu nhập ở Việt Nam hiện nay 
làm đề tài cho bài nghiên cứu khoa học của mình và hy vọng đóng góp một 
phần công sức nhỏ vào lý luận và phương pháp xây dựng để nâng cao hiệu quả 
kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay của 
Việt Nam. 
-Mục tiêu nghiên cứu: nhằm chỉ ra cho người đọc hiểu rõ được thế nào 
là lợi ích kinh tế nói chung. Từ đó thông qua lý luận chỉ ra rằng tính tất yếu 
cho các doanh nghiệp là phải quan tâm đến lợi ích kinh tế. Mà trước hết và sát 
thực nhất là hình thức phân phối thu nhập hợp lý. 
 6 
Chương 1 
Lý Luận cơ bản về lợi ích kinh tế 
1.1.Bản chất ,đăc trưng cơ bản của lợi ích kinh tế 
1.1.1.Lợi ích kinh tế: 
 Ngay từ khi mới xuất hiện,con người đã tiến hành các hoạt dộng kinh 
tế hoạt động kinh tế luôn giữ vai trò trung tâm trong mọi hoạt động xã hội và 
nó là cơ sở cho các hoạt động khác.Trong hoạt động kinh tế,con người luôn có 
động cơ nhất định.Động cơ thúc đẩycon người hành động.Mức độ hành động 
mạnh hay yếu tuỳ thuộc vào mức độ chín muồi của động cơ- tuỳ thuộc vào 
nhận thức và thực hiện lợi ích của họ.Lợi ích kinh tế và phân phối thu nhập là 
những vấn đề rộng lớn liên quan đến các hoạt động kinh tế,văn hoá,xã hội của 
nhà nước và nhân dân lao động,trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở 
nước ta.Chính vì thế mà em chọn đề tài:Lợi ích kinh tế và phân phối thu nhập 
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 
 Lợi ích là gì?Theo C.Mác thì phạm trù lợi ích, ích lợi , có lợi được sử 
dụng như là cùng nghĩa và có thể thay thế nhau.Lợi ích không phải là cái gì 
trừu tượng và có tính chất chủ quan,mà cơ sở của lợi ích là nhu cầu khách 
quan của con người .Con người có nhiều loại nhu cầu(vật chất,chính trị,văn 
hoá), do đó có nhiều loại lợi ích(lợi ích kinh tế ,lợi ích chính trị,lợi ích văn 
hoá,tinh thần) 
 7 
 Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan,nó xuất hiện trong 
những điều kiện tồn tại là mối quan hệ xã hội nhằm thực hiện nhu cầu kinh tế 
của các chủ thể kinh tế.Những nhu cầu kinh tế của con người khi nó được xác 
định về mặt xã hội thì nó trở thành cơ sở,nội dung của lợi ích kinh tế. 
 Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất,nó được 
quy định một cách khách quan bởi ohương thức sản xuất,bở hệ thống quan hệ 
sản xuất,trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.Ph.Ănghen 
viết:"những quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước 
hết dưới hình thức lợi ích".V.I.Lênin cũng cho rằng:Lợi ích của giai cấp này 
hay giai cấp khác được xác định một cách khách quan theo vai trò mà họ có 
trong hệ thống quan hệ sản xuất,theo những hoàn cảnh và đIều kiện sống của 
họ. 
Là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất,lợi ích kinh tế thể hiện 
trong tất cả bốn khâu của quá trình tái sản xuất xã hội.Cần khẳng định rằng,ở 
đâu có hoạt động sản xuất-kinh doanh thì ở đó có lợi kinh tế và chủ thể sản 
xuất-kinh doanh cũng là chủ thể của lợi ích kinh tế. 
1.1.2.Vai trò của lợi ích kinh tế: 
Lợi ích kinh tế là một trong những vấn đề sống còn của sản xuất và đời 
sống.Chính những lợi ích kinh tế đã gắn bó con người với cộng đồng của mình 
và tạo ra những kích thích,thôi thúc,khát vọng và sự say mê trong hoạt động 
sản xuất-kinh doanh cho người lao động.Lợi ích kinh tế được nhận thức và 
thực hiên đúng thì nó sẽ là động lực kinh tế thúc đẩy con người hành động.Do 
đó,lợi ích kinh tế thể hiện như là một trong những động lực cơ bản của sự tiến 
bộ xã hội nói chung,phát triển sản xuất-kinh doanh nói riêng.Ph.Ăngghen 
cho rằng,lợi ích kinh tế là những động cơ đã lay chuyển những quần chúng 
 8 
đông đảo.Và khi chúng biến thành sự kích thích hoạt động của con người :"thì 
chúng lấy động đời sống nhân dân" 
Lợi ích kinh tế còn có vai trò quan trọng trong việc củng cố,duy trì các 
mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể sản xuất -kinh doanh.Một khi con 
người(chủ thể)tham gia vào các hoạt động kinh tế đều nhằm đạt tới những lợi 
ích kinh tế tương xứng với kết quả sản xuất kinh doanh thì mới đảm bảo nâng 
cao tính ổn định và sự phát triển của các chủ thể lợi ích.Ngược lại,khi không 
mang lại lợi ích hoặc lợi ích không được đầy đủ thì sẽ làm cho các mối quan 
hệ đó(quan hệ giữa các chủ thể)xuống cấp. Nếu tình trang đó kéo dài thì sớm 
muộn sẽ dẫn đến tiêu cực trong hoạt động sản xuất-kinh doanh. 
 Lợi ích kinh tế thiết thân của cá nhân người lao động là động lực trực 
tiếp đối với sự hoạt động của từng con người nói riêng và của cả xã hội nói 
chung. 
 Trong giai đoạn lịch sử hiện nay của đất nước, các lợi ích kinh tế, lợi 
ích trứơc mắt của các cá nhân đang là cấp bách nhất, vì thế , nó cũng đang 
đóng vai trò quan trọng hơn cả trong việc thúc đẩy các chủ thể hoạt động và 
qua đó gây nên sự vận động , phát triển của xã hội. Vì vậy vào thời điểm lịch 
sử hiện nay, chúng ta phải chủ trương tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích 
các cá nhân , các gia đình cũng như các nhóm xã hội thực hiện các lợi ích trên 
đây là hết sức đúng đắn, là phản ánh đúng những đòi hỏi khách quan của thực 
tiễn cuộc sống. Thực ra, thông qua các chủ trương ấy, chúng ta nhằm vào các 
mục đích lớn lao hơn- đó là đưa xã hội thoát khỏi khủng hoảng và từng bước 
phát triển đời sống kinh tế xã hội của đất nước. 
1.2.Các cơ cấu lợi ích kinh tế trong các thành phần kinh tế ở nước 
ta: 
 9 
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đang tồn tại nhiều 
thành phần kinh tế với sự đa dạng các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và 
đa dạng các hình thức tổ chức sản xuất-kinh doanh.Đại hội lần thứ IX của 
Đảng đã xác định: ở nứơc ta hiện nay có 6 thành phần kinh tế.Đó là: 
+Kinh tế tập thể: Có thể nói các hợp tác xã(HTX) được thành lập và 
tồn tại mấy chục năm qua được hình thành trên cơ sở tập thể hoá các tư liệu 
sản xuất mang tính phong trào và được nền kinh tế xã hội chủ nghĩa bao cấp, 
nuôi dưỡng đến nay hầu như bị tan rã hoặc đang đứng trước nguy cơ tan rã. 
Các hợp tác xã nông nghiệp và thương nghiệp, dịch vụ hầu như đã biến dạng 
và biến mất hoàn toàn. 
Riêng trong nông nghiệp các HTX hay các tập đoàn sản xuất(TĐSX) 
diễn ra theo hai xu hướng sau: 
- Phần lớn các HTX va TĐSX được thành lập trước đây đã bị tan rã 
và giải thể . 
- Số còn lại tồn tại chủ yếu mang tính chất hình thức làm dịch vụ 
phục vụ, thúc đẩy kinh tế hộ gia đình phát triển. 
Dĩ nhiên, cùng với sự tan rã và giải thể hàng loạt của các HTX và các 
TĐSX trong cả nông nghiệp, công nghiệp thương nghiệp và dịch vụ theo mô 
hình cũ là sự hình thành những loại hình hợp tác kiểu mới đa dạng ra đời một 
cách khách quan do yêu cầu của đời sống và sản xuất xã hội. Loịa hình hợp 
tác này được hình thành trên cơ sở các thành viên xã viên tự nguyện tham gia 
và đóng góp cổ ph ... ều kiện thuận lợi cho việc tổ chức lao động xã hội 
_ Tác động mạnh đến đời sống vật chất và văn hoá của người lao động 
,vừa đảm bảo tái sản xuất, sức lao động, vừa tạo mọi điều kiện của người lao 
động phát triển toàn diện. 
 33 
 Phân phối theo lao động là hợp lý nhất, công bằng nhất so với các hình 
thức phân phối đã có trong lịch sử. Cơ sở của sự công bằng xã hội của sự phân 
phối đó là sự bình đẳng trong quan hệ sở hữu về tư liêụ sản xuất. 
 Tuy vây, theo C.Mác, phân phối theo lao động về nguyên tắc vẫn là sự 
bình đẳng trong khuôn khổ:" Pháp quyền tư sản", tức là sự bình đẳng trong xã 
hội sản xuất hàng hoá theo nguyên tắc trao đổi hoàn toàn ngang giá. Sự bình 
đẳng ở đây được hiểu theo nghĩa quyền của người sản xuất là tỷ lệ với lao 
động mà người ấy đã cung cấp; sự bình đẳng đó còn thiếu sót là" với một công 
việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng 
của xã hội thì trên thực tế, người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này 
vẫn giàu hơn người kia" 
 Phân phối theo lao động còn có những hạn chế nhưng đó là những hạn 
chế không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa. 
Chỉ khi nào cùng với sự phát triển toàn diện của cá nhân , năng suất của họ 
càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều tuôn ra dồi dào thì khi đó 
người ta mới có thể vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp của cái pháp quyền tư sản 
và xã hội mới có thể thực hiện phân phối theo nhu cầu . Chỉ khi đó mới có sự 
bình đẳng thực sự. 
b. Các hình thức phân phối khác: 
 ở nước ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế với sự đa dạng các 
hình thức sở hữu và các hình thức tổ chức sản xuất- kinh doanh. Do đó , ngoài 
hình thức phân phối theo lao động, trong thời kỳ quá độ còn tồn tại các hình 
thức phân phối thu nhập khác.Đó là: 
 34 
_ Trong các đơn vị kinh tế tập thể bậc thấp có sự kết hợp phân phối theo 
vốn và phân phối theo lao động. 
_ Trong thành phần kinh tế cá thể ,tiểu chủ thì thu nhập phụ thuộc vào 
sở hữu tư liệu sản xuất, vốn đầu tư sản xuất và tài năng sản xuất, kinh doanh 
của chính những người lao động 
_ Trong kinh tế tư bản tư nhân và tư bản nhà nước, việc phân phối ở đây 
dựa trên cơ sở sở hữu vốn cổ phần, sở hữu sức lao động, sở hữu tư bản 
c. Phân phối thông qua phúc lợi tập thể, phúc lợi xã hội: 
 Để nâng cao mức sống về vật chất và văn hoá của nhân dân đặc biệt 
là các tầng lớp nhân dân lao động, sự phân phối thu nhập của mọi thành viên 
,xã hội còn được thực hiện thông qua quỹ phúc lợi, tập thể và xã hội. Sự phân 
phối này có ý nghĩa hết sự quan trọng vì nó góp phần : 
_ Phát huy tính tích cực lao động của mọi thành viên trong xã hội 
_ Nâng cao thêm mức sống toàn dân, đặc biệt đối với những người có 
thu nhập thấp, đời sống khó khăn làm giảm sự chênh lệch quá đáng về thu 
nhập giữa các thành viên trong cộng đồng. 
_ Giáo dục ý thức cộng đồng, xây dựng chế độ xã hội mới 
_ Quỹ phúc lợi tập thể và xã hội là một bộ phận không thể thiếu trong 
quá trình phân phối thu nhập cho cá nhân trong cộng đồng, song quỹ đó chỉ có 
 35 
ý nghĩa tích cực khi được quy định và sử dụng một cách hợp lý phù hợp với 
yêu cầu và điều kiện khách quan. 
Tính hợp lý của quỹ phúc lợi tập thể và xã hội được biểu hiện như sau: 
_Quỹ phúc lợi tập thể, xã hội không thể mở rộng quá khả năng của nền 
kinh tế cho phép. 
_ Tốc độ tăng trưởng thu nhập trực tiếp của cá nhân trong cộng đồng 
phải tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng phúc lợi tập thể và xã hội. 
_ Trong giới hạn đã xác định, cần sử dụng có hiệu qủa, tiết kiệm ,hợp lý 
các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội. Việc sử dụng phải nhằm mục đích thiết 
thực, tránh lãng phí xa hoa, phô trương hình thức. Vì các quỹ này có quan hệ 
với lợi ích thiết thân của mỗi thành viên tập thể cộng đồng, cho nên cần phát 
huy đầy đủ dân chủ, trưng cầu ý kiến của quảng đại quần chúng, sao cho mỗi 
loại phúc lợi đều có thích hợp với nhu cầu bức thiết của quần chúng, phát huy 
được tác dụng vốn có của nó. 
_ Quỹ phúc lợi xã hội là chính sách xã hội cần được giải quyết theo tinh 
thần xã hội hoá. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt; đồng thời động viên mỗi 
người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức 
nước ngoài cùng tham gia đóng góp . 
d. Phân phối theo vốn và tài sản: 
 Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế tồn tại 
nhiều thành phần, tương ứng với mỗi thành phần kinh tế có một hình thức 
 36 
phân phối nhất định. Nếu thành phần kinh tế quốc doanh tập thể phân phối 
theo lao động, thì các thành phần kinh tế khác lại có những hình thức phân 
phối khác, rất đa dạng, rất khác nhau. Tuy nhiên, điều đó không làm mất tính 
định hướng xã hội chủ nghĩa bởi chúng ta đảm bảo nguyên tắc lấy phân phối 
theo lao động làm chính nhưng đồng thời sử dụng các hình thức phân phối 
khác, miễn là nó phù hợp với tình trạng nền kinh tế của đất nước và thực hiện 
nó có tác dụng tốt cho sự phát triển kinh tế xã hội cũng như phù hợp với lợi 
ích người lao động; người lao động bằng lòng chấp nhận nó. 
 Điều này thể hiện ở hình thức phân phối theo tài sản, vốn, những 
đóng góp khác... 
 Đây là hình thức phân phối thích hợp với điều kiện của đất nước ta 
trong giai đoạn quá độ. Vì do đặc điểm nước ta trong thời kỳ này là đi lên chủ 
nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ. Tình trạng thiếu vốn, phân tán vốn là 
phổ biến. Quá trình sản xuất, tích tụ, tập trung vốn chưa cao, một phần tương 
đối lớn vốn lại nằm trong tay người lao động tư hữu nhỏ, tư sản nhỏ... 
 Để sử dụng nguồn vốn này, chúng ta không thể sử dụng cách chính 
sách áp đặt như trưng thu, đóng góp cổ phần một cách bình quân. Những biện 
pháp đó chỉ làm suy yếu lực lượng sản xuất xã hội. 
 Do đó, từ sau nghị quyết hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung 
ương (khoá VI), ở nước ta đã xuất hiện các biện pháp huy động vốn dưới 
những hình thức như vay vốn, góp cổ phần không hạn chế, trả mức lãi hợp lý... 
Cách làm như vậy đã không những góp phần tăng lượng vốn vào quá trình chu 
chuyển mà khu vực kinh tế quốc doanh lại được sử dụng nguồn vốn to lớn hơn 
nhiều nguồn vốn tự có. Đồng thời, mặc dù vốn của tư nhân nhưng sử dụng đã 
mang tính xã hội. Với quan điểm đổi mới này, chúng ta chấp nhận việc phân 
 37 
phối kết quả của sản xuất kinh doanh dưới hình thức "lợi tức" và "lợi nhuận", 
và pháp luật bảo vệ những thu nhập hợp pháp đó. 
2.3.Từng bước thực hiện công bằng xã hôi trong phân phối thu 
nhập 
 Chủ nghĩa xã hội phát triển mới có điều kiện để thực hiện một bước cơ 
bản về công bằng xã hội trong phân phối thu nhập. 
 Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ 
nghĩa từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, Đảng và nhà nớc ta chủ trương 
thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá theo 
định hướng xã hội chủ nghĩa, thì vẫn tồn tại bất bình đẳng về phân phối thu 
nhập . Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải tạo ra những tiền đề , 
những biện pháp để từng bước thu hẹp và xoá bỏ sự bất bình đẳng đó, tiến tới 
một xã hội" không có chế độ người bóc lột người, một xã hôi bình đẳng nghĩa 
là ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, 
ai làm ít thì hưởng ít, ai không làm thì không hưởng" 
 Để đạt mục tiêu này,từ thực tiễn nước ta cần phải thực hiện: 
2.3.1.Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất 
 Bởi như Ph.Anghen , phương thức phân phối về căn bản là phụ thuộc 
vào số lượng sản phẩm được phân phối 
2.3.2 Tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền công ,tiền lương, chống chủ 
nghĩa bình quân và thu nhập bất hợp lý, bất chính 
 38 
 Để từng bước thực hiện phân phối công bằng hợp lý ,cần có chính 
sách phân phối bảo đảm thu nhập của những người lao động có thể tái sản 
xuất sức lao động.Gắn chặt tiền công , tiền lương với năng suất, chất lượng và 
hiệu qủa sẽ đảm bảo quan hệ hợp lý về thu nhập cá nhân giữa các ngành nghề 
.Nghiêm trị những kẻ có thu nhập bất chính, cần phải tiền tệ hoá tiền lương và 
thu nhập, xoá bỏ những đặc quyền, đặc lợi trong phân phối. 
2..3.3. Điều tiết thu nhập dân cư, hạn chế sự chênh lệch quá đáng về 
mức thu nhập 
 Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta một mặt phải thừa 
nhận sự chênh lệch về mức thu nhập giữa các tập thể , cá nhân là khách quan; 
mặt khác, nhà nước phải hạn chế sự chênh lệch thu nhập quá đáng để không 
dẫn đến sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập, bằng cách điều tiết thu nhập 
và các giải pháp quản lý. 
 Điều tiết thu nhập là một yêu cầu khách quan trong nền kinh tế thị 
trường nói chung, ngay cả trong các nước tư bản chủ nghĩa cũng phải điều tiết 
thu nhập nhằm duy trì sự ổn định xã hội. ở nứơc ta việc điều tiết thu nhập càng 
quan trọng, nhằm hạn chế sự chênh lệch quá đáng về thu nhập để không dẫn 
đến sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập. 
 Điều tiết thu nhập được thực hiện thông qua hình thức : 
_Điều tiết giảm thu nhập thông qua hình thức thuế thu nhập và hình 
thức tự nguyện đóng góp của cá nhân có thu nhập cao vào quỹ phúc lợi xã hội 
, từ thiện 
 39 
 Trong đó thuế thu nhập là hình thức quan trọng nhất chủ yếu nhất và 
điều tiết làm tăng thu nhập được thực hiện thông qua ngân sách nhà nước, 
ngân sách của các tổ chức chính trị- xã hội, các quỹ bảo hiểm qua giá, trợ cấp, 
phụ cấp các loại, tín dụng tiêu dùng và có thể một phần hiện vật cho một số 
đối tượng nhất định , qua các hoạt động từ thiện của các tổ chức và cá nhân. 
Những điều đó nhằm trợ giúp thường xuyên cho những người có thu nhập 
thấp, trợ giúp những người thất nghiệp, những người tham gia bảo hiểm khi 
gặp rủi ro, những người thuộc diện chính sách xã hội , bổ xung thu nhập mang 
tính chất bình quân trong các tổ chức, trong các doanh nghiệp vao các dịp lễ 
tết 
2.3.4. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm 
nghèo. 
 Mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta là dân giàu,nứơc mạnh, xã hội công 
bằng, dân chủ, văn minh. Dân có giàu thì nước mới có thể mạnh, nước mạnh 
mới có khả năng thực hiện sự công bằng xã hội và có cuộc sống văn minh. Vì 
vậy, phải phát huy nỗ lực làm giàu cho mọi công dân. Nhà nước không những 
khuyến khích mọi người làm giàu một cách hợp lý, hợp pháp mà còn tạo điều 
kiện, giúp đỡ bằng nhiều biện pháp. 
 Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư 
mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động, Mọi công dân 
đều được tự do hành nghề , thuê mứơn nhân công theo pháp luật, phát triển 
dịch vụ việc làm. Phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước .Mở 
rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Tạo điều kiện cho mọi 
người lao động tự tạo, tìm kiếm việc làm. 
 40 
Thực hiện xoá đói giảm nghèo , đền ơn đáp nghĩa bảo hiểm xã hội và 
các hoạt động nhân đạo, từ thiện. Để từng bứơc đạt tới sự tiến bộ và công bằng 
xã hội trong phân phối thu nhập, xuấtphát từ điều kiện cụ thể, nhiệm vụ trước 
mắt là phải thực hiện tốt chương trình xoá đói giảm nghèo nhất là vùng căn cứ 
cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. 

File đính kèm:

  • pdfluan_van_loi_ich_kinh_te_va_cac_hinh_thuc_phan_phoi_thu_nhap.pdf