Phân tích tình trạng bẫy thu nhập trung bình tại nền kinh tế Việt Nam
Một đất nước với vị trí địa lý vị trí cực kỳ tốt và thuận lợi,tài nguyên thiên nhiên phong phú,một đất nước trong một nền an ninh hòa bình với lực lượng dân số vàng nhưng sau 40 năm giải phóng vẫn chưa thực sự có một chỗ đứng lớn trên thế giới,vẫn chưa thể sánh ngang hàng cùng các cường quốc năm châu khác.
Vì sao vậy?Phải chăng kinh tế Việt Nam ta đang rơi vào một tình trạng dậm chân tại chỗ hay nói rõ hơn chúng ta đã rơi vào BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Phân tích tình trạng bẫy thu nhập trung bình tại nền kinh tế Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích tình trạng bẫy thu nhập trung bình tại nền kinh tế Việt Nam

PHÂN TÍCH TÌNH TRẠNG BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH TẠI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Một đất nước với vị trí địa lý vị trí cực kỳ tốt và thuận lợi,tài nguyên thiên nhiên phong phú,một đất nước trong một nền an ninh hòa bình với lực lượng dân số vàng nhưng sau 40 năm giải phóng vẫn chưa thực sự có một chỗ đứng lớn trên thế giới,vẫn chưa thể sánh ngang hàng cùng các cường quốc năm châu khác.Vì sao vậy?Phải chăng kinh tế Việt Nam ta đang rơi vào một tình trạng dậm chân tại chỗ hay nói rõ hơn chúng ta đã rơi vào BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH A/MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Phân tích thực trạng thực sự việt nam có rơi vào bẫy trung bình hay không?nguyên nhân là lý do khiến nền kinh tế rơi vào tình trạng đó.Gỉai pháp cho tình hình trước mắt và lâu dài B/ NỘI DUNG KHÁI NIỆM Thế nào là bẫy thu nhập trung bình? “Bẫy TNTB là tình huống một nước bị mắc kẹt tại mức thu nhập nhất định với một nguồn lực và lợi thế nhất định mà không thể vượt qua ngưỡng đó để trở nên giàu có hơn. Năm 2008, VN đã đạt mức thu nhập bình quân đầu người 1.000 USD/người/năm và trở thành nước có TNTB. Nhưng kể từ đó, dấu hiệu của bẫy TNTB trở nên rõ hơn 1.1CƠ SỞ LÝ LUẬN Chúng ta sẽ phân tích 4 cơ sỡ lý luận chính để đi đến kết luận cho một nền kinh tế để làm rõ vấn đề Việt Nam có thực sự đã rơi vào bẫy thu nhập trung bình hay không? 1 TỔNG SẢN PHẨM QUỐC NỘI 2 NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG 3 CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU TRONG KINH TẾ 4 CÁC YẾU TỐ NHƯ CHÍNH SÁCH, NẠN THAM NHŨNG, CHÊNH LỆCH GIÀU NGHÈO TỔNG SẢN PHẨM QUỐC NỘI (GDP) VÀ TÌNH HÌNH TĂNG TRƯỞNG TRONG 10 NĂM QUA(giai đoạn 1995- 2015) Khái niệm tổng sản phẩm quốc nội tổng sản phẩm nội địa, tức tổng sản phẩm quốc nội hay GDP (viết tắt của Gross Domestic Product) là giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một lãnh thổ nhất định (thường là quốc gia) trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). *TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN GDP QUA CÁC GIAI ĐOẠN Giai đoạn 1986-1990, giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, khủng hoảng kéo dài nhưng đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. GDP tăng 4,4%/năm. Giai đoạn 1991-1995 GDP bình quân tăng 8,2%/năm. Giai đoạn 1996-2000 mặc dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính khu vực, thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp nhưng chúng ta vẫn duy trì được tốc độ tăng GDP đạt 7%. Bình quân từ năm 1991-2000 GDP tăng 7,6%/năm. năm 2000, GDP của Hà Nội mới đạt 39.944 tỷ đồng (chiếm 9,04% tổng GDP cả nước), thì đến năm 2007 đã tăng lên 137.935 tỷ (chiếm 12,06%), và năm 2009 là 205.890 tỷ đồng (chiếm 12,41%) (theo wikipedia.com) Ta nhận thấy trong những năm giai đoạn trước năm 2008 GDP có nhưng bước phát triển và thay đổi đáng kể Tuy nhiên GDP từ năm 2008 đến nay lại dường như có những chuyển biến rất chậm Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã và đang tác động mạnh mẽ lên nền kinh tế Việt Nam và gây ảnh hưởng nặng nề tới tất cả các chủ thể trong nền kinh tế từ các doanh nghiệp, người lao động và gia đinh của họ khiến tình trạng của nền kinh tế xấu đi trông thấy Năm 2008 cũng là năm Việt Nam thoát khỏi là nước có thu nhập thấp thành nước có thu nhập trung bình,nhưng kể từ năm 2008 trở đi không có chuyển biến gì thêm về sự tăng trưởng và phát triển lên một bậc cao hơn và tiến bộ hơn. (theo tuoitre.vn) GDP của Việt Nam đã liên tục được điều chỉnh giảm, tuy nhiên đã không thể về đích. Cả năm 2008, tốc độ tăng trưởng GDP của ViệtNam là 6.31%. Từ năm 2008 đến năm 2014 chỉ nhỉnh lênh một chút sau đó theo đà tăng trưởng rất chậm qua từng năm. Quan sát thấy dường như không có dấu hiệu nổi bật của sự đi lên trong vòng 6 năm và nếu cứ tiếp tục tốc độ này ta không thể sánh bằng các nước trong khu vực SO SÁNG TĂNG TRƯỞNG GDP GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC LỚN Tính đến cuối năm 2004, GDP bình quân người của Việt Nam khoảng 500 USD1 , của Hoa Kỳ là 38.000 USD, Nhật Bản là 33.000 USD. Điều này có nghĩa là GDP bình quân người của Việt Nam chỉ bằng 1/76 lần của Hoa Kỳ và 1/66 lần Nhật Bản. Giả sử trong vòng 50 tới, GDP bình quân người của Việt Nam tăng trưởng là 6% năm, của Hoa Kỳ và Nhật Bản là 1,5%, thì vào năm 2050, GDP bình quân người của Việt Nam sẽ khoảng 10.000 USD, trong khi của Hoa Kỳ và Nhật Bản lần lượt là 80.000 USD và 70.000 USD. Nếu tốc độ tăng trưởng trong vòng 100 năm tới, của Việt Nam là 4%, Hoa Kỳ và Nhật Bản vẫn giữ mức tăng nêu trên thì vào năm 2100, các con số nêu trên lần lượt là 25.000 USD, 170.000 USD, 150.000 USD, gấp gần 7 và 6 lần Việt Nam. Một khoảng cách khá xa về tương đối, nhưng vô cùng lớn về tuyệt đối..GDP của vài quốc gia lân cận với Việt Nam. Bảng 1. Số lần cách biệt GDP đầu người giữa một quốc gia đối chiếu với Việt (1) (2) (3) (4) (5) Nam Quốc gia 1980 2011 Số lần tăng Thời gian (năm) gấp trưởng GDP cần để GDP đôi. 1980-2011 tăng trưởng gấp đôi Singapore 9,25 35,86 10,36 6,0 Malaysia 3,44 7,34 5,70 10,9 South 3,29 16,32 13,28 4,7 Korea Philippines 1,45 1,71 3,15 19,7 Thailand 1,35 3,93 7,75 8,0 Indonesia 1,14 2,56 6,00 10,3 Vietnam - - 2,67 23,2 (vneconomy.vn) Theo Bảng 1, GDP đầu người của Singapore nhiều 9,25 lần GDP của Việt Nam vào năm 1980, và chênh lệch tới 35,86 lần vào năm 2011. Thái Lan và Indonesia chỉ hơn Việt Nam chút ít vào năm 1980 (1,35 và 1,14 lần), nhưng nay Indonesia gấp 2,5 lần và Thái Lan gấp gần 4 lần Việt Nam. Trong vòng 31 năm qua, GDP của Nam Hàn gia tăng 13 lần, tức chỉ cần 4,7 năm GDP tăng gấp đôi, Singapore 10 lần t/ức mỗi 6 năm GDP gấp đôi, Thái Lan 7,8 lần trong khi Việt Nam chỉ 2,7 lần, tức Việt Nam phải mất hơn 23 năm GDP mới tăng gấp đôi (Bảng 1). Như vậy, càng về sau Việt Nam càng tụt hậu. Qua đó ta thấy được tốc độ tăng trưởng của Việt Nam so với trên thế giới hay các nước lân cận đều rất chậm,biểu hiện này giống như triệu chứng của căn bệnh ‘BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH” mà chưa kịp khám đã có thể thấy rất rõ. 2** PHÂN TÍCH NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG CỦA NỀN KINH TẾ TRONG 10 NĂM QUA Khái niệm năng suất lao động 1. Năng suất lao động Năng suất lao động (NSLĐ) là chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động sống, đặc trưng bởi quan hệ so sánh giữa một chỉ tiêu đầu ra (kết quả sản xuất) và một chỉ tiêu đầu vào (lao động làm việc). Đây là một chỉ tiêu khá tổng hợp nói lên năng lực sản xuất của một đơn vị hay cả nền kinh tế - xã hội. Tình hình năng suất lao động Việt Nam trong những năm gần đây Theo số liệu của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), năng suất lao động của Việt Nam năm 2013 thuộc nhóm thấp nhất Châu Á – Thái Bình Dương, thấp hơn Singapore, Nhật và Hàn Quốc lần lượt là 15 lần, 11 lần và 10 lần. Ngay cả so với các nước ASEAN có mức thu nhập trung bình, năng suất lao động của Việt Nam vẫn có khoảng cách lớn, chỉ bằng một phần năm Malaysia và hai phần năm Thái Lan. Đáng chú ý là hiện tốc độ tăng của năng suất lao động đang giảm đi tại Việt Nam. Trong giai đoạn 2002-2007, năng suất lao động tăng trung bình 5,2%/năm - mức cao nhất trong khu vực. Tuy nhiên, kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, tốc độ tăng năng suất trung bình hàng năm của Việt Nam chậm lại, chỉ còn 3,3%/năm nguyên nhân của tình trạng năng suất lao động ở Việt Nam thấp là do lao động chưa được đào tạo phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp, thể lực người lao động kém, kỹ năng yếu, kỹ thuật và công nghệ sản xuất thấp v.v... Một yếu tố và dấu hiệu khiến chúng ta khẳng định rằng chúng ta đã rơi vào bẫy THU NHẬP TRUNG BÌNH đó chính là năng suất lao động,không tính đến các yếu tố máy móc mà chỉ tính đến nhân lực lao động,trình độ lao động,thời gian lao động và tốc độ lao động của người Việt Nam quá trì trệ,không phát triển trong một thời gian dài.Vẫn chưa thực sự tiến bộ vượt bậc trong sản xuất,quy mô còn nhỏ trong ngành nông nghiệp,vẫn chưa ứng dụng công nghệ trong khai thác nhiên nguyên vật liệu,gia tăng sản xuất,trình độ lao động còn quá kém chưa đáp ứng nhu cầu hiện đại.Tuy hiện trạng là vậy nhưng thật sự vẫn chưa có chính sách mạnh mẽ thỏa đáng để áp dụng cải tiến tình trạng còn vãn cứ tiếp tục và gói gọn trong hai từ “lý thuyết”. Từ đó dẫn tới không phát huy được sản lượng trong nền kinh tế không nâng cao được GDP qua từng giai đoạn,năng suất lao động quả thực như chiếc kim vàng mà Việt Nam ta mãi cứ mò mẫm cứ mãi kiếm tìm nhưng không đi đến đích. 3** CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU TRONG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM Khái niệm cơ cấu kinh tế: cơ cấu kinh tế là một tổng thể các bộ phận hợp thành kết cấu (hay cấu trúc) của nền kinh tế trong quá trình tăng trưởng sản xuất xã hội. Các bộ phận đó gắn bó với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và biểu hiện ở các quan hệ tỷ lệ về số lượng, tương quan về chất lượng trong những không gian và thời gian nhất định, phù hợp với những điều kiện kinh tế xã hội nhất định nhằm đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao. Cơ cấu kinh tế không phải là một hệ thống tĩnh bất biến mà luôn ở trạng thái vận động, biến đổi không ngừng. Chính vì vậy, cần phải nghiên cứu các qui luật khách quan, thấy được sự vận động phát triển của lực lượng sản xuất xã hội để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp với những mục tiêu chiến lược kinh tế xã hội của từng thời kỳ lịch sử nhất định. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là con đường tất yếu để Việt Nam nhanh thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển, trở thành một quốc gia văn minh, hiện đại. Nội dung và yêu cầu cơ bản của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tăng nhanh tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành công nghiệp, xây dựng và thương mại - dịch vụ, đồng thời giảm dần tương đối tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp (gọi chung là nông nghiệp). Cùng với quá trình chuyển dịch của cơ cấu kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến những biến đổi kinh tế và xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của cơ cấu các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế, các lực lượng lao động xã hội, cơ cấu kinh tế đối nội, cơ cấu kinh tế đối ngoại Thực tế trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhưng năm gần đây và khuynh hướng trong tương lai So với yêu cầu đặt ra, tốc độ chuyển dịch CCKT còn chậm và chất lượng chưa cao. Ngành công nghiệp tuy có tốc độ tăng trưởng cao, nhưng yếu tố hiện đại trong toàn ngành chưa được quan tâm đúng mức, trình độ kỹ thuật công nghệ nhìn chung, vẫn ở mức trung bình. Công nghiệp chế biến, đặc biệt là những ngành công nghệ cao chưa phát triển. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP giảm liên tục trong những năm gần đây. Những ngành dịch vụ có hàm lượng chất xám và giá trị gia tăng cao như dịch vụ tài chính - tín dụng, dịch vụ tư vấn chậm phát triển. Tình trạng độc quyền, dẫn tới giá cả dịch vụ cao, chất lượng dịch vụ thấp còn tồn tại ở nhiều ngành như điện lực, viễn thông, đường sắt. Một số ngành có tính chất động lực như giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, tính chất xã hội hoá còn thấp, chủ yếu dựa vào nguồn vốn của Nhà nước. Mới đây, tháng 9-2008, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đưa ra đánh giá tổng quan về tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội trong 3 năm qua (2006-2008) và dự báo khả năng thực hiện 52 chỉ tiêu chủ yếu đã được Đại hội X của Đảng đề ra trong kế hoạch kinh tế - xã hội giai đoạn 2006-2010, trong đó có các chỉ tiêu liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đưa ra cảnh báo, mặc dù đã có sự chuyển dịch đúng hướng, song tiến độ thực hiện còn chậm so với mục tiêu kế hoạch; trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy thoái hiện nay mà dự báo là sẽ còn rất nan giải, chí ít là trong vài ba năm tới, nếu không có các giải pháp chính sách thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa trong phát triển công nghiệp và dịch vụ theo hướng nâng cao sản lượng và chất lượng tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế cùng với chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ thì khó có thể thực hiện được mục tiêu đã đề ra. Có cảnh báo đó là vì, theo ước tính, đến hết năm 2008, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP vẫn còn 20,6- 20,7%, trong khi kế hoạch đến năm 2010 phải giảm còn 15-16%; giá trị công nghiệp năm 2008 mới đạt 40,6-40,7% GDP, trong khi kế hoạch đến năm 2010 phải đạt 43-44%; tỷ trọng thương mại - dịch vụ năm 2008 ước tính có thể đạt 38,7-38,8% GDP, trong khi kế hoạch đến năm 2010 phải là 40-41%. ( Biểu đồ chuyển dịch cơ cấu kinh tế qua các năm) (theo vneconomy.vn) Qua quan sát biểu đồ ta thấy, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra hết sức chậm chạp và ít có sự thay đổi tỷ trọng giữa các nghành.Mục tiêu là năm 2020 cơ bản là nước công nghiệp hóa nhưng tỷ trọng ngành công nghiệp không phát triển mạnh mà còn có khuynh hướng đi xuống từ năm 2009 đến năm 2013. Và vẫn không có chuyển biến gì mới trong năm 2014-2015.Trong khi đó,tưởng chừng nông nghiệp dịch vụ và nông nghiệp có bước khả quan hơn,nhưng thực tế vẫn cứ là một đường dao động không mạnh và có xu hướng bảo hòa không tiến triển. Một dấu hiệu nữa cho thấy tình trạng rơi vào BẪY THU NHẬP TRUNG BÌNH về năng suất lao động về GDP kéo đến ngay cả chuyển dịch cơ cấu cũng trong tốc độ chậm chạp một cách khó hiểu.Không có dấu hiệu chuyển đổi mạnh trong nền kinh tế qua từng năm,măn này không khác năm ngoái là mấy,một trạng thái,một tốc độ cũng như một tiến độ.Một trong những điều đáng lo ngại của nền kinh tế nước ta.
File đính kèm:
phan_tich_tinh_trang_bay_thu_nhap_trung_binh_tai_nen_kinh_te.docx