Tiểu luận Quản lý đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh Đắk Nông
Trải qua 25 năm thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu có ý nghĩa quan trọng trong nhiều lĩnh vực. Trong quá trình ấy phải nói rằng chính sách tài chính, chính sách đối ngoại và đặc biệt là chính sách đầu tư phát triển đã đóng góp rất lớn vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, đã tạo cơ sở vật chất làm tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhằm làm nền móng cho hạ tầng cơ sở vật chất, tạo đà phát triển bền vững cho kiến trúc thượng tầng của một đất nước hiện đại, văn minh tiến kịp với sự phát triển của các nước trong khu vực và bắt kịp tốc độ phát triển như vũ bão hiện nay của các nước phát triển công nghiệp khác trên thế giới.
Bước vào giai đoạn mới - giai đoạn phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang đặt ra những yêu cầu thật sự cần thiết vào đổi mới cơ chế, chính sách đầu tư và xây dựng vừa phải phù hợp với tình hình đất nước ta vừa phải phù hợp với thông lệ quốc tế v.v... phải có những chính sách thật sự thông thoáng nhưng chặt chẽ đến mức tối thiểu cần thiết để kêu gọi vốn đầu tư phát triển của mọi thành phần: huy động vốn trong nhân dân, các tổ chức trong nước bao gồm cả tổ chức đoàn thể, công hội, doanh nghiệp và một bộ phận khá quan trọng là các nhà đầu tư nước ngoài.
Một trong những định hướng cơ bản trong đổi mới chính sách tài chính là nâng cao hiệu quả phân bổ và sử dụng vốn đầu tư được xem là trọng tâm của chương trình đổi mới kinh tế tài chính, nhất là trong điều kiện nước ta đang thiếu vốn, cho nên việc sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư là một yêu cầu hàng đầu. Vì vậy, nâng cao hiệu quả đầu tư phải được đặt ra như một tiêu chuẩn cho mọi hoạt động đầu tư, mặt khác nâng cao hiệu quả đầu tư phải là mục tiêu chi phối mọi hoạt động và quyết định phát triển kinh tế trên tất cả các lĩnh vực, có nghĩa là phải xác định rằng việc huy động vốn đã khó nhưng việc sử dụng vốn như thế nào cho có hiệu quả thì càng khó hơn. Đây là một vấn đề nóng bỏng xảy ra trong quá trình thực hiện và quản lý đầu tư xây dựng cơ bản.
Yêu cầu đặt ra tương đối rộng khả năng khái quát, phân tích, đánh giá và vận dụng thực tiễn có hạn tôi không có tham vọng đề cập đến tất cả các vấn đề để làm thế nào nâng cao hiệu quả vốn đầu tư thuộc mọi lĩnh vực mà nội dung chính của tiểu luận chỉ đề cập đến một khía cạnh vào việc quản lý đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh Đắk Nông. Từ đó có những ý kiến đề xuất trong công tác quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng cơ bản tại địa phương nhằm nâng cao hiệu quả và phần nào hạn chế những thất thoát trong lĩnh vực này.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Quản lý đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh Đắk Nông

Tiểu luận Quản lý nhà nước ngạch chuyên viên 2013 LỜI NÓI ĐẦU Trải qua 25 năm thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu có ý nghĩa quan trọng trong nhiều lĩnh vực. Trong quá trình ấy phải nói rằng chính sách tài chính, chính sách đối ngoại và đặc biệt là chính sách đầu tư phát triển đã đóng góp rất lớn vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, đã tạo cơ sở vật chất làm tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhằm làm nền móng cho hạ tầng cơ sở vật chất, tạo đà phát triển bền vững cho kiến trúc thượng tầng của một đất nước hiện đại, văn minh tiến kịp với sự phát triển của các nước trong khu vực và bắt kịp tốc độ phát triển như vũ bão hiện nay của các nước phát triển công nghiệp khác trên thế giới. Bước vào giai đoạn mới - giai đoạn phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang đặt ra những yêu cầu thật sự cần thiết vào đổi mới cơ chế, chính sách đầu tư và xây dựng vừa phải phù hợp với tình hình đất nước ta vừa phải phù hợp với thông lệ quốc tế v.v... phải có những chính sách thật sự thông thoáng nhưng chặt chẽ đến mức tối thiểu cần thiết để kêu gọi vốn đầu tư phát triển của mọi thành phần: huy động vốn trong nhân dân, các tổ chức trong nước bao gồm cả tổ chức đoàn thể, công hội, doanh nghiệp và một bộ phận khá quan trọng là các nhà đầu tư nước ngoài. Một trong những định hướng cơ bản trong đổi mới chính sách tài chính là nâng cao hiệu quả phân bổ và sử dụng vốn đầu tư được xem là trọng tâm của chương trình đổi mới kinh tế tài chính, nhất là trong điều kiện nước ta đang thiếu vốn, cho nên việc sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư là một yêu cầu hàng đầu. Vì vậy, nâng cao hiệu quả đầu tư phải được đặt ra như một tiêu chuẩn cho mọi hoạt động đầu tư, mặt khác nâng cao hiệu quả đầu tư phải là mục tiêu chi phối mọi hoạt động và quyết định phát triển kinh tế trên tất cả các lĩnh vực, có nghĩa là phải xác định rằng việc huy động vốn đã khó nhưng việc sử dụng vốn HV thực hiện: Nguyễn Văn Lưu Trang 1 Quản lý đầu tư và xây dựng Tiểu luận Quản lý nhà nước ngạch chuyên viên 2013 như thế nào cho có hiệu quả thì càng khó hơn. Đây là một vấn đề nóng bỏng xảy ra trong quá trình thực hiện và quản lý đầu tư xây dựng cơ bản. Yêu cầu đặt ra tương đối rộng khả năng khái quát, phân tích, đánh giá và vận dụng thực tiễn có hạn tôi không có tham vọng đề cập đến tất cả các vấn đề để làm thế nào nâng cao hiệu quả vốn đầu tư thuộc mọi lĩnh vực mà nội dung chính của tiểu luận chỉ đề cập đến một khía cạnh vào việc quản lý đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh Đắk Nông. Từ đó có những ý kiến đề xuất trong công tác quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng cơ bản tại địa phương nhằm nâng cao hiệu quả và phần nào hạn chế những thất thoát trong lĩnh vực này. HV thực hiện: Nguyễn Văn Lưu Trang 2 Quản lý đầu tư và xây dựng Tiểu luận Quản lý nhà nước ngạch chuyên viên 2013 PHẦN THỨ NHẤT NỘI DUNG TÌNH HUỐNG Đắk Nông là một tỉnh mới thành lập ngày 01/01/2004 theo Nghị quyết số 22/2003/QH 11 ngày 26 tháng 11 năm 2003 của Quốc hội khoá XI trên cơ sở chia tách tỉnh Đắk Lắk. Toàn tỉnh có có một thị xã Gia Nghĩa và 7 đơn vị hành chính cấp huyện : Cư Jút, Đắk Mil, Đắk R ’Lấp, Tuy Đức, Krông Nô, Đắk Song và Đắk Glong. Diện tích tự nhiên là 6.514,38 km 2 dân số gần 480 nghìn người với 31 dân tộc anh em cùng chung sống. Đây là một tỉnh Tây nguyên nằm trong chiến lược ưu tiên phát triển nhanh của Trung ương, đồng thời là một tỉnh mới thành lập nên được Chính phủ quan tâm đầu tư, nhiều công trình dự án có tầm vóc quốc gia như: khai khoáng, thuỷ điện, công nghiệp với quặng bôxít có trữ lượng 4,5 tỷ tấn, đây là thế mạnh mà Chính phủ thực hiện việc đầu tư phát triển tại Đắk Nông. Do đó tăng cường quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng cơ bản tại Đắk Nông là một yêu cầu cấp thiết. Thực tế trong khi theo dõi thực hiện công tác quản lý nhà nước về nguồn vốn đầu tư xây dựng tại tỉnh Đắk Lắk (cũ) và tình hình sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước tại tỉnh Đắk Nông hiện nay. Tôi xin nêu một số tình huống để làm rõ thêm những vướng mắc cần quan tâm tháo gỡ. Về lĩnh vực đầu tư phát triển, việc đầu tư cụ thể vào dự án phát triển nào cần phải được xem xét kỹ lưỡng, căn cứ vào nhu cầu, giá cả thị trường, mức độ tiêu thụ, và nhất là tính toán được hiệu quả kinh tế tài chính và xã hội trước khi đầu tư, không nên đầu tư theo “phong trào”, hay “ai có gì mình có nấy” điển hình như việc đầu tư vào nhà máy đường, gạch tuy nen tại huyện Cư Jút hiện nay đều bị thua lỗ, chẳng hạn nhà máy đường đưa vào hoạt động lỗ bình quân 5 tỷ đồng mỗi năm và mỗi đêm ngủ dậy là phải trả lãi cho Ngân hàng là 30 triệu đồng, việc đầu tư như vậy đã gây lãng phí và thất thoát hàng chục tỷ đồng của Nhà nước. HV thực hiện: Nguyễn Văn Lưu Trang 3 Quản lý đầu tư và xây dựng Tiểu luận Quản lý nhà nước ngạch chuyên viên 2013 Hoặc việc chủ trương đầu tư không đồng bộ, đầu tư phần trên trước, sau đó mới đầu tư các phần bên dưới, cho nên có khi một con đường đã có phần mặt bê tông nhựa hoàn chỉnh nhưng lại bị đào bới lên nhiều lần để đầu tư đường ống cấp thoát nước, đường thông tin bưu điện (đường Hai Bà Trưng) tại thị xã Gia Nghĩa... gây ra rất nhiều lãng phí và tốn kém tiền bạc của Nhà nước. Trong công tác đền bù giải tỏa: Điển hình là dự án Bệnh viện đa khoa tỉnh; phương án đền bù giải tỏa đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông phê duyệt lần đầu (năm 2004) là 2,06 tỷ đồng, sau đó phải bổ sung thêm 1,47 tỷ đồng; hay dự án trục đường Bắc - Nam số tiền đền bù theo quyết định phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi là 40,2 tỷ đồng nhưng khi đề nghị quyết toán công trình hoàn thành (năm 2005) là 51 tỷ đồng. Nguyên nhân chủ yếu là do quản lý không tốt cho nên một số đối tượng lợi dụng quy hoạch để làm nhà, xây bể nước trông chờ hưởng lợi cá nhân về tiền đền bù giải tỏa, mặt khác do việc lập phương án đền bù giải toả chậm nên chính sách về đền bù có thay đổi, làm thất thoát và lãng phí vốn đầu tư của nhà nước hàng tỷ đồng. Qua báo cáo công tác thanh tra kiểm tra của các cơ quan chức năng ở tại địa phương, việc lãng phí thất thoát trong đầu tư và xây dựng chiếm trên 10% tổng mức nguồn vốn đầu tư và được tổng kết qua một số mặt công tác sau: - Lãng phí và thất thoát do khâu chủ trương đầu tư và lập kế hoạch đầu tư không đúng hướng và không tập trung dứt điểm để đưa nhanh công trình vào khai thác sử dụng, phát huy hiệu quả - loại lãng phí này chiếm khoảng 30% trong tổng thất thoát cho đầu tư hàng năm. - Lãng phí thất thoát do giai đoạn chuẩn bị đầu tư, trong các công tác khảo sát, lập dự án đầu tư, tiền khả thi, khả thi không đầy đủ, kỹ lưỡng và tài liệu thu thập không chính xác, lãng phí do công tác giải phóng mặt bằng đình trệ, kéo dài thời gian xây dựng, loại này chiếm vào khoảng 10% tổng thất thoát. - Lãng phí thất thoát trong giai đoạn thực hiện đầu tư, bao gồm lãng phí do công tác khảo sát thiết kế, công tác thẩm định hồ sơ thiết kế, sử dụng công nghệ thiết bị lạc hậu, tân trang từ thiết bị cũ, thất thoát trong công tác đấu thầu, HV thực hiện: Nguyễn Văn Lưu Trang 4 Quản lý đầu tư và xây dựng Tiểu luận Quản lý nhà nước ngạch chuyên viên 2013 chỉ định thầu do thông thầu, ép giá và công tác giám sát nghiệm thu chiếm khoảng 40% tổng thất thoát. - Công tác thanh quyết toán công trình cũng gây lãng phí thất thoát khoảng 10% trong tổng thất thoát. - Các công tác khác như giám định quá trình đầu tư, trách nhiệm của người quản lý nhà nước vào quá trình xây dựng công trình, quá trình quản lý vận hành cũng gây ra những thất thoát lãng phí chiếm khoảng 10% tổng thất thoát. HV thực hiện: Nguyễn Văn Lưu Trang 5 Quản lý đầu tư và xây dựng Tiểu luận Quản lý nhà nước ngạch chuyên viên 2013 PHẦN THỨ HAI PHÂN TÍCH MÔ TẢ TÌNH HUỐNG I/ Về chủ trương đầu tư và công tác lập kế hoạch đầu tư : Để chuẩn bị cho một kế hoạch dài hạn vào phát triển kinh tế của địa phương theo kế hoạch 5 năm, trên cơ sở thế mạnh tiềm năng của mình, từng tỉnh sẽ định hướng cho nền kinh tế của địa phương mình theo hoạch định tổng thể của cả nước, trong đó việc xác định kế hoạch đầu tư qua từng năm được xác định. Hàng năm ngân sách trung ương và địa phương phải chi khoản hơn 500 tỷ đồng cho việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng xã hội và phúc lợi công cộng tại Đắk Nông, trong khi nguồn vốn hạn hẹp mà nhu cầu đầu tư vùng nào, ngành nào cũng rất cần và cấp thiết, do đó vốn đầu tư được bố trí dàn trãi, mỗi nơi một ít không đủ đề đầu tư dứt điểm cho công trình hoàn thành, đưa vào sử dụng ngay. Một công trình có quy mô nhỏ mà phải kéo dài đầu tư nhiều năm cũng gây ra không ít thất thoát và hiệu quả sử dụng của đồng vốn đầu tư không được phát huy, mặt khác phải sử dụng nhiều người nhiều phương tiện vào tham gia quản lý các hoạt động đầu tư và quản lý nhà nước, hoạt động tư vấn, xây dựng, các ban bệ gây tốn kém ngân sách nhà nước. II/ Trong các hoạt động triển khai đầu tư: A/ Giai đoạn chuẩn bị đầu tư: 1/ Khảo sát lập dự án tiền khả thi: Công tác điều tra khảo sát, thu thập tài liệu nghiên cứu tính toán tiền khả thi là một khâu quan trọng trong quá trình đầu tư, làm tốt và đánh giá thật kỹ lưỡng sẽ đem lại hiệu quả và tránh những tốn kém trong quá trình đầu tư, đây cũng là giai đoạn tốn kém tiền của nhiều nhất, thời gian dài nhất và quan trọng nhất trước khi đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn. Thực tế công tác này tại địa phương hầu hết các chủ đầu tư dự án đều xem nhẹ, làm qua loa chiếu lệ để kịp đáp ứng với yêu cầu thời gian triển khai HV thực hiện: Nguyễn Văn Lưu Trang 6 Quản lý đầu tư và xây dựng Tiểu luận Quản lý nhà nước ngạch chuyên viên 2013 đầu tư nếu chậm trễ sẽ bị “cắt ” vốn, do đó chất lượng của công tác này đối với một số dự án tiền khả thi là không chính xác, gây hậu quả trong quá trình đầu tư phải bổ sung sửa đổi, làm kéo dài thời gian thi công xây dựng vừa tốn kém vừa thiếu hiệu quả và quan trọng là mất cơ hội đầu tư, với loại này cũng gây tốn kém và tổn thất rất lớn vào thời gian và tài chính. 2/ Công tác lập dự án đầu tư : Trong lập dự án đầu tư, một số chủ đầu tư còn coi nhẹ bước tính toán đến hiệu quả kinh tế tài chính của dự án, đối với các dự án đầu tư thuần tuý vào sản xuất kinh doanh không mang nhiều ý nghĩa vào phục vụ xã hội, nhà đầu tư không tính toán đến các chỉ tiêu lợi nhuận và so sánh các phương án đầu tư để chọn lựa phương án tối ưu nhất. Hoặc với một số dự án đầu tư phục vụ lợi ích cộng đồng, chủ đầu tư chỉ quan tâm đến việc có công trình nhưng chưa đề cập sâu đến hiệu quả sử dụng cho nên có một số công trình xây dựng xong chỉ sử dụng được vài ba lần trong năm như sân vận động, rạp chiếu bóng ..., những việc này cũng gây ra lãng phí trong XDCB. 3/ Công tác giải phóng mặt bằng : Có dự án đầu tư đã nhiều năm nhưng vẫn không thể đưa vào sử dụng được do công tác điều tra và giải phóng mặt bằng không thực hiện được, chẳng hạn như có một số công trình giao thông, thoát nước trong thành phố đã được đầu tư sáu năm qua nhưng do mặt bằng không giải toả được. Vì vậy đến nay vẫn chưa được nghiệm thu thông tuyến thậm chí có một số đường ống thoát nước không giải toả, xây dựng được ống thoát hạ lưu gây ngập úng và hư hỏng, một số đường phố chính phải duy tu bảo dưỡng thường xuyên gây lãng phí công quỹ Nhà nước. B/ Giai đoạn thực hiện đầu tư: 1/ Công tác khảo sát thiết kế: Hiện nay, thực hiện cơ chế mở, cạnh tranh trong kinh doanh đã có những mặt tích cực của nó, tuy nhiên cũng không tránh khỏi những cạnh tranh thiếu lành mạnh, ồ ạt dẫn đến chất lượng kém gây tác hại đến lãng phí tiền của, HV thực hiện: Nguyễn Văn Lưu Trang 7 Quản lý đầu tư và xây dựng Tiểu luận Quản lý nhà nước ngạch chuyên viên 2013 một số doanh nghiệp tư vấn vào khảo sát thiết kế chạy theo lợi nhuận, không chú ý đến chất lượng sản phẩm khảo sát thiết kế, đến khi đưa vào thực thi xây dựng công trình mới phát hiện sai sót rồi bổ sung hoặc đập phá, có những công trình được thiết kế rất “phóng tay”, sử dụng nhiều sắt thép quá mức cần thiết, sử dụng vật liệu đắt tiền để tính toán chi phí thiết kế tăng lên (do hiện nay chi phí thiết kế được tính trên tỷ lệ % so với giá trị dự toán công trình). Vấn đề này cũng gây ra nhiều lãng phí tốn kém trong công tác xây dựng. 2/ Công tác thẩm định hồ sơ thiết kế dự toán : Thực tế cho thấy nhiều hồ sơ thiết kế dự toán được cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền vào xây dựng thẩm định nhưng công tác này còn có nhiều sai sót. Có công trình trong dự toán lập khối lượng thừa hoặc thiếu rất lớn, việc thẩm định kém dẫn đến việc thanh toán khống khối lượng trong các công trình đấu thầu với giá trúng thầu cao dẫn đến giá thanh toán cao sẽ rất lãng phí và thất thoát ngân sách ... Về phương diện thẩm định hồ sơ thiết bị vật tư phụ tùng và các dây chuyền công nghệ nhập ngoại, đây là vấn đề gây lãng phí rất lớn đối với đầu tư trong nước trong những năm gần đây, một mặt do trình độ tiếp cận với sự phát triển nhanh của nền công nghệ của các nuớc tiên tiến, hơn nữa lượng thông tin đối với thị trường ngoài nước còn hạn hẹp và thiếu, nên nhiều dự án đã nhập vào nước những dây chuyền sản xuất lạc hậu, tân trang lại máy móc thiết bị thuộc thế hệ cũ. Điển hình là dây chuyền chế biến đường, xi măng lò đứng của Trung Quốc, hệ thống chế biến gỗ ván lạng của Pháp là những bài học đắt giá vào vấn đề này. 3/ Công tác đấu thầu, chỉ định thầu: Việc quản lý và hướng dẫn công tác đấu thầu còn nhiều bất cập, trên thực tế vấn đề trong sạch trong đấu thầu là rất khó, việc công bố giá trần của dự toán đã giúp các nhà thầu liên minh hoặc thông thầu với nhau nhằm làm giảm ít HV thực hiện: Nguyễn Văn Lưu Trang 8 Quản lý đầu tư và xây dựng Tiểu luận Quản lý nhà nước ngạch chuyên viên 2013 nhất so với giá trị dự toán công trình, mà lẽ ra phần tiết kiệm đó là phần hưởng lợi của Nhà nước trong mục tiêu của đấu thầu. Hoặc quy định chưa nghiêm trong việc xác định khả năng tài chính cũng như năng lực của các nhà thầu trong xét thầu, do đó có nhiều doanh nghiệp không lành mạnh về tài chính, mất khả năng cân đối thanh toán, nợ nần nhiều nhưng được quyết định trúng thầu với giá thấp nhất, khi thực hiện hợp đồng thì kéo dài, không đủ tài chính để thực hiện công trình cũng gây ra bê trễ, giảm chất lượng và dẫn đến tổn thất tiền của nhà nước. 4/ Công tác giám sát, giám định và nghiệm thu : Công tác giám sát thi công công trình còn nể nang, đại khái, không thực hiện đúng quy trình công tác, dựa vào đó các nhà thầu thay đổi chủng loại vật tư vật liệu so với cam kết trong hợp đồng và đấu thầu, gây giảm chất lượng giảm tuổi thọ công trình, và đó cũng là một nguyên nhân gây thất thoát lớn trong công tác quản lý giám sát đầu tư xây dựng. Công tác giám định của cơ quan quản lý chất lượng tại địa phương chưa thực hiện hết chức năng đã được quy định trong Nghị định số 209/2004/NĐ-CP ngày 16/12/2004 của chính phủ, về quản lý chất lượng công trình XDCB phải thường xuyên thực hiện giám định, đột xuất kiểm tra, theo dõi thực hiện công tác nghiệm thu từng giai đoạn theo điểm dừng kết cấu bộ phận công trình. Tuy nhiên trên thực tế hoạt động này vẫn còn chiếu lệ, nên dẫn đến chất lượng công trình làm dối, làm ẩu gây lãng phí. Công tác nghiệm thu: có nhiều hội đồng nghiệm thu được tổ chức chỉ là hình thức “cưỡi ngựa xem hoa”, không đi sâu vào nghiệm thu chất lượng, khối lượng thực hiện công trình, kiểm soát các chứng chỉ chứng nhận nguồn gốc của các loại vật liệu, nhật ký công trình và các nghiệm thu giai đoạn,... do đó việc đánh giá chất lượng và tính toán khối lượng thường thiếu chính xác và đa số là tăng so với thực tế. Phần này cuối cùng cũng do Nhà nước gánh chịu. C. Giai đoạn kết thúc đầu tư: 1/ Công tác thanh quyết toán công trình dự án: HV thực hiện: Nguyễn Văn Lưu Trang 9 Quản lý đầu tư và xây dựng Tiểu luận Quản lý nhà nước ngạch chuyên viên 2013 - Công tác thanh toán vốn đầu tư: đây là vấn đề có liên quan trực tiếp đến tiền bạc dự án, nếu xử lý kịp thời và thuận lợi cho chủ đầu tư giải ngân nhanh sẽ thúc đẩy tiến độ thi công, đồng thời thanh toán đúng chế độ văn bản quy định sẽ tránh được thất thoát và lãng phí của Nhà nước, trong lĩnh vực này từ lâu đã có quy định cụ thể nhằm tránh những tình trạng trên, nhưng thực tế việc này vẫn xảy ra những vấn đề thất thoát do khâu kiểm soát còn sai sót, vận dụng chế độ chính sách không phù hợp, thanh toán vượt dự toán (kế hoạch) được ghi, cũng có trường hợp đơn vị thanh toán vốn đòi hỏi nhiều thủ tục rườm rà không thuộc phạm vi trách nhiệm của mình theo dõi quản lý như dự án, giấy phép đầu tư, cấp đất, thiết kế thẩm định, giấy phép kinh doanh,... vì hiển nhiên những vấn đề này phải đầy đủ thì mới thực hiện đầu tư cho đến bước thanh toán vốn được, sự nhũng nhiễu này cũng gây ra khó khăn và dẫn đến bê trễ tiến độ xây dựng lãng phí thời gian tiền bạc. - Công tác quyết toán vốn đầu tư hoàn thành: là khâu cuối cùng tổng hợp toàn bộ của quá trình đầu tư. Do đó, việc kiểm tra rà soát lại toàn bộ từ đầu để xác định giá trị hoàn thành, công nợ, chất lượng, đánh giá quá trình đầu tư, và trình phê duyệt quyết toán hoàn thành. Trong công tác này thường cũng có những sai sót khi kiểm tra quyết toán, sai sót vào thủ tục đầu tư nhưng nếu không kịp thời điều chỉnh cũng dẫn đến thất thoát vốn Nhà nước. D. Triển khai hoạt động sử dụng dự án đầu tư: 1/ Giám định đầu tư: Trong quá trình thực hiện đầu tư dự án, cần phải thực hiện bước kiểm tra bằng phương pháp giám định, nếu kiểm tra phát hiện dự án đầu tư triển khai không đúng hướng hoặc có nhiều biến động khách quan của xã hội tác động lên quá trình đang đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cần phải có ngay những kiến nghị cần thiết để đánh giá lại sự đúng đắn, hiệu quả thực tế của dự án để điều chỉnh kịp thời hoặc ngừng đầu tư để tránh việc thua lỗ lớn. Thực chất công tác này những năm qua chưa được triển khai giám sát, vì vậy có khá nhiều dự án vượt vốn, xây dựng xong không mang lại hiệu quả thua lỗ sau HV thực hiện: Nguyễn Văn Lưu Trang 10 Quản lý đầu tư và xây dựng
File đính kèm:
tieu_luan_quan_ly_dau_tu_xay_dung_co_ban_cua_tinh_dak_nong.doc