Bài thuyết trình Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Chủ nghĩa duy vật lịch sử - một trong ba bộ phận cấu thành hệ thống quan điểm Mác- Lênin – từ lâu đã trở thành phương pháp luận của nhiều nhà nghiên cứu trong các bộ môn như sử học, xã hội học...Trong tác phẩm “Góp phần phê phán khoa kinh tế - chính trị” năm 1859, C.Mác viết rằng : “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người ta có những quan hệ n hất định, tất yếu, không tùy thuộc ý muốn của họ- tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất của họ…” Trong chủ nghĩa Mác-Lênin , người ta gọi tư tưởng này của Mác là tư tưởng về "Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất".
Khuynh hướng chung của xã hội là không ngừng thay đổi. Xét đến cùng, trong toàn bộ tiến trình lịch sử phát triển của xã hội l oài người, chế độ xã hội này bị thay thế bởi chế độ xã hội khác là nhờ phương thức sản xuất thay đổi và sự thay đổi phương thức sản xuất chính là do sự thay đổi của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa duy vật lịch sử nói riêng và “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin” nói chung , cần phải hiểu đúng tinh thần, thực chất của nó và phải tuân theo nguyên tắc : gắn kết những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam, thực tiễn thời đại để thấy được sự vận dụng sáng tạo những nguyên lý đó của Đảng Cộng sản Việt Nam vào trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể của đất nước.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài thuyết trình Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

A: MỞ ĐẦU. B: NỘI DUNG CHƯƠNG I: QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHẢI PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT. 1: Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. 1.1.Lực lượng sản xuất +Khái niệm. +Kết cấu llsx. 1.2.Quan hệ sản xuất +Khái niệm + ba mặt của qhsx, phân tích mối quan hệ giữa ba mặt và vai trò của từng mặt. 2: Quy luật về quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. 2.1 : Tính chất và trình độ của llsx a) Tính chất b) Trình độ của lực lượng sản xuất: 2.2 :Nội dung của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. a) Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất.( chị Trang Anh) b) Quan hệ sản xuất tác động ngược trở lại với lực lượng sản xuất.Chị Linh Nguyễn) CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA CỦA QUY LUẬT ĐỐI VỚI CON ĐƯỜNG ĐI LÊN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM. 1: Sự tất yếu phải vận dụng quy luật vào trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước của Đảng ta. 2. Sự thay đổi của đất nước ta nhờ vận dụng quy luật vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. C:KẾT LUẬN. ---------------------------------------------------------------------------------------------------- A: MỞ ĐẦU Chủ nghĩa duy vật lịch sử - một trong ba bộ phận cấu thành hệ thống quan điểm Mác- Lênin – từ lâu đã trở thành phương pháp luận của nhiều nhà nghiên cứu trong các bộ môn như sử học, xã hội học...Trong tác phẩm “Góp phần phê phán khoa kinh tế - chính trị” năm 1859, C.Mác viết rằng : “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người ta có những quan hệ n hất định, tất yếu, không tùy thuộc ý muốn của họ- tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất của họ ” Trong chủ nghĩa Mác-Lênin , người ta gọi tư tưởng này của Mác là tư tưởng về "Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất". Khuynh hướng chung của xã hội là không ngừng thay đổi. Xét đến cùng, trong toàn bộ tiến trình lịch sử phát triển của xã hội l oài người, chế độ xã hội này bị thay thế bởi chế độ xã hội khác là nhờ phương thức sản xuất thay đổi và sự thay đổi phương thức sản xuất chính là do sự thay đổi của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa duy vật lịch sử nói riêng và “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin” nói chung , cần phải hiểu đúng tinh thần, thực chất của nó và phải tuân theo nguyên tắc : gắn kết những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam, thực tiễn thời đại để thấy được sự vận dụng sáng tạo những nguyên lý đó của Đảng Cộng sản Việt Nam vào trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể của đất nước. Tìm hiểu về quy luật này sẽ giúp ta có được những hiểu biết, cái nhìn sâu sắc về sự phát triển của đất nước cũng như của thế giới, hiểu được quy luật vận động của xã hội và thấy được ý nghĩa của nó đối với con đường đi lên Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ,từ đó góp phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp xây dựng đất nước ngày càng phát triển vững mạnh. Quy luật trên trước hết là quy luật kinh tế nhưng hơn thế nữa nó là quy luật cơ bản nhất của toàn bộ đời sống, xã hội của lịch sử nhân loại. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất biện chứng, tuân theo nguyên tắc khách quan và bao hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập làm phát sinh mâu thuẫn thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. ( Thuyết trình: Và để đi sâu hơn về vấn đề này cta sẽ tìm hiểu: các kniem cơ bản ( lực lg sx và quan hệ sx) và mối qhe biện chứng giữa lực lg sx và qhe sx Sau khi đã có những hiểu biết sâu sắc về qui luật này cta sẽ cùng nhau thảo luận về ý nghĩa của vấn đề này với con dg đi lên của xhcn ở nước ta CHƯƠNG I: QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHẢI PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT. I: Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. 1. Lực lượ ng sản xuất Bất kì quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải có các nhân tố thuộc về người lao động ( như năng lực, kỹ năng, tri thức, của người lao động) cùng các tư liệu sản xuất nhất định (như đối tượng lao động, công cụ lao động, các tư liệu phụ trợ của quá trình sản xuất ). Toàn bộ các nhân tố đó tạo thành lực lượng sản xuất của các quá trình sản xuất. Như vậy, lực lượng sản xuất là tổng hợp các yếu tố vật chất, tinh thần tạo thành sức mạnh thực tiễn cải biến thế giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn, phát triển của con người. Chỉ khi nào có sự thống nhất giữa tư liệu sản xuất và người lao động thì mới hình thành nên một lực lượng sản xuất. Về mặt cấu trúc, lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất .Trong đó, người lao động là nhân tố quan trọng, chủ đạo, cơ bản nhất của xã hội. Lê nin đã viết: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, người lao động”, chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kĩ năng lao động của mình sử dụng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Tư liệu sản xúât bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động. Đối tượng lao động là bộ phận của giới nhiên mà lao động của con người tác động vào làm thay đổi hình thái của nó cho phù hợp với mục đích c ủa con người. Tư liệu lao động là một vật hay hệ thống những vật làm nhiệm vụ truyền dẫn sự tác động của con người lên đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động theo mục đích của mình. Do đó, tư liệu lao động được coi là cánh tay thứ 2 của con người. Nó kéo dài và tăng cường sức mạnh thế giới quan con người. Tư liệu lao động do con người sáng tạo ra, bên cạnh phương tiện lao động, công cụ lao động là yếu tố “nhân” sức mạnh của con người trong quá trình sản xuất, đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc biến đổi tự nhiên. Cùng với quá trình phát triển của khoa học kĩ thuật, công cụ lao động không ngừng được cải tiến và trình độ phát triển của công cụ lao động đã trở thành thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử. C. Mác viết: "Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào". Ngày nay khoa học phát triển ngày càng trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp” vì nó đã thâm nhập vào tất cả mọi yếu tố của sản xuất, làm năng suất lao động tăng cao và là nguyên nhân chính của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất và đời sống xã hội. Có thể nói: khoa học công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại. 2.Quan hệ sản xuất Quan hệ sản xuất là mối quan hệ kinh tế giữa người với người về mặt thực hiện lợi ích vật chất trong quá trình sản xuất ( sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức – quản lý quá trình sản xuất và quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất tức là quan hệ giữa người với tư liệu sản xuất, nó có vai trò quyết đ ịnh đối với tất cả các quan hệ xã hội khác. Tồn tại hai loại hình sở hữu cơ bản đối với tư liệu sản xuất là: công hữu và tư hữu. Nếu như trong chế độ tư bản chủ nghĩa, phong kiến và chế độ chiếm hữu nô lệ xuất hiện hình thức tư hữu về tư liệu sản xuất, thì trong xã hội công xã nguyên thủy và cộng sản chủ nghĩa xuất hiện hình thức công hữu về tư liệu sản xuất. Trong ba mặt của quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất là quan hệ cơ bản và đặc trưng cho từng xã hội. Quan hệ trong phân phối sản phẩm tức là quan hệ chặt chẽ giữa người với người cùng mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu qủa tư liệu sản xuất để làm cho chúng không ngừng được tăng trưởng. Bên cạnh các quan hệ về mặt tổ chức quản lý, trong hệ thống quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động là những nhân tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế, nó có thể thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu của sản xuất nhưng ngược lại cũng có khả năng kìm hãm sản xuất, kìm hãm sự phát triển của xã hội. Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và chi phối, tác động qua lại lẫn nhau dựa trên cơ sở quyết định của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Chúng do con người tạo ra nhưng sự hình thành và phát triển một cách khách quan không phụ thuộc vào ý chí con người. II: Phân tích Quy luật về qh sx phải phù hợp với trình độ của llsx 1 : Tính chất và trì nh độ của llsx a) Tính chất: Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu sản xuất và lao động. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hóa. Khi nền sản xuất được thực hiện với những công cụ ở trình độ phổ thông, lực lượng sản xuất chủ yếu mang tính chất cá nhân. Khi trình độ sản xuất đạt tới trình độ cơ khí hóa, hiện đại, quy mô mở rộng, phân công lao động xã hội phát triển, trình độ người lao động nâng cao, thì lực lượng sản xuất mang tính chuyên môn hóa. b) Trình độ của lực lượng sản xuất: Gắn liền với tính chất của lực lượng sản xuất là trình độ của lực lượng sản xuất, thể hiện được sự phát triển của lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử của xã hội loài người . Khái niệm trình độ của lực lượng sản xuất nói lên khả năng của con người thông qua việc sử dụng công cụ lao động, thực hiện quá trình cải biến tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển của mình. Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện ở: trình độ công cụ lao động, trình độ quản lý xã hội, trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kinh nghiệm kỹ năng của con người và trình độ phân công tổ chức lao động. Công cụ lao động của con người từ thủ công như cầm tay,đồ đá, đồng, sắt,..đến máy móc cơ, và cuối cùng phát triển hiện đại hơn với khả năng tự động hóa cao.Quy mô sản xuất từ nhỏ, khép kín, đến thay đổi, mở rộng thành rất lớn và mang tính toàn cầu hóa ..Không chỉ thế, khoa học công nghệ hiện đại phát triển trải qua các cuộc cách mạng đã được áp dụng vào sản xuất, thể hiện được sự nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất . Trên thực tế tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất không tách biệt nhau.Sự thay đổi trình độ của llsx chính là nguyên nhân làm thay đổi tính chất của llsx. 2 :Nội dung của quy luật Giữa lực lượng sả n xuất và quan hệ sản xuất tồn tại mối quan hệ biện chứng, chúng tác động qua lại lẫn nhau và tồn tại không tách rời nhau; tạo thành một quy luật tất yếu và cơ bản nhất của sự vận động phát triển xã hội. a. Llsx quyết định qhxh. Sự vận động,phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Lực lượng sản xuất là nhân tố thường xuyên biến đổi và phát triển nhanh, ngược lại quan hệ sản xuất lại thường có tính ổn định trong một thời gian dài. Sự biến đổi của lực lượng sản xuất có nhiều nguyên nhân: do người lao động không ngừng nâng cao kĩ năng, trau dồi kinh nghiệm, khoa hoc kĩ thuật thì ngày càng tiến bộ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, ... và khi lực lượng sản xuất đã biến đổi đến một giới hạn nhất định sẽ đặt ra nhu cầu xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ và hiện có lỗi thời, lạc hâu, không còn phù hợp . Việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ thay nó bằng một quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là diệt vong cả một phương thức sản xuất lỗi thời và dẫn đến sự ra đời của một phương thức sản xuất mới. Sự vận động của mâu thuẫn này tuân theo quy luật “từ sự thay đổi về lượng thành sự thay đổi về chất và ngược lại”, “quy luật phủ định của phủ định”, khiến cho quá trình phát triển của sản xuất xã hội vừa diễn ra tuần tự lại vừa có tính nhảy vọt Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lượng sản xuất là một trạng thái trong đó các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất tạo địa bàn đầy đủ cho lực lượng sản xuất phát triển. Chỉ khi nào cả ba mặt của quan hệ sản xuất thích ứng với trình độ của lự c lượng sản xuất tạo điều kiện tốt nhất cho việc sử dụng và kết hợp giữa lao động và tư liệu sản xuất thì sẽ tạo ra cơ sở phát triển hết khả năng của lực lượng sản xuất .Như vậy lượng sản xuất quyết định sự hình thành và phát triển của quan hệ sản xuất, một khi lượng sản xuất đã biến đổi thì sớm hay muộn thì quan hệ sản xuất cũng phải biến đổi cho phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất mới . .Biểu hiện của những mâu thuẫn này chính là những cuộc đấu tranh giữa các giai cấp. Đấu tranh giai cấp phát triển đến tột đỉnh xẽ chuyển thành cách mạng xã hội. b. Qhsx tác động trở lại llsx. Mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo tính tất yếu khách quan: quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định; bởi vì, quan hệ sản xuất là nội dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất, song nó cũng chỉ ra rằng, quan hệ sản xuất, với tư cách là hình thức kinh tế - xã hội của quá trình sản xuất, luôn luôn có khả năng tác động trở lại sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất. Chúng ta không nên tuyệt đối hoá vai trò của lực lượng sản xuất mà bỏ qua sự tác động trở lại này của quan hệ sản xuất. Nó làm nhiệm vụ chỉ ra mục tiêu bước đi và tạo quy mô thích hợp cho lực lượng sản xuất hoạt động, cũng như đảm bảo lợi ích chính đáng cho người lao động phát huy tính tích cực sáng tạo cho con người là nhân tố quan trọng có ý nghĩa quyết định trong lực lượng sản xuất. Liên hệ với đặc điểm của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay là sản xuất nhỏ, thủ công phân tán và phát triển không đồng đều; để phát huy tiềm năng của lực lượng sản xuất cần phải có nhiều hình thức quan hệ sản xuất khác nhau. Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất theo 2 hướng: • Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó sẽ mở ra một địa bàn rộng rãi, một khuynh hướng phù hợp và một động lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển . • Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp, lỗi thời hay “ tiên tiến giả tạo” so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó sẽ kìm hãm và gây khó khăn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Song sự tác động kìm hãm đó chỉ là tạm thời , cuối cùng quan hệ sản xuất đó sẽ bị thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Quy luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất và trình độ phát triển của llsx là quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội, là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự tác động này đã đưa loài người trải qua 5 phương thức sản xuất, tương ứng là 5 chế độ xã hội( SLIDE 24): công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội cộng sản tương lai. Nhưng không phải bất cứ nước nào cũng nhất thiết tuần tự trải qua tất cả các phương thức sản xuất. Thực tế, tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể, một số nước có thể bỏ qua một hay một số phương thức sản xuất để tiến đến PTSX cao hơn. Ví dụ: Cách mạng Tư sản Pháp 1979 đã phá vỡ QHSX phong kiến lỗi thời, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất tạo điều kiện cho tư bản phát triển. Trong lịch sử phát triển nội tại của chủ nghĩa tư bản, từng ngày, từng giờ, LLSX mới hình thành tạo ra lớp người lao động mới, với yêu cầu phải thay đổi quan hệ sản xuất và cấu trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa để tiến tới xây dựng một hình thái kinh tế xã hội mới- thực hiện tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc Biểu hiện đỉnh cao là Cách mạng tháng Mười Nga 1917 hình thành nên hệ thống mới: xã hội chủ nghĩa. Xã hội ở một giai đoạn lịch sử nhất định được đặc trưng bởi những quan hệ sản xuất nhất định, hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất xã hội. Mỗi hình thức quan hệ sản xuất thích ứng với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất, và là cơ sở để hình thành các thành phần kinh tế khác nhau trong nền kinh tế. Các thành phần kinh tế hiện nay ở nước ta: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân( cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Ta có thể thấy được rằng, sự ra đời của các thành phần kinh tế đó là dựa trên quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. CHƯƠNG 2: Ý NGHĨA CỦA QUY LUẬT ĐỐI VỚI CON ĐƯỜNG ĐI LÊN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM. 1: Sự tất yếu phải vận dụng quy luật vào trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước của Đảng ta. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản và phổ biến của xã hội. Quy luật “cơ bản” nghĩa là quy luật này quyết định các quy luật khác và các quy luật khác muốn giải quyết triệt để thì cũng phải hướng tới quy luật này.(Thuyết trình: muốn chứng minh, giải thích vì sao đạo đức bây giờ lại xuống cấp, tệ nạn tham những rộng khắp, để giải thích nó, chúng ta phải tìm về kinh tế, tìm về quy luật này. Rất nhiều nguyên nhân nhưng cái chính là sự tác động của mặt trái của kinh tế thị trường)Trong quá trình xây dựng đường lối phát triển kinh tế, cần ưu tiên, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển; đặc biệt là ưu tiên phát triển con người và khoa học kỹ thuật, công nghệ nhằm tạo ra hiệu quả, năng suất lao động cao hơn. (Liên hệ: Cần ưu tiên về con người -> chủ thể của LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.Khoa học công nghệ-> Chủ thể của LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT -> năng suất lao động)Đồng thời, muốn lực lượng sản xuất phát triển nhằm nâng cao năng suất lao động, thì đòi hỏi con người phải tích cực cải tạo những quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời, lạc hậu kìm hãm, trói buộc lực lượng sản xuất phát triển. Trong quan hệ sản xuất cần phải thực hiện đa dạng hoá các hình thức sở hữu, tổ chức quản lý, phân phối sản phẩm nhằm thu hút, kích thích người lao động tham gia tích cực vào quá trình sản xuất, tạo ra năng suất lao động cao và góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Trước đổi mới, chúng ta vận dụng không đúng quy luật này, xây dựng quan hệ sản xuất không trên cơ sở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, như đưa vào hợp tác xã quy mô cấp cao quá nhanh, cải tạo công thương nghiệp ồ ạt mang tính chiến dịch, tuyệt đối hóa sở hữu, thậm chí đồng nhất giữa quan hệ sở hữu với quan hệ sản xuất Về pháp lý, tự liệu sản xuất cũng thuộc sở hữu toàn dân, người lao động là chủ sở hữu có quyền sở hữu, chi phối, định đoạt tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra nhưng trên thực tế thì người lao động chỉ là người làm công, chế độ lương lại không hợp lý, không phản ánh đúng số lượng và chất lượng lao động của từng cá nhân đã đóng góp dẫn tới tình trạng đơn vị kinh tế mất dần tính chủ dộng, sáng tạo, mất động lực lợi ích, sản xuất kinh doanh kém hiệu quả ; nhưng không ai chịu trách nhiệm, không có cơ chế ràng buộc trách nhiệm nên người lao động thờ ơ với kết quả hoạt động của mình, sinh ra tiêu cực trong phân phối, chỉ có một số người có quyền định đoạt phân phối vật tư, vật phẩm, đặc quyền đặc lợi. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất tức là quan hệ sản xuất phải tạo điều kiện cho người lao động sáng tạo thì chúng ta lại coi nhẹ lợi ích cá nhân người lao động, dẫn đến triệt tiêu động lực bên trong của người lao động . Trong khi lực lượng sản xuất còn yếu kém thì quan hệ sản xuất lại quá phát triển, phát triển với mức độ cao đã để lại rất nhiều hậu quả. Đối với thực tế lịch sử nước ta, để thay đổi bộ mặt đất nước, từ nghèo nàn lạc hậu, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, cần phải xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp và chuyển nhanh sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi những lý do trên, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất rất cần thiết được coi trọng và vận dụng vào xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, nhất là khi nước ta đang trong thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa, có những bước chuyển biến quan trọng về mọi mặt : kinh tế, văn hóa, xã hội, đời sống, 2. Sự thay đổi của đất nước ta nhờ vận dụng quy luật vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nắm vững được quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất giúp cho Đảng ta vận dụng có hiệu quả quy luật trong con đường đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển. Quá trình đổi mới đã đặt ra nhiều lý luận quan trọng , đồng thời cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn nhờ áp dụng quy luật trên vào việc giải quyết những vấn đề lý luận đó một cách đúng đắn. Từ năm 1986 đến nay, đối với nước ta, đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường hợp với xu thế thời đại và điều kiện cụ thể của quốc gia. Tuy nhiên, chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nên phải trải qua thời ký quá độ. Đi lên xã hội chủ nghĩa, nước ta thực hiện chính sách từng bước đổi mới đất nước, đưa đất nước phát triển tiến lên mục tiêu đã đề ra. Tại đại hội lần thứ VI (1986), Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm với nội dung cơ bản là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó đến nay, đất nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc, thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và luôn đạt mức tăng trưởng cao. Những thành tựu đó khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới nói chung và chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nói riêng. Điểm yếu nổi lên là kinh tế của chúng ta còn quá nghèo nàn, lạc hậu vì vậy khâu trọng yếu mà nước ta phải thực hiện đó là phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng cơ sơ vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên cũng không phải đạt được kết quả ngay tức thì, mặc dù lực lượng sản xuất của nước ta không ngừng phát triển, trình độ của người lao động không ngừng được nâng lên, công tác giáo dục và đào tạo được chú trọng nhưng chưa đúng yêu cầu của thời ký đổi mới, không có tính cạnh tranh. Tư liệu sản xuất tuy phát triển song vẫn còn thấp kém, lạc hậu, không đều, sở hữu tư liệu sản xuất dẫn đến tình trạng phân hoá giàu nghèo. Nhưng Đảng và Nhà nước ta nhạy bén trước thời cuộc khắc phục tình hình, với việc đưa ra quan hệ sản xuất bằng con đường đúng đắn với cơ chế tồn tại nhiều thành phần kinh tế do đố tồn tại cùng một lúc nhiều quan hệ sản xuất khác nhau tương ứng với trình độ phát triển cao, thấp khác nhau, với lực lượng sản xuất thấp kém không đồng đều nước ta sử dụng quan hệ sản xuất không đồng đều, khắc phục tình trạng lực lượng sản xuất thấp kem lại sử dụng quy luật quan hệ sản xuất quá cao hoặc không phù hợp, điều này hợp quy luật bước đầu vận dụng đúng quy luật. Hiện nay, Đảng ta đang lãnh đạo đất nước thực hiện công cuộc công nghiệp hoá – hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Muốn làm tốt trọng trách này, thì phải tạo điều kiện cho bản thân nền kinh tế, trong đó thành phần kinh tế tư nhân là một thành phần rất năng động, hiệu quả. Trong suốt quá trình đổi mới 25 năm qua, Đảng ta không ngừng tìm tòi, phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trên tổng thể và đối với từng yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất. Đó là một quá trình vận động, phát triển liên tục về nhận thức thông qua lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu to lớn: + 1986 -1990: GDP tăng 4,4%/năm. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống KTXH và giải phóng sức sản xuất. + 2005 – 2010: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt kết quả cao. Trong 5 năm, tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỉ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng kí mới và tăng thêm đạt 150 tỉ USD, gấp 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001 –
File đính kèm:
bai_thuyet_trinh_quy_luat_quan_he_san_xuat_phu_hop_voi_trinh.docx