Tiểu luận môn học Kinh tế học lao động - Đề bài: Phân tích thực trạng việc làm và thất nghiệp tại Việt Nam hiện nay
Thị trường lao động là một trong những kênh chính mà quá trình hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới ảnh hưởng trực tiếp ngay đến nước ta. Sở dĩ như vậy vì 3 lý do: Thứ nhất, những thay đổi về việc làm là kết quả của thay đổi cơ cấu kinh tế; Thứ hai, môi trường kinh doanh phụ thuộc chủ yếu vào khả năng tạo việc làm và tăng năng suất của thị trường lao động; Thứ ba, lao động gần như là tài sản duy nhất mà người nghèo đang sở hữu.
Trong thời kỳ Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa hiện nay, nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định đến sự phát triển đất nước và sự sống còn của doanh nghiệp.
Lực lượng lao động là một bộ phận của dân số bao gồm những người trong độ tuổi lao động và những người ngoài độ tuổi lao động nhưng thực tế có khả năng lao động. Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay thì chúng ta tiếp tục có các cơ hội và gặp nhiều thách thức đối với sự phát triển thị trường lao động. Quá trình phân công sản xuất trong chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu sẽ kéo theo sự tái phân bố lao động và sự phụ thuộc lẫn nhau của thị trường lao động các quốc gia. Các công ty xuyên quốc gia không chỉ là tác nhân giúp các nước và lãnh thổ kinh tế tham gia sâu hơn vào mạng sản xuất toàn cầu mà còn có vai trò là người sử dụng lao động đa quốc gia, sẽ đặt ra những tiêu chuẩn mới, thách thức các khuôn khổ tiêu chuẩn và pháp luật lao động quốc gia. Cạnh tranh quốc tế trong phân công lao động sẽ thúc đẩy cạnh tranh và phân công lao động trong nước, năng lực cạnh tranh quốc gia sẽ phụ thuộc vào mức độ thành công của tái cơ cấu kinh tế của Việt Nam. Trong khi đó bối cảnh trong nước cũng có nhiều thuận lợi đan xen với những khó khăn mới. Đó là nền kinh tế tiếp tục mở cửa tạo điều kiện phát huy tốt hơn những thế mạnh trong nước nhưng cần khắc phục những hạn chế kìm hãm nhu cầu nội địa và cho xuất khẩu, các tiêu chuẩn hàng hóa sản xuất và tiêu chuẩn lao động trở thành các ràng buộc cạnh tranh, kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ cao là điều kiện cơ bản để giải quyết việc làm nhưng yêu cầu phải bền vững, thể chế thị trường lao động tiếp tục cần hoàn thiện để phù hợp với thông lệ quốc tế.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận môn học Kinh tế học lao động - Đề bài: Phân tích thực trạng việc làm và thất nghiệp tại Việt Nam hiện nay

Tiểu luận môn học: Kinh tế học lao động Đề bài: Phân tích thực trạng việc làm và thất nghiệp tại Việt Nam hiện nay. Mở đầu Thị trường lao động là một trong những kênh chính mà quá trình hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới ảnh hưởng trực tiếp ngay đến nước ta. Sở dĩ như vậy vì 3 lý do: Thứ nhất, những thay đổi về việc làm là kết quả của thay đổi cơ cấu kinh tế; Thứ hai, môi trường kinh doanh phụ thuộc chủ yếu vào khả năng tạo việc làm và tăng năng suất của thị trường lao động; Thứ ba, lao động gần như là tài sản duy nhất mà người nghèo đang sở hữu. Trong thời kỳ Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa hiện nay, nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định đến sự phát triển đất nước và sự sống còn của doanh nghiệp. Lực lượng lao động là một bộ phận của dân số bao gồm những người trong độ tuổi lao động và những người ngoài độ tuổi lao động nhưng thực tế có khả năng lao động. Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay thì chúng ta tiếp tục có các cơ hội và gặp nhiều thách thức đối với sự phát triển thị trường lao động. Quá trình phân công sản xuất trong chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu sẽ kéo theo sự tái phân bố lao động và sự phụ thuộc lẫn nhau của thị trường lao động các quốc gia. Các công ty xuyên quốc gia không chỉ là tác nhân giúp các nước và lãnh thổ kinh tế tham gia sâu hơn vào mạng sản xuất toàn cầu mà còn có vai trò là người sử dụng lao động đa quốc gia, sẽ đặt ra những tiêu chuẩn mới, thách thức các khuôn khổ tiêu chuẩn và pháp luật lao động quốc gia. Cạnh tranh quốc tế trong phân công lao động sẽ thúc đẩy cạnh tranh và phân công lao động trong nước, năng lực cạnh tranh quốc gia sẽ phụ thuộc vào mức độ thành công của tái cơ cấu kinh tế của Việt Nam. Trong khi đó bối cảnh trong nước cũng có nhiều thuận lợi đan xen với những khó khăn mới. Đó là nền kinh tế tiếp tục mở cửa tạo điều kiện phát huy tốt hơn những thế mạnh trong nước nhưng cần khắc phục những hạn chế kìm hãm nhu cầu nội địa và cho xuất khẩu, các tiêu chuẩn hàng hóa sản xuất và tiêu chuẩn lao động trở thành các ràng buộc cạnh tranh, kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ cao là điều kiện cơ bản Học viên: Dương Thị Thu Hà – K32G Page 1 Tiểu luận môn học: Kinh tế học lao động để giải quyết việc làm nhưng yêu cầu phải bền vững, thể chế thị trường lao động tiếp tục cần hoàn thiện để phù hợp với thông lệ quốc tế. PHẦN 1 Cơ sở lý luận về việc làm và thất nghiệp 1. Việc làm 1.1.Khái niệm việc làm Việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sàn xuất, công nghệ...) để sử đụng sức lao động đó . Trạng thái phù hợp được thể hiện thông qua quan hệ tỷ lệ giữa chi phí ban đầu (C) như nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu... và chi phí về sức lao động (V). Quan hệ tỷ lệ biểu hiện sự kết hợp giữa C và V phải phù hợp với trình độ công nghệ của sản xuất. Khi trình độ kỹ thuật công nghệ thay đổi thì sự kết hợp đó cũng thay đổi theo hướng công nghệ sử dụng nhiều vốn hoặc công nghệ sử dụng nhiều sức lao động. Chẳng hạn, trong điều kiện kỹ thuật thủ công một đơn vị chi phí ban đầu về tư liệu sản xuất có thể kết hợp với nhiều đơn vị sức lao động. Còn trong điều kiện tự động hoá, sản xuất theo dây chuyền hiện đại thì chi phí về vốn, thiết bị, công nghệ rất cao nhưng chỉ đòi hỏi sức lao động với tỷ lệ rất thấp (công nghệ sử dụng nhiều vốn). Do đó, tuỳ từng điều kiện cụ thể mà lựa chọn phương án phù hợp để có thể tạo việc làm cho người lao động. Trong điều kiện của tiến bộ khoa học kỹ thuật và sự áp dụng các thành tựu của khoa học công nghệ vào sản xuất mạnh mẽ như hiện nay, quan hệ tỷ lệ giữa C và V thường xuyên biến đổi theo các dạng khác nhau: - Sự phù hợp giữa chi phí ban đầu và sức lao động có nghĩa là mọi người có khả năng lao động, có nhu cầu làm việc đều có việc làm. Nếu chỉ xem xét trên phương diện sử dụng hết thời gian lao động khi có việc làm thì việc làm đó là việc làm đầy đủ; còn trong trường hợp sự phù hợp của mối quan hệ này cho phép sử Học viên: Dương Thị Thu Hà – K32G Page 2 Tiểu luận môn học: Kinh tế học lao động dụng triệt để tiềm năng về vốn, tư liệu sản xuất và sức lao động ta có khái niệm việc làm hợp lý. - Sự không phù hợp giữa chi phí ban đầu và sức lao động sẽ dẫn đến thiếu nguồn nhân lực hoặc thừa nguồn nhân lực tức thiếu việc làm và thất nghiệp. Điều 13, chương II “Việc làm” của Bộ luật Lao động của nước CHXHCN Việt Nam có nêu: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm". Theo đó, một hoạt động được coi là việc làm cần thoả mãn hai điều kiện: Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và cho các thành viên trong gia đình. Điều này chỉ rõ tính hữu ích và nhấn mạnh tiêu thức tạo ra thu nhập của việc làm. Hai là, hoạt động đó không bị pháp luật cấm. Điều này chỉ rõ tính pháp lý của việc làm. Hoạt động có ích không giới hạn về phạm vi và ngành nghề và hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của thị trường lao động ở Việt Nam trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Người lao động hợp pháp ngày nay được đặt vào vị trí chủ thể, có quyền tự do tìm kiếm việc làm, hoặc tạo ra việc làm cho người khác trong khuôn khổ pháp luật, không còn bị phân biệt đối xử cho dù làm việc trong hay ngoài khu vực nhà nước. Điều đó đã khẳng định tính chất pháp lý trong hoạt động của hàng triệu người lao động trong các khu vực kinh tế, kể cả khu vực kinh tế ngoài nhà nước và khu vực kinh tế phi chính thức vốn là những khu vực bị phân biệt đối xử nặng nề trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung. Hai tiêu thức trên có mối quan hệ chặt chẽ nhau, là điều kiện cần và đủ của một hoạt động được thừa nhận là việc làm. Nếu hoạt động chỉ tạo ra thu nhập nhưng vi phạm luật pháp như trộm cắp, buôn bán hêrôin, mại dâm... không thể được công nhận là việc làm. Mặt khác, một hoạt động dù là hợp pháp, có ích nhưng không tạo ra thu nhập cũng không được thừa nhận là việc làm, chẳng hạn, nội trợ hàng ngày của phụ nữ cho chính gia đình mình như: đi chợ, nấu cơm, rửa bát, dọn dẹp, lau nhà, giặt quần áo... Nhưng nếu người phụ nữ đó cũng thực hiện các công việc nội Học viên: Dương Thị Thu Hà – K32G Page 3 Tiểu luận môn học: Kinh tế học lao động trợ tương tự cho gia đình người khác được trả tiền công thì hoạt động của họ được thừa nhận là việc làm. Tuy nhiên, khái niệm trên có những hạn chế sau: Trước hết, tính hợp pháp của một hoạt động được thừa nhận là việc làm tuỳ thuộc vào luật pháp và thể chế của mỗi quốc gia và cũng có thể thay đổi theo từng thời kỳ. Có hoạt động được thừa nhận là việc làm ở nước này nhưng lại không được thừa nhận ở nước khác. Ví dụ: mại dâm của phụ nữ được thừa nhận là việc làm ở Thái Lan, Philippines vì được luật pháp nước đó bảo hộ và quản lý, được Bộ Y tế và các cơ quan quản lý sức khoẻ của những nước này theo dõi, kiểm tra sức khoẻ định kỳ và cấp giấy phép hành nghề. Họ cho rằng, hoạt động này đáp ứng nhu cầu tình dục của một nhóm người trong xã hội và nó đem lại thu nhập cho lao động nữ. Nhưng mại dâm của phụ nữ ở Việt Nam được coi là hoạt động phi pháp hay vi phạm pháp luật và không được thừa nhận là việc làm. Thứ hai, không phải mọi hoạt động có ích và cần thiết cho gia đình, cho xã hội đều tạo ra thu nhập mặc dù nó góp phần giảm chi tiêu cho gia đình thay vì thuê người làm công (ví dụ, công việc nội trợ của chính người trong gia đình). Tổ chức Lao động Quốc tể (ILO) cũng đưa ra khái niệm: Việc làm là những hoạt động lao động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật. Từ các quan niệm trên có thể rút ra khái niệm việc làm như sau: Việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ...) để sử dụng sức lao động đó. Dựa vào khái niệm này để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm và các mô hình tạo việc làm. 1.2.Sự cần thiết tạo việc làm cho người lao động Tạo việc làm cho người lao động là cần thiết nhằm giảm thất nghiệp. Công nghiệp hoá là xu hướng tất yếu đối với các quốc gia muốn nhanh chóng thoát khỏi tình trạng kinh tế nông nghiệp lạc hậu, năng suất thấp, mức sống thấp sang nền kinh tế công nghiệp, năng suất cao. Trong quá trình phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là tất yếu. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ kéo theo chuyển dịch cơ cấu Học viên: Dương Thị Thu Hà – K32G Page 4 Tiểu luận môn học: Kinh tế học lao động lao động. Vì vậy, có nghề mới, hoạt động sản xuất mới ra đời, trong khi một số nghề cũ, hoạt động sản xuất cũ bị mất đi, thất nghiệp phát sinh. Tạo việc làm cho người lao động đáp ứng quyền lợi của người lao động, quyền có việc làm và nghĩa vụ phải làm việc của người trong tuổi lao động, có khả năng lao động như Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã ghi nhận. Có việc làm đồng nghĩa với có thu nhập, nâng cao vị thế của người lao động trong gia đình và ngoài xã hội. Ngoài ra, tạo việc làm góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, hạn chế các tiêu cực xã hội, góp phần xoá đói giảm nghèo và ổn định xã hội. Nếu không có việc làm sẽ không có thu nhập và không có điều kiện thoả mãn các nhu cầu chính đáng về vật chất và tinh thần của người lao động, chất lượng cuộc sống giảm sút. Vì vậy, tạo việc làm cho người lao động là biện pháp trung tâm của mọi quốc gia, nó cho phép không chỉ giải quyết các vấn đề kinh tế mà cả các vấn đề xã hội. Có việc làm sẽ tạo điều kiện cho việc xoá đói giảm nghèo, có việc làm sẽ làm giảm các tệ nạn xã hội. 1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động Tạo việc làm cho người lao động phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố khác nhau. Sau đây đề cập đến một số nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động. a. Điều kiện tự nhiên, vốn và công nghệ Nhu cầu có việc làm bắt nguồn từ đòi hỏi của sản xuất, phát triển kinh tế. Sản xuất càng phát triển, quy mô ngày càng mở rộng thì nhu cầu tạo việc làm càng lớn. Muốn mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế phải dựa vào những tiền đề vật chất. Tiền đề vật chất là nhân tố tiên quyết ảnh hưởng đến tạo việc làm. Điều kiện tự nhiên của một quốc gia, một vùng, một thành phố/tỉnh được hình thành một cách tự nhiên từ hàng nghìn hàng vạn năm trước đây, ngoài ý muốn chủ quan của con người, như độ màu mỡ tự nhiên của đất đai, diện tích canh tác bình quân đầu người, điều kiện khí hậu, thuỷ văn thuận lợi hoặc bất lợi cho phát triển các loại cây trồng và con gia súc, trữ lượng của hầm mỏ; tài nguyên rừng và biển... Học viên: Dương Thị Thu Hà – K32G Page 5 Tiểu luận môn học: Kinh tế học lao động Trên thế giới có nước rất giàu tài nguyên thiên nhiên, đất đai rộng lớn, thuận lọi cho phát triển các ngành sản xuất, thu hút lao động, như Liên Xô cũ; các nước có nhiều dầu lửa như Ả rập. Bên cạnh đó, có những nước (như Nhật Bản) lại rất nghèo tài nguyên, đất đai chật hẹp, thiên nhiên không ưu đãi, thường xuyên xảy ra các sự cố bất lợi cho sản xuất, cho cuộc sống cùa con người như núi lửa; động đất; bão lụt... Do đó, điều quan trọng là làm thế nào để các điều kiện tự nhiên sẵn có của mỗi vùng, mỗi quốc gia, mỗi thành phố đều trở thành các nguyên liệu, nhiên liệu... phục vụ cho sản xuất và đời sống, như dầu lửa phải được khai thác từ đáy biển, quặng vàng và các loại khoáng sản quý hiếm phải được lấy ra khỏi lòng đất và qua các công nghệ sàng lọc, tinh chế mới có ích cho cuộc sống. Để biến các điều kiện tự nhiên sẵn có của mỗi quốc gia thành có ích thì phải có vốn để mua công nghệ kỳ thuật hiện đại, dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất, chế biến. Trong thực tế có những nước rất nghèo tài nguyên thiên nhiên như Nhật Bản nhưng có công nghệ hiện đại, máy móc tiên tiến, có phương pháp quản lý hiện đại đã tạo ra được nhiều việc làm và việc làm có chất lượng cao, nâng cao đời sống của nhân dân. Đặc biệt, yếu tố sức lao động liên quan đến thể lực, trí lực, kinh nghiệm quản lý và sản xuất, cơ chế, chính sách của mỗi quốc gia, của chính quyền địa phương và những quy định cụ thể của chủ sản xuất kinh doanh là những nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động. b. Chất lượng sức lao động Cơ chế tạo việc làm đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ của 3 phía: người chủ sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước. Do đó, nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến tạo việc làm cho người lao động là sức lao động trên hai phương diện số lượng và chất lượng. Nhân tố này bao gồm những đòi hỏi mà người lao động cần phải có để đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng lao động. Trong bối cảnh của một nước đang phát triển như Việt Nam, vấn đề quan trọng nhất là chất lượng sức lao động. Do đó, người lao động muốn kiếm được việc làm và nhất là việc làm có thu nhập cao phù hợp với năng lực, trình độ, cần phải có các Học viên: Dương Thị Thu Hà – K32G Page 6 Tiểu luận môn học: Kinh tế học lao động thông tin thị trường lao động, biết các cơ hội việc làm và đặc biệt phải đầu tư cho sức lao động của mình, tức đầu tư vào vốn con người cả về thể lực và trí lực. Do đó, thông tin thị trường lao động giúp cho người lao động lựa chọn được ngành nghề mà thị trường lao động đang cần và sẽ cần trong tương lai để thực hiện đầu tư vào vốn con người có hiệu quả, chủ động tìm kiếm việc làm và nắm bắt các cơ hội việc làm. Mỗi người lao động cần tuỳ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mình, tranh thủ các nguồn tài trợ (từ gia đình và các tổ chức xã hội) để tham gia giáo dục, đào tạo, phát triển sức lao động nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm của mình. Đó cũng chính là điều kiện cần thiết để duy trì việc làm, tạo cơ hội việc làm có thu nhập và nâng cao vị thế của bản thân mỗi người lao động. c. Cơ chế, chính sách kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến tạo việc làm Cơ chế chính sách của chính phủ quốc gia, của chính quyền địa phương, các quy định của chủ doanh nghiệp là nhóm nhân tố rất quan trọng tạo việc làm cho người lao động. Trong mỗi thời kỳ khác nhau, Chính phủ quốc gia sẽ đề ra những chính sách cụ thể, tạo hành lang pháp lý cho phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, mở rộng hoặc thu hẹp việc làm của lĩnh vực này, ngành này hay lĩnh vực khác, ngành khác, tạo môi trường để người chủ sử dụng lao động và người lao động gặp nhau. Chính sách và cơ chế của Nhà nước cũng trực tiếp hoặc gián tiếp khuyến khích các chủ sử dụng lao động thu hút lao động đặc thù hay sa thải họ. Có thể nói rằng nhóm nhân tố này rất đa dạng, như các chính sách kinh tế vĩ mô, vi mô của Nhà nước chung hoặc theo ngành, lĩnh vực, vùng... và có ảnh hưởng lớn đến tạo việc làm cho người lao động. Chẳng hạn, chính sách đổi mới kinh tế trên tầm vĩ mô, chuyển từ kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần... đã làm thay đổi cơ cấu kinh tế. Do đó, cơ cấu lao động theo ngành kinh tế, theo lĩnh vực và theo vùng thay đổi không chỉ về số lượng mà đặc biệt là về chất lượng lao động. Với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, bên cạnh kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể thì thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, thành phần kinh tế Học viên: Dương Thị Thu Hà – K32G Page 7 Tiểu luận môn học: Kinh tế học lao động cá thể, tư bản tư nhân cũng được khuyến khích phát triển đúng hướng. Kết hợp và đan xen giữa sản xuất kinh doanh quy mô lớn, với quy mô vừa, nhỏ và siêu nhỏ cùng phát triển, tạo động lực phát triển nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước và nhu cầu xuất khẩu tạo vốn cho tích luỹ mở rộng sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân, tăng cường mối quan hệ hợp tác quốc tế giữa Việt Nam với các nước trên thế giới. Bộ luật Lao động của nước CHXHCN Việt Nam có hiệu lực từ 1/1/1995 với 198 điều đã tạo thành nền tảng cho khung khổ pháp lý của thị trường lao động ở nước ta. Bộ luật Lao động được coi là công cụ pháp luật quan trọng nhất để điều chỉnh quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động, đặt nền tảng cho việc hình thành thị trường lao động ở Việt Nam bằng việc công nhận "Người lao động có quyền làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và bất kỳ chỗ nào mà pháp luật không cấm." Điều 13 còn ghi rõ: "Giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội". Tóm lại, cơ chế chính sách của chính phủ quốc gia, chính quyền địa phương và việc áp dụng nó vào thực tiễn có tác động mạnh mẽ đến cầu lao động của doanh nghiệp, của thị trường lao động. Đến lượt nó trực tiếp tác động đến thái độ, hành vi, cách ứng xử của chủ doanh nghiệp trong thu hút lao động. 2. Thất nghiệp 2.1. Khái niệm thất nghiệp a. Thất nghiệp là sự mất việc làm hay là sự tách rời sức lao động khỏi tư liệu sản xuất, nó gắn liền với người có khả năng lao động nhưng không được sử đụng có hiệu quả. Thất nghiệp và thiếu việc làm là vấn đề bức xúc cho các nước đang phát triển. Theo thống kê, thất nghiệp công khai ở thành thị một số nước nghèo chiếm từ 10 đến 20% lực lượng lao động; kết hợp với số thiếu việc làm bán thất nghiệp, tỷ lệ này đạt mức 29% đối với tất cả các nước đang phát triển; trong đó, riêng châu Phi là 38%. Học viên: Dương Thị Thu Hà – K32G Page 8 Tiểu luận môn học: Kinh tế học lao động b.Người thất nghiệp Có rất nhiều quan điểm khác nhau về người thất nghiệp. Người thất nghiệp gồm những người trong khoảng thời gian xác định của cuộc điều tra không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm và có nhu cầu được làm việc. Tiêu thức để xác định người thất nghiệp là đang không có việc làm, tích cực tìm kiếm việc làm và có khả năng lao động và có nhu cầu làm việc. Theo P.A.Samuenlson và W.D.Nordhaus, người thất nghiệp là người không có việc làm được trả công, và đang có những cố gắng cụ thể để đi tìm một công việc trong 4 tuần qua, hoặc bị cho thôi việc nhưng đang chờ được gọi làm việc trở lại, hoặc đang chờ đợi đi làm trong tháng tới. Ở Việt Nam, để thống nhất trong điều tra lao động - việc làm được tiến hành hàng năm từ 1996 đến nay, Bộ Lao động TBXH quy định: “Người thất nghiệp là những người đủ từ 15 tuổi trở lên, có nhu cầu làm việc nhưng không có việc làm trong tuần lễ điều tra, tính đến thời điểm điều tra có đi tìm việc trong 4 tuần lễ qua hoặc không đi tìm việc trong 4 tuần lễ qua với các lý do chờ việc, nghỉ thời vụ, không biết tìm việc ở đâụ,... hoặc trong tuần lễ trước điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 8 giờ, muốn làm thêm nhưng không tìm được việc" 2.2. Các chỉ tiêu đo lường thất nghiệp a. Chỉ tiêu tuyệt đối Thông qua điều tra, người ta có thể thu thập được số liệu về số lượng người thất nghiệp b. Chỉ tiêu tương đối Chỉ tiêu được sử dụng là tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm Soá ngöôøi thaát nghieäp Tyû leäthaát nghieäp= 100 Löïclöôïng lao ñoäng Soá ngöôøi thieáu vieäc laøm Tyû leäthieáu vieäc laøm = 100 Löïclöôïng lao ñoäng Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm được sử dụng phản ánh hiện tượng thất nghiệp, nhưng do có sự đánh giá khác nhau về người thất nghiệp và mục Học viên: Dương Thị Thu Hà – K32G Page 9 Tiểu luận môn học: Kinh tế học lao động đích nghiên cứu ở mỗi quốc gia, nên các tỷ lệ này được đo lường không giống nhau. Ngoài ra, có thể tính tỷ lệ thất nghiệp theo các đặc trưng khác nhau, như: - Tỷ lệ thất nghiệp theo giới tính: được tính bằng số người thất nghiệp nam hoặc nữ giới trên tổng dân số nam hoặc nữ hoạt động kinh tế. - Tỷ lệ thất nghiệp theo nhóm tuổi: được tính bằng số người thất nghiệp ở độ tuổi x hoặc nhóm tuổi (x, x+n) trên tổng dân số hoạt động kinh tế của tuổi hoặc nhóm tuổi đó. - Tỷ lệ thất nghiệp theo trình độ chuyên môn kỹ thuật: được tính bằng số người thất nghiệp của một trình độ chuyên môn kỹ thuật trên tổng dân số hoạt động kinh tế của trình độ chuyên môn kỹ thuật đó. - Tỷ lệ thất nghiệp theo vùng: được tính bằng số người thất nghiệp của một vùng trên tổng dân số hoạt động kinh tế của vùng đó. 2.3. Các hình thức thất nghiệp Để hiểu rõ tầm quan trọng của vấn đề thất nghiệp, ngoài số người thất nghiệp công khai ra phải tính đến một số lớn những người khác có vẻ là hoạt động tích cực, nhưng xét theo ý nghĩa kinh tế lại có hiệu suất sử dụng thấp. Edgar O. Edvvard đã phân biệt năm hình thức khiếm dụng lao động (hay không toàn dụng lao động) như sau: - Thất nghiệp chính thức (hay công khai). Hình thức thất nghiệp này gồm cả thất nghiệp tự nguyện và không tự nguyện. Thất nghiệp tự nguyện là hiện tượng những người không chịu làm một số công việc mà họ có đủ khả năng làm, chúng có ý nghĩa như một phương kế sinh nhai hơn là một công việc. - Bán thất nghiệp, bao gồm những người làm việc ít hơn mức mà mình mong muốn (hàng ngày, hàng tuần hoặc theo từng mùa); có công ăn việc làm chỉ là hình thức. - Thất nghiệp trá hình: loại hình này liên quan đến những người dành toàn bộ thời gian của mình cho một tổ chức nào đó nhưng công việc họ làm thực ra không cần nhiều thời gian như vậy. Nếu như những người có việc làm công khai chia nhau Học viên: Dương Thị Thu Hà – K32G Page 10
File đính kèm:
tieu_luan_mon_hoc_kinh_te_hoc_lao_dong_de_bai_phan_tich_thuc.doc