Tiểu luận môn học Kinh tế học lao động - Đề bài: Phân tích thực trạng việc làm và thất nghiệp tại Việt Nam hiện nay

Thị trường lao động là một trong những kênh chính mà quá trình hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới ảnh hưởng trực tiếp ngay đến nước ta. Sở dĩ như vậy vì 3 lý do: Thứ nhất, những thay đổi về việc làm là kết quả của thay đổi cơ cấu kinh tế; Thứ hai, môi trường kinh doanh phụ thuộc chủ yếu vào khả năng tạo việc làm và tăng năng suất của thị trường lao động; Thứ ba, lao động gần như là tài sản duy nhất mà người nghèo đang sở hữu.

Trong thời kỳ Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa hiện nay, nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định đến sự phát triển đất nước và sự sống còn của doanh nghiệp.

Lực lượng lao động là một bộ phận của dân số bao gồm những người trong độ tuổi lao động và những người ngoài độ tuổi lao động nhưng thực tế có khả năng lao động. Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay thì chúng ta tiếp tục có các cơ hội và gặp nhiều thách thức đối với sự phát triển thị trường lao động. Quá trình phân công sản xuất trong chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu sẽ kéo theo sự tái phân bố lao động và sự phụ thuộc lẫn nhau của thị trường lao động các quốc gia. Các công ty xuyên quốc gia không chỉ là tác nhân giúp các nước và lãnh thổ kinh tế tham gia sâu hơn vào mạng sản xuất toàn cầu mà còn có vai trò là người sử dụng lao động đa quốc gia, sẽ đặt ra những tiêu chuẩn mới, thách thức các khuôn khổ tiêu chuẩn và pháp luật lao động quốc gia. Cạnh tranh quốc tế trong phân công lao động sẽ thúc đẩy cạnh tranh và phân công lao động trong nước, năng lực cạnh tranh quốc gia sẽ phụ thuộc vào mức độ thành công của tái cơ cấu kinh tế của Việt Nam. Trong khi đó bối cảnh trong nước cũng có nhiều thuận lợi đan xen với những khó khăn mới. Đó là nền kinh tế tiếp tục mở cửa tạo điều kiện phát huy tốt hơn những thế mạnh trong nước nhưng cần khắc phục những hạn chế kìm hãm nhu cầu nội địa và cho xuất khẩu, các tiêu chuẩn hàng hóa sản xuất và tiêu chuẩn lao động trở thành các ràng buộc cạnh tranh, kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ cao là điều kiện cơ bản để giải quyết việc làm nhưng yêu cầu phải bền vững, thể chế thị trường lao động tiếp tục cần hoàn thiện để phù hợp với thông lệ quốc tế.

doc 27 trang Minh Tâm 31/03/2025 400
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tiểu luận môn học Kinh tế học lao động - Đề bài: Phân tích thực trạng việc làm và thất nghiệp tại Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận môn học Kinh tế học lao động - Đề bài: Phân tích thực trạng việc làm và thất nghiệp tại Việt Nam hiện nay

Tiểu luận môn học Kinh tế học lao động - Đề bài: Phân tích thực trạng việc làm và thất nghiệp tại Việt Nam hiện nay
 Tiểu luận môn học: Kinh tế học lao động
 Đề bài: Phân tích thực trạng việc làm và thất nghiệp tại Việt Nam hiện 
nay.
 Mở đầu
 Thị trường lao động là một trong những kênh chính mà quá trình hội nhập 
sâu hơn vào nền kinh tế thế giới ảnh hưởng trực tiếp ngay đến nước ta. Sở dĩ như 
vậy vì 3 lý do: Thứ nhất, những thay đổi về việc làm là kết quả của thay đổi cơ cấu 
kinh tế; Thứ hai, môi trường kinh doanh phụ thuộc chủ yếu vào khả năng tạo việc 
làm và tăng năng suất của thị trường lao động; Thứ ba, lao động gần như là tài sản 
duy nhất mà người nghèo đang sở hữu.
 Trong thời kỳ Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa hiện nay, nguồn nhân lực là 
yếu tố quan trọng quyết định đến sự phát triển đất nước và sự sống còn của doanh 
nghiệp.
 Lực lượng lao động là một bộ phận của dân số bao gồm những người trong 
độ tuổi lao động và những người ngoài độ tuổi lao động nhưng thực tế có khả năng 
lao động. Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay thì chúng ta tiếp tục có các cơ hội 
và gặp nhiều thách thức đối với sự phát triển thị trường lao động. Quá trình phân 
công sản xuất trong chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu sẽ kéo theo sự tái phân bố lao 
động và sự phụ thuộc lẫn nhau của thị trường lao động các quốc gia. Các công ty 
xuyên quốc gia không chỉ là tác nhân giúp các nước và lãnh thổ kinh tế tham gia sâu 
hơn vào mạng sản xuất toàn cầu mà còn có vai trò là người sử dụng lao động đa 
quốc gia, sẽ đặt ra những tiêu chuẩn mới, thách thức các khuôn khổ tiêu chuẩn và 
pháp luật lao động quốc gia. Cạnh tranh quốc tế trong phân công lao động sẽ thúc 
đẩy cạnh tranh và phân công lao động trong nước, năng lực cạnh tranh quốc gia sẽ 
phụ thuộc vào mức độ thành công của tái cơ cấu kinh tế của Việt Nam. Trong khi 
đó bối cảnh trong nước cũng có nhiều thuận lợi đan xen với những khó khăn mới. 
Đó là nền kinh tế tiếp tục mở cửa tạo điều kiện phát huy tốt hơn những thế mạnh 
trong nước nhưng cần khắc phục những hạn chế kìm hãm nhu cầu nội địa và cho 
xuất khẩu, các tiêu chuẩn hàng hóa sản xuất và tiêu chuẩn lao động trở thành các 
ràng buộc cạnh tranh, kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ cao là điều kiện cơ bản 
Học viên: Dương Thị Thu Hà – K32G Page 1 Tiểu luận môn học: Kinh tế học lao động
để giải quyết việc làm nhưng yêu cầu phải bền vững, thể chế thị trường lao động 
tiếp tục cần hoàn thiện để phù hợp với thông lệ quốc tế.
 PHẦN 1
 Cơ sở lý luận về việc làm và thất nghiệp
1. Việc làm
1.1.Khái niệm việc làm
 Việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những 
điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sàn xuất, công nghệ...) để sử đụng sức lao động đó . 
Trạng thái phù hợp được thể hiện thông qua quan hệ tỷ lệ giữa chi phí ban đầu (C) 
như nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu... và chi phí về sức lao động (V). 
Quan hệ tỷ lệ biểu hiện sự kết hợp giữa C và V phải phù hợp với trình độ công nghệ 
của sản xuất. 
 Khi trình độ kỹ thuật công nghệ thay đổi thì sự kết hợp đó cũng thay đổi theo 
hướng công nghệ sử dụng nhiều vốn hoặc công nghệ sử dụng nhiều sức lao động. 
Chẳng hạn, trong điều kiện kỹ thuật thủ công một đơn vị chi phí ban đầu về tư liệu 
sản xuất có thể kết hợp với nhiều đơn vị sức lao động. Còn trong điều kiện tự động 
hoá, sản xuất theo dây chuyền hiện đại thì chi phí về vốn, thiết bị, công nghệ rất cao 
nhưng chỉ đòi hỏi sức lao động với tỷ lệ rất thấp (công nghệ sử dụng nhiều vốn). Do 
đó, tuỳ từng điều kiện cụ thể mà lựa chọn phương án phù hợp để có thể tạo việc làm 
cho người lao động.
 Trong điều kiện của tiến bộ khoa học kỹ thuật và sự áp dụng các thành tựu của 
khoa học công nghệ vào sản xuất mạnh mẽ như hiện nay, quan hệ tỷ lệ giữa C và V 
thường xuyên biến đổi theo các dạng khác nhau:
 - Sự phù hợp giữa chi phí ban đầu và sức lao động có nghĩa là mọi người có 
khả năng lao động, có nhu cầu làm việc đều có việc làm. Nếu chỉ xem xét trên 
phương diện sử dụng hết thời gian lao động khi có việc làm thì việc làm đó là việc 
làm đầy đủ; còn trong trường hợp sự phù hợp của mối quan hệ này cho phép sử 
Học viên: Dương Thị Thu Hà – K32G Page 2 Tiểu luận môn học: Kinh tế học lao động
dụng triệt để tiềm năng về vốn, tư liệu sản xuất và sức lao động ta có khái niệm việc 
làm hợp lý.
 - Sự không phù hợp giữa chi phí ban đầu và sức lao động sẽ dẫn đến thiếu 
nguồn nhân lực hoặc thừa nguồn nhân lực tức thiếu việc làm và thất nghiệp.
 Điều 13, chương II “Việc làm” của Bộ luật Lao động của nước CHXHCN Việt 
Nam có nêu: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật 
cấm đều được thừa nhận là việc làm". Theo đó, một hoạt động được coi là việc làm 
cần thoả mãn hai điều kiện:
 Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và cho 
các thành viên trong gia đình. Điều này chỉ rõ tính hữu ích và nhấn mạnh tiêu thức 
tạo ra thu nhập của việc làm.
 Hai là, hoạt động đó không bị pháp luật cấm. Điều này chỉ rõ tính pháp lý của 
việc làm. Hoạt động có ích không giới hạn về phạm vi và ngành nghề và hoàn toàn 
phù hợp với sự phát triển của thị trường lao động ở Việt Nam trong quá trình phát 
triển nền kinh tế nhiều thành phần. Người lao động hợp pháp ngày nay được đặt vào 
vị trí chủ thể, có quyền tự do tìm kiếm việc làm, hoặc tạo ra việc làm cho người 
khác trong khuôn khổ pháp luật, không còn bị phân biệt đối xử cho dù làm việc 
trong hay ngoài khu vực nhà nước. Điều đó đã khẳng định tính chất pháp lý trong 
hoạt động của hàng triệu người lao động trong các khu vực kinh tế, kể cả khu vực 
kinh tế ngoài nhà nước và khu vực kinh tế phi chính thức vốn là những khu vực bị 
phân biệt đối xử nặng nề trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung.
 Hai tiêu thức trên có mối quan hệ chặt chẽ nhau, là điều kiện cần và đủ của 
một hoạt động được thừa nhận là việc làm. Nếu hoạt động chỉ tạo ra thu nhập nhưng 
vi phạm luật pháp như trộm cắp, buôn bán hêrôin, mại dâm... không thể được công 
nhận là việc làm. Mặt khác, một hoạt động dù là hợp pháp, có ích nhưng không tạo 
ra thu nhập cũng không được thừa nhận là việc làm, chẳng hạn, nội trợ hàng ngày 
của phụ nữ cho chính gia đình mình như: đi chợ, nấu cơm, rửa bát, dọn dẹp, lau 
nhà, giặt quần áo... Nhưng nếu người phụ nữ đó cũng thực hiện các công việc nội 
Học viên: Dương Thị Thu Hà – K32G Page 3 Tiểu luận môn học: Kinh tế học lao động
trợ tương tự cho gia đình người khác được trả tiền công thì hoạt động của họ được 
thừa nhận là việc làm.
 Tuy nhiên, khái niệm trên có những hạn chế sau:
 Trước hết, tính hợp pháp của một hoạt động được thừa nhận là việc làm tuỳ 
thuộc vào luật pháp và thể chế của mỗi quốc gia và cũng có thể thay đổi theo từng 
thời kỳ. Có hoạt động được thừa nhận là việc làm ở nước này nhưng lại không được 
thừa nhận ở nước khác. Ví dụ: mại dâm của phụ nữ được thừa nhận là việc làm ở 
Thái Lan, Philippines vì được luật pháp nước đó bảo hộ và quản lý, được Bộ Y tế 
và các cơ quan quản lý sức khoẻ của những nước này theo dõi, kiểm tra sức khoẻ 
định kỳ và cấp giấy phép hành nghề. Họ cho rằng, hoạt động này đáp ứng nhu cầu 
tình dục của một nhóm người trong xã hội và nó đem lại thu nhập cho lao động nữ. 
Nhưng mại dâm của phụ nữ ở Việt Nam được coi là hoạt động phi pháp hay vi 
phạm pháp luật và không được thừa nhận là việc làm.
 Thứ hai, không phải mọi hoạt động có ích và cần thiết cho gia đình, cho xã hội 
đều tạo ra thu nhập mặc dù nó góp phần giảm chi tiêu cho gia đình thay vì thuê 
người làm công (ví dụ, công việc nội trợ của chính người trong gia đình).
 Tổ chức Lao động Quốc tể (ILO) cũng đưa ra khái niệm: Việc làm là những 
hoạt động lao động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật.
 Từ các quan niệm trên có thể rút ra khái niệm việc làm như sau: Việc làm là 
phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết 
(vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ...) để sử dụng sức lao động đó. Dựa vào khái niệm 
này để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm và các mô hình tạo việc 
làm.
1.2.Sự cần thiết tạo việc làm cho người lao động
 Tạo việc làm cho người lao động là cần thiết nhằm giảm thất nghiệp. Công 
nghiệp hoá là xu hướng tất yếu đối với các quốc gia muốn nhanh chóng thoát khỏi 
tình trạng kinh tế nông nghiệp lạc hậu, năng suất thấp, mức sống thấp sang nền kinh 
tế công nghiệp, năng suất cao. Trong quá trình phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ 
cấu kinh tế là tất yếu. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ kéo theo chuyển dịch cơ cấu 
Học viên: Dương Thị Thu Hà – K32G Page 4 Tiểu luận môn học: Kinh tế học lao động
lao động. Vì vậy, có nghề mới, hoạt động sản xuất mới ra đời, trong khi một số 
nghề cũ, hoạt động sản xuất cũ bị mất đi, thất nghiệp phát sinh.
 Tạo việc làm cho người lao động đáp ứng quyền lợi của người lao động, quyền 
có việc làm và nghĩa vụ phải làm việc của người trong tuổi lao động, có khả năng 
lao động như Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã ghi nhận. Có việc làm 
đồng nghĩa với có thu nhập, nâng cao vị thế của người lao động trong gia đình và 
ngoài xã hội. Ngoài ra, tạo việc làm góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, hạn 
chế các tiêu cực xã hội, góp phần xoá đói giảm nghèo và ổn định xã hội. 
 Nếu không có việc làm sẽ không có thu nhập và không có điều kiện thoả mãn 
các nhu cầu chính đáng về vật chất và tinh thần của người lao động, chất lượng 
cuộc sống giảm sút. Vì vậy, tạo việc làm cho người lao động là biện pháp trung tâm 
của mọi quốc gia, nó cho phép không chỉ giải quyết các vấn đề kinh tế mà cả các 
vấn đề xã hội. Có việc làm sẽ tạo điều kiện cho việc xoá đói giảm nghèo, có việc 
làm sẽ làm giảm các tệ nạn xã hội.
 1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động
 Tạo việc làm cho người lao động phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố khác nhau. 
Sau đây đề cập đến một số nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người 
lao động.
 a. Điều kiện tự nhiên, vốn và công nghệ
 Nhu cầu có việc làm bắt nguồn từ đòi hỏi của sản xuất, phát triển kinh tế. Sản 
xuất càng phát triển, quy mô ngày càng mở rộng thì nhu cầu tạo việc làm càng lớn. 
Muốn mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế phải dựa vào những tiền đề vật chất. Tiền 
đề vật chất là nhân tố tiên quyết ảnh hưởng đến tạo việc làm. Điều kiện tự nhiên của 
một quốc gia, một vùng, một thành phố/tỉnh được hình thành một cách tự nhiên từ 
hàng nghìn hàng vạn năm trước đây, ngoài ý muốn chủ quan của con người, như độ 
màu mỡ tự nhiên của đất đai, diện tích canh tác bình quân đầu người, điều kiện khí 
hậu, thuỷ văn thuận lợi hoặc bất lợi cho phát triển các loại cây trồng và con gia súc, 
trữ lượng của hầm mỏ; tài nguyên rừng và biển... 
Học viên: Dương Thị Thu Hà – K32G Page 5 Tiểu luận môn học: Kinh tế học lao động
 Trên thế giới có nước rất giàu tài nguyên thiên nhiên, đất đai rộng lớn, thuận 
lọi cho phát triển các ngành sản xuất, thu hút lao động, như Liên Xô cũ; các nước có 
nhiều dầu lửa như Ả rập. Bên cạnh đó, có những nước (như Nhật Bản) lại rất nghèo 
tài nguyên, đất đai chật hẹp, thiên nhiên không ưu đãi, thường xuyên xảy ra các sự 
cố bất lợi cho sản xuất, cho cuộc sống cùa con người như núi lửa; động đất; bão 
lụt... 
 Do đó, điều quan trọng là làm thế nào để các điều kiện tự nhiên sẵn có của mỗi 
vùng, mỗi quốc gia, mỗi thành phố đều trở thành các nguyên liệu, nhiên liệu... phục 
vụ cho sản xuất và đời sống, như dầu lửa phải được khai thác từ đáy biển, quặng 
vàng và các loại khoáng sản quý hiếm phải được lấy ra khỏi lòng đất và qua các 
công nghệ sàng lọc, tinh chế mới có ích cho cuộc sống. 
 Để biến các điều kiện tự nhiên sẵn có của mỗi quốc gia thành có ích thì phải có 
vốn để mua công nghệ kỳ thuật hiện đại, dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị 
phục vụ sản xuất, chế biến. Trong thực tế có những nước rất nghèo tài nguyên thiên 
nhiên như Nhật Bản nhưng có công nghệ hiện đại, máy móc tiên tiến, có phương 
pháp quản lý hiện đại đã tạo ra được nhiều việc làm và việc làm có chất lượng cao, 
nâng cao đời sống của nhân dân. Đặc biệt, yếu tố sức lao động liên quan đến thể 
lực, trí lực, kinh nghiệm quản lý và sản xuất, cơ chế, chính sách của mỗi quốc gia, 
của chính quyền địa phương và những quy định cụ thể của chủ sản xuất kinh doanh 
là những nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động.
 b. Chất lượng sức lao động
 Cơ chế tạo việc làm đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ của 3 phía: người chủ sử dụng 
lao động, người lao động và Nhà nước. Do đó, nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến 
tạo việc làm cho người lao động là sức lao động trên hai phương diện số lượng và 
chất lượng. Nhân tố này bao gồm những đòi hỏi mà người lao động cần phải có để 
đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng lao động. 
 Trong bối cảnh của một nước đang phát triển như Việt Nam, vấn đề quan trọng 
nhất là chất lượng sức lao động. Do đó, người lao động muốn kiếm được việc làm 
và nhất là việc làm có thu nhập cao phù hợp với năng lực, trình độ, cần phải có các 
Học viên: Dương Thị Thu Hà – K32G Page 6 Tiểu luận môn học: Kinh tế học lao động
thông tin thị trường lao động, biết các cơ hội việc làm và đặc biệt phải đầu tư cho 
sức lao động của mình, tức đầu tư vào vốn con người cả về thể lực và trí lực. 
 Do đó, thông tin thị trường lao động giúp cho người lao động lựa chọn được 
ngành nghề mà thị trường lao động đang cần và sẽ cần trong tương lai để thực hiện 
đầu tư vào vốn con người có hiệu quả, chủ động tìm kiếm việc làm và nắm bắt các 
cơ hội việc làm. Mỗi người lao động cần tuỳ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh cụ 
thể của mình, tranh thủ các nguồn tài trợ (từ gia đình và các tổ chức xã hội) để tham 
gia giáo dục, đào tạo, phát triển sức lao động nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng và 
kinh nghiệm của mình. Đó cũng chính là điều kiện cần thiết để duy trì việc làm, tạo 
cơ hội việc làm có thu nhập và nâng cao vị thế của bản thân mỗi người lao động.
 c. Cơ chế, chính sách kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến tạo việc làm
 Cơ chế chính sách của chính phủ quốc gia, của chính quyền địa phương, các 
quy định của chủ doanh nghiệp là nhóm nhân tố rất quan trọng tạo việc làm cho 
người lao động. Trong mỗi thời kỳ khác nhau, Chính phủ quốc gia sẽ đề ra những 
chính sách cụ thể, tạo hành lang pháp lý cho phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, 
mở rộng hoặc thu hẹp việc làm của lĩnh vực này, ngành này hay lĩnh vực khác, 
ngành khác, tạo môi trường để người chủ sử dụng lao động và người lao động gặp 
nhau. 
 Chính sách và cơ chế của Nhà nước cũng trực tiếp hoặc gián tiếp khuyến khích 
các chủ sử dụng lao động thu hút lao động đặc thù hay sa thải họ. Có thể nói rằng 
nhóm nhân tố này rất đa dạng, như các chính sách kinh tế vĩ mô, vi mô của Nhà 
nước chung hoặc theo ngành, lĩnh vực, vùng... và có ảnh hưởng lớn đến tạo việc 
làm cho người lao động. Chẳng hạn, chính sách đổi mới kinh tế trên tầm vĩ mô, 
chuyển từ kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần... đã làm thay đổi cơ cấu kinh 
tế. Do đó, cơ cấu lao động theo ngành kinh tế, theo lĩnh vực và theo vùng thay đổi 
không chỉ về số lượng mà đặc biệt là về chất lượng lao động. 
 Với chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, bên cạnh kinh tế nhà nước, 
kinh tế tập thể thì thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, thành phần kinh tế 
Học viên: Dương Thị Thu Hà – K32G Page 7 Tiểu luận môn học: Kinh tế học lao động
cá thể, tư bản tư nhân cũng được khuyến khích phát triển đúng hướng. Kết hợp và 
đan xen giữa sản xuất kinh doanh quy mô lớn, với quy mô vừa, nhỏ và siêu nhỏ 
cùng phát triển, tạo động lực phát triển nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong 
nước và nhu cầu xuất khẩu tạo vốn cho tích luỹ mở rộng sản xuất và cải thiện đời 
sống nhân dân, tăng cường mối quan hệ hợp tác quốc tế giữa Việt Nam với các 
nước trên thế giới. 
 Bộ luật Lao động của nước CHXHCN Việt Nam có hiệu lực từ 1/1/1995 với 
198 điều đã tạo thành nền tảng cho khung khổ pháp lý của thị trường lao động ở 
nước ta. Bộ luật Lao động được coi là công cụ pháp luật quan trọng nhất để điều 
chỉnh quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động, đặt nền 
tảng cho việc hình thành thị trường lao động ở Việt Nam bằng việc công nhận 
"Người lao động có quyền làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và bất 
kỳ chỗ nào mà pháp luật không cấm." Điều 13 còn ghi rõ: "Giải quyết việc làm, 
đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách 
nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội". 
 Tóm lại, cơ chế chính sách của chính phủ quốc gia, chính quyền địa phương và 
việc áp dụng nó vào thực tiễn có tác động mạnh mẽ đến cầu lao động của doanh 
nghiệp, của thị trường lao động. Đến lượt nó trực tiếp tác động đến thái độ, hành vi, 
cách ứng xử của chủ doanh nghiệp trong thu hút lao động.
2. Thất nghiệp
2.1. Khái niệm thất nghiệp
 a. Thất nghiệp là sự mất việc làm hay là sự tách rời sức lao động khỏi tư liệu 
sản xuất, nó gắn liền với người có khả năng lao động nhưng không được sử đụng có 
hiệu quả. 
 Thất nghiệp và thiếu việc làm là vấn đề bức xúc cho các nước đang phát triển. 
Theo thống kê, thất nghiệp công khai ở thành thị một số nước nghèo chiếm từ 10 
đến 20% lực lượng lao động; kết hợp với số thiếu việc làm bán thất nghiệp, tỷ lệ 
này đạt mức 29% đối với tất cả các nước đang phát triển; trong đó, riêng châu Phi là 
38%.
Học viên: Dương Thị Thu Hà – K32G Page 8 Tiểu luận môn học: Kinh tế học lao động
 b.Người thất nghiệp
 Có rất nhiều quan điểm khác nhau về người thất nghiệp. Người thất nghiệp 
gồm những người trong khoảng thời gian xác định của cuộc điều tra không có việc 
làm nhưng đang tích cực tìm việc làm và có nhu cầu được làm việc. Tiêu thức để 
xác định người thất nghiệp là đang không có việc làm, tích cực tìm kiếm việc làm 
và có khả năng lao động và có nhu cầu làm việc.
 Theo P.A.Samuenlson và W.D.Nordhaus, người thất nghiệp là người không có 
việc làm được trả công, và đang có những cố gắng cụ thể để đi tìm một công việc 
trong 4 tuần qua, hoặc bị cho thôi việc nhưng đang chờ được gọi làm việc trở lại, 
hoặc đang chờ đợi đi làm trong tháng tới. 
 Ở Việt Nam, để thống nhất trong điều tra lao động - việc làm được tiến hành 
hàng năm từ 1996 đến nay, Bộ Lao động TBXH quy định: “Người thất nghiệp là 
những người đủ từ 15 tuổi trở lên, có nhu cầu làm việc nhưng không có việc làm 
trong tuần lễ điều tra, tính đến thời điểm điều tra có đi tìm việc trong 4 tuần lễ qua 
hoặc không đi tìm việc trong 4 tuần lễ qua với các lý do chờ việc, nghỉ thời vụ, 
không biết tìm việc ở đâụ,... hoặc trong tuần lễ trước điều tra có tổng số giờ làm 
việc dưới 8 giờ, muốn làm thêm nhưng không tìm được việc"
 2.2. Các chỉ tiêu đo lường thất nghiệp
 a. Chỉ tiêu tuyệt đối
 Thông qua điều tra, người ta có thể thu thập được số liệu về số lượng người 
thất nghiệp
 b. Chỉ tiêu tương đối
 Chỉ tiêu được sử dụng là tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm
 Soá ngöôøi thaát nghieäp
 Tyû leäthaát nghieäp= 100
 Löïclöôïng lao ñoäng 
 Soá ngöôøi thieáu vieäc laøm
 Tyû leäthieáu vieäc laøm = 100
 Löïclöôïng lao ñoäng 
 Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm được sử dụng phản ánh hiện 
tượng thất nghiệp, nhưng do có sự đánh giá khác nhau về người thất nghiệp và mục 
Học viên: Dương Thị Thu Hà – K32G Page 9 Tiểu luận môn học: Kinh tế học lao động
đích nghiên cứu ở mỗi quốc gia, nên các tỷ lệ này được đo lường không giống nhau. 
Ngoài ra, có thể tính tỷ lệ thất nghiệp theo các đặc trưng khác nhau, như:
 - Tỷ lệ thất nghiệp theo giới tính: được tính bằng số người thất nghiệp nam 
hoặc nữ giới trên tổng dân số nam hoặc nữ hoạt động kinh tế.
 - Tỷ lệ thất nghiệp theo nhóm tuổi: được tính bằng số người thất nghiệp ở độ 
tuổi x hoặc nhóm tuổi (x, x+n) trên tổng dân số hoạt động kinh tế của tuổi hoặc 
nhóm tuổi đó.
 - Tỷ lệ thất nghiệp theo trình độ chuyên môn kỹ thuật: được tính bằng số người 
thất nghiệp của một trình độ chuyên môn kỹ thuật trên tổng dân số hoạt động kinh 
tế của trình độ chuyên môn kỹ thuật đó.
 - Tỷ lệ thất nghiệp theo vùng: được tính bằng số người thất nghiệp của một 
vùng trên tổng dân số hoạt động kinh tế của vùng đó.
 2.3. Các hình thức thất nghiệp
 Để hiểu rõ tầm quan trọng của vấn đề thất nghiệp, ngoài số người thất nghiệp 
công khai ra phải tính đến một số lớn những người khác có vẻ là hoạt động tích cực, 
nhưng xét theo ý nghĩa kinh tế lại có hiệu suất sử dụng thấp. Edgar O. Edvvard đã 
phân biệt năm hình thức khiếm dụng lao động (hay không toàn dụng lao động) như 
sau:
 - Thất nghiệp chính thức (hay công khai). Hình thức thất nghiệp này gồm cả 
thất nghiệp tự nguyện và không tự nguyện. Thất nghiệp tự nguyện là hiện tượng 
những người không chịu làm một số công việc mà họ có đủ khả năng làm, chúng có 
ý nghĩa như một phương kế sinh nhai hơn là một công việc.
 - Bán thất nghiệp, bao gồm những người làm việc ít hơn mức mà mình mong 
muốn (hàng ngày, hàng tuần hoặc theo từng mùa); có công ăn việc làm chỉ là hình 
thức.
 - Thất nghiệp trá hình: loại hình này liên quan đến những người dành toàn bộ 
thời gian của mình cho một tổ chức nào đó nhưng công việc họ làm thực ra không 
cần nhiều thời gian như vậy. Nếu như những người có việc làm công khai chia nhau 
Học viên: Dương Thị Thu Hà – K32G Page 10

File đính kèm:

  • doctieu_luan_mon_hoc_kinh_te_hoc_lao_dong_de_bai_phan_tich_thuc.doc