Đề tài Vai trò đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Bình Dương
Từ khi Luật Đầu tư (1987) có hiệu lực, đất nước ta đã có những bước phát triển mới cả về tư duy và hoạt động trong lĩnh vực kinh tế, chúng ta đã dần chuyển đổi mô hình kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường năng động và phù hợp hơn. Chính vì vậy đã tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, đặc biệt đối với nền kinh tế còn thiếu nhiều điều kiện và các yếu tố cấu thành nền kinh tế, các doanh nghiệp trong nước còn non trẻ, chưa đủ mạnh thì nguồn vốn từ đầu tư nước ngoài đã giúp chúng ta giải bài toán trong tình trạng khó khăn đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “ Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở nước ta, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần khác. Thu hút đầu tư nước ngoài là chủ trương quan trọng, góp phần khai thác các nguồn lực trong nước, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp CNH- HĐH phát triển của đất nước”. Trong các nguồn đầu tư nước ngoài thì đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) là nguồn vốn quan trọng, là động lực lớn của quá trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta trong suốt 29 năm qua. Thực tiễn 30 năm đổi mới có thể khẳng định đóng góp của FDI vào sự tăng trưởng của nền kinh tế của nước ta với con số không hề nhỏ, tạo sự chuyển biến lớn thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Bình Dương luôn được đánh giá là một trong những tỉnh miền Đông Nam bộ có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, thực tế cho thấy Bình Dương có nền kinh tế phát triển năng động, có chính sách thu hút vốn đầu tư khá hiệu quả và môi trường đầu tư không ngừng được cải thiện. Chính vì vậy trong những năm qua Bình Dương luôn là một trong những địa phương đi đầu và đạt được những kết quả quan trọng trong thu hút đầu tư nước ngoài ngay từ khi có chủ trương của Đảng và Nhà nước. Nguồn vốn này đã tạo nên bước đột phá trong phát triển kinh tế, tác động tích cực đến cán cân xuất nhập khẩu, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng GDP của địa phương, tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, mở ra nhiều ngành, nghề sản xuất mới, xây dựng và phát triển các khu công nghiệp công nghệ cao, giúp mở rộng thị trường và nâng cao kim ngạch xuất nhập khẩu của tỉnh. Đồng thời, giúp các cơ sở kinh tế, các doanh nghiệp của Bình Dương tiếp nhận được công nghệ và phương pháp quản lý hiện đại, tạo nhiều việc làm, góp phần tăng thu nhập cho người lao động và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của địa phương.
Tuy nhiên bên cạnh đó, nguồn vốn FDI đầu tư vào địa bàn của tỉnh vẫn còn nhiều bất cập tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa thật sự hợp lý giữa các địa phương trong tỉnh, giữa các ngành sản xuất, nhất là tỷ lệ đầu tư vào các ngành có sự chênh lệch lớn, vì vậy đã làm mất cân đối trong cơ cấu đầu tư, cơ cấu kinh tế của tỉnh.
Để phát huy vai trò của nguồn vốn FDI đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của tỉnh một cách hợp lý và đúng hướng, cần nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của nó đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của địa phương. Trên cơ sở đó, xác định những quan điểm chỉ đạo sát, đúng với yêu cầu thực tiễn, đề ra những biện pháp cụ thể, khả thi nhằm phát huy vai trò của nguồn vốn FDI đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Bình Dương hiện nay, đây là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Vì những lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Vai trò đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Bình Dương” làm khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành kinh tế chính trị.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề tài Vai trò đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Bình Dương

1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ khi Luật Đầu tư (1987) có hiệu lực, đất nước ta đã có những bước phát triển mới cả về tư duy và hoạt động trong lĩnh vực kinh tế, chúng ta đã dần chuyển đổi mô hình kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường năng động và phù hợp hơn. Chính vì vậy đã tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, đặc biệt đối với nền kinh tế còn thiếu nhiều điều kiện và các yếu tố cấu thành nền kinh tế, các doanh nghiệp trong nước còn non trẻ, chưa đủ mạnh thì nguồn vốn từ đầu tư nước ngoài đã giúp chúng ta giải bài toán trong tình trạng khó khăn đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “ Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở nước ta, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần khác. Thu hút đầu tư nước ngoài là chủ trương quan trọng, góp phần khai thác các nguồn lực trong nước, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp CNH- HĐH phát triển của đất nước”. Trong các nguồn đầu tư nước ngoài thì đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) là nguồn vốn quan trọng, là động lực lớn của quá trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta trong suốt 29 năm qua. Thực tiễn 30 năm đổi mới có thể khẳng định đóng góp của FDI vào sự tăng trưởng của nền kinh tế của nước ta với con số không hề nhỏ, tạo sự chuyển biến lớn thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Bình Dương luôn được đánh giá là một trong những tỉnh miền Đông Nam bộ có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, thực tế cho thấy Bình Dương có nền kinh tế phát triển năng động, có chính sách thu hút vốn đầu tư khá hiệu quả và môi trường đầu 2 tư không ngừng được cải thiện. Chính vì vậy trong những năm qua Bình Dương luôn là một trong những địa phương đi đầu và đạt được những kết quả quan trọng trong thu hút đầu tư nước ngoài ngay từ khi có chủ trương của Đảng và Nhà nước. Nguồn vốn này đã tạo nên bước đột phá trong phát triển kinh tế, tác động tích cực đến cán cân xuất nhập khẩu, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng GDP của địa phương, tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, mở ra nhiều ngành, nghề sản xuất mới, xây dựng và phát triển các khu công nghiệp công nghệ cao, giúp mở rộng thị trường và nâng cao kim ngạch xuất nhập khẩu của tỉnh. Đồng thời, giúp các cơ sở kinh tế, các doanh nghiệp của Bình Dương tiếp nhận được công nghệ và phương pháp quản lý hiện đại, tạo nhiều việc làm, góp phần tăng thu nhập cho người lao động và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của địa phương. Tuy nhiên bên cạnh đó, nguồn vốn FDI đầu tư vào địa bàn của tỉnh vẫn còn nhiều bất cập tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa thật sự hợp lý giữa các địa phương trong tỉnh, giữa các ngành sản xuất, nhất là tỷ lệ đầu tư vào các ngành có sự chênh lệch lớn, vì vậy đã làm mất cân đối trong cơ cấu đầu tư, cơ cấu kinh tế của tỉnh. Để phát huy vai trò của nguồn vốn FDI đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của tỉnh một cách hợp lý và đúng hướng, cần nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của nó đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của địa phương. Trên cơ sở đó, xác định những quan điểm chỉ đạo sát, đúng với yêu cầu thực tiễn, đề ra những biện pháp cụ thể, khả thi nhằm phát huy vai trò của nguồn vốn FDI đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Bình Dương hiện nay, đây là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Vì những lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Vai trò đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Bình Dương” làm khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành kinh tế chính trị. 3 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Vai trò của FDI đối với phát triển kinh tế của các địa phương trong cả nước là rất lớn, có những tác động tích cực và cả những hạn chế của nó chính vì vậy đã có nhiều công trình khoa học, nhiều bài báo đề cập đến vấn đề này, trong đó liên quan trực tiếp đến đề tài có các công trình đáng chú ý sau: Dưới dạng sách tham khảo và chuyên khảo có: Những giải pháp chính trị, kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam của PGS, TS Nguyễn Khắc Thân, PGS, TS Chu Văn Cấp. Các tác giả đã chỉ ra xu hướng vận động của luồng tư bản đầu tư trực tiếp nước ngoài và thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trên cơ sở đó đề ra những giải pháp cơ bản về chính trị, kinh tế nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu quả. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam của TS Lê Xuân Bá chủ biên xuất bản năm 2006. Tác giả đã phân tích những tác động của FDI đến nền kinh tế Việt Nam từ năm 1988 đến nay, chỉ rõ vai trò của khu vực FDI với nền kinh tế nước ta. Bài viết đã đánh giá một cách tổng quan chính sách thu hút FDI ở Việt Nam, phân tích những quan điểm và so sánh chính sách thu hút FDI hiện hành với các nước trong khu vực từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thu hút FDI trong thời gian tới. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - Chính sách và thực tiễn do PGS.TS. Phùng Xuân Nhạ chủ biên, được Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2007, biên soạn trên cơ sở kết quả nghiên cứu của đề tài đặc biệt cấp Đại học Quốc gia Hà Nội Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. Nội dung cơ bản của cuốn sách này bao hàm cơ sở lý luận và thực tiễn của lựa chọn các hình thức FDI ở Việt Nam; các hình thức FDI theo luật đầu tư ở Việt Nam; thực trạng các hình thức ĐTNN ở Việt 4 Nam và các đề xuất, khuyến nghị chính sách đối với từng hình thức FDI ở Việt Nam giai đoạn hiện nay. Dưới dạng luận văn, luận án có các công trình: Những tác động trái chiều của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến đời sống kinh tế - xã hội ở Đồng Nai hiện nay của tác giả Nguyễn Thị Nga, luận văn thạc sĩ kinh tế, bảo vệ tại Học viện Chính trị năm 2011. Công trình đã luận giải một số vấn đề lý luận, thực tiễn về FDI và tác động của nó đối với sự phát triển KT - XH ở quốc gia nhận đầu tư, phân tích những tác động trái chiều của FDI đến đời sống KT - XH ở Đồng Nai. Trên cơ sở đó, đề xuất một số quan điểm chỉ đạo, giải pháp cơ bản hạn chế mặt trái của FDI đối với sự phát triển KT - XH ở Đồng Nai trong thời gian tới. Phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay của tác giả Phạm Duyên Minh, luận văn thạc sĩ kinh tế, bảo vệ tại Học viện Chính trị năm 2009. Công trình này đã làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, phân tích thực trạng phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở tỉnh Bắc Ninh. Từ đó, đề xuất những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Bắc Ninh trong thời gian tới. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Dương của tác giả Nguyễn Quang Tạo luận văn thạc sĩ kinh tế, bảo vệ tại Học viện Chính trị năm 2013. Công trình này đã làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài, phân tích thực trạng tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến phát triển kinh tế - xã hội đồng thời đưa ra những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu phát huy những tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến phát triển kinh tế - xã hội ở Hải Dương. 5 Dưới dạng các tạp chí có công trình: Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam dưới tác động của hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu của tác giả Nguyễn Quốc Toản, đăng trên Tạp chí Cộng sản số 877- 11/2015[ Tr8-11]. Tác giả đã phân tích và đưa ra những nhận định về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nước ta dưới tác động của hiệp định thương mại tự do. Bài viết đã đánh giá thực trạng bất cập của FDI đối với nền kinh tế nước ta đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm nhận diện cũng như tháo gỡ những bất cập và tồn tại của FDI trong thời gian tới. "Tổng kết 20 năm Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” của tác giả Phan Hữu Thắng, đăng trên Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 1/2008 đã khái quát kết quả FDI ở Việt Nam 20 năm qua; đánh giá tác động của ĐTNN trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường; đồng thời nêu ra một số vấn đề có tính định hướng thu hút ĐTNN giai đoạn 2006 - 2010 ở nước ta. “Thực trạng và triển vọng phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam ” của tác giả Hồ Thanh Thuỷ, công bố trên Tạp chí Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, số 23/2005 đã khái quát kết quả đạt được và những mặt tồn tại, hạn chế của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN sau 17 năm thực hiện Luật ĐTNN; nêu dự báo về khả năng cải thiện môi trường đầu tư và triển vọng thu hút ĐTNN của Việt Nam trong thời gian tới. Ngoài ra, có thể tìm thấy nhiều bài viết trong đó đăng tải: những ý kiến nhận định, những số liệu thực tiễn, những chính sách, các quyết định về hoạt động của FDI trên các trang website của Tỉnh ủy Bình Dương, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Dương với những tiêu đề phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập một cách hệ thống, toàn diện về vai trò của FDI đối với CDCCKT ngành trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Điều này đồng nghĩa với việc khẳng định sự không trùng lắp về hướng nghiên cứu của tác giả với các công trình khoa học đã được công bố. 6 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi của khóa luận * Mục đích: Luận giải những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn về vai trò của FDI đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Trên cơ sở đó đưa ra những quan điểm và đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của FDI đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Bình Dương. * Nhiệm vụ - Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của FDI đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa bàn tỉnh Bình Dương. - Phân tích tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở tỉnh Bình Dương trong thời gian vừa qua. - Đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của FDI đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Bình Dương. * Đối tượng nghiên cứu Khóa luận tập trung nghiên cứu những vai trò của FDI đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Bình Dương * Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu FDI và vai trò của nó đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Bình Dương. Các số liệu điều tra, khảo sát được thực hiện chủ yếu từ năm 2011 đến năm 2015. 4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở phương pháp luận Khóa luận dựa trên lý luận kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về 7 phát huy sức mạnh của thời đại, về hội nhập kinh tế quốc tế; Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Bình Dương về thu hút đầu tư nước ngoài và phát huy vai trò của nguồn FDI vào phát triển kinh tế ngành của tỉnh. * Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn sử dụng phương pháp đặc thù của kinh tế chính trị Mác – Lênin và các phương pháp khác như: kết hợp lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh và phương pháp chuyên gia. 5. Ý nghĩa của khóa luận Khóa luận được nghiên cứu thành công là đóng góp nhỏ đối với việc hoạch định chủ trương, chỉ đạo, quản lý hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Bình Dương và có thể tham khảo đối với các địa phương khác. Đồng thời, cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy môn kinh tế chính trị liên quan đến vấn đề đầu tư nước ngoài và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Có thể phát triển thành hướng đề tài nghiên cứu ở cấp độ cao hơn. 6. Kết cấu của khóa luận Khóa luận gồm: Mở đầu; 2 chương (4 tiết); kết luận; 15 danh mục tài liệu tham khảo và 7 phụ lục. 8 Chương 1 VAI TRÒ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH Ở TỈNH BÌNH DƯƠNG - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1 Một số vấn đề liên quan đến vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Bình Dương 1.1.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài và các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Bình Dương hiện nay * Đầu tư trực tiếp nước ngoài - Xuất khẩu tư bản và các hình thức xuất khẩu tư bản Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức của xuất khẩu tư bản, bởi quá trình hình thành và phát triển của nền kinh tế thế giới đã sảy ra quá trình tích tụ và tập trung tư bản làm cho các nước công nghiệp phát triển đã tích luỹ được những khoản tư bản khổng lồ làm tiền đề cho việc xuất khẩu tư bản và đến giai đoạn chủ nghĩa độc quyền, xuất khẩu tư bản là một đặc điểm nổi bật và trở thành sự cần thiết của chủ nghĩa tư bản. Đó là vì tư bản tài chính trong quá trình phát triển đã xuất hiện cái gọi là " tư bản thừa". “Tình trạng thừa này không phải là thừa tuyệt đối, mà là thừa tương đối, nghĩa là không tìm được nơi có lợi nhuận cao ở trong nước. Tiến bộ kỹ thuật ở các nước này đã dẫn đến tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản và hạ thấp tỷ suất lợi nhuận”[7,tr.328]. Trong lúc ở nhiều nước kinh tế lạc hậu cần tư bản để mở mang kinh tế và đổi mới kỹ thuật, nhưng chưa tích luỹ tư bản kịp thời. Vậy xuất khẩu tư bản là đem tư bản ra nước ngoài, nhằm chiếm được giá trị thặng dư và các nguồn lợi khác được tạo ra ở các nước nhập khẩu tư bản. Ta đã thấy rằng việc xuất khẩu tư bản xuất hiện trong các nước tiên tiến. Đây là vấn đề mang tính tất yếu khách quan của một hiện tượng kinh tế 9 khi mà quá trình tích luỹ và tập trung đã đạt đến một độ nhất định sẽ xuất hiện nhu cầu ra nước ngoài. Đây cũng là quá trình phát triển sức sản xuất của xã hội vươn ra thế giới, thoát khỏi khuôn khổ chật hẹp của quốc gia, hình thành quy mô sản xuất trên phạm vi quốc tế. Theo Lê Nin, “các nước xuất khẩu tư bản hầu như bao giờ cũng có khả năng thu được một số lợi nào đó” [6, tr. 90]. Chính đặc điểm này là nhân tố kích thích các nhà tư bản có tiềm lực hơn trong việc thực hiện đầu tư ra nước ngoài. Bởi vì khi mà nền công nghiệp đã phát triển, đầu tư trong nước không còn có lợi nhuận cao nữa. Mặt khác các nước lạc hậu hơn có lợi thế về đất đai, nguyên liệu, tài nguyên, nhân công lại đưa lại cho nhà đầu tư lợi nhuận cao, ổn định, tin cậy và giữ vị trí độc quyền Theo Lê Nin, " xuất khẩu tư bản" là một trong năm đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa đế quốc, thông qua xuất khẩu tư bản, các nước tư bản phát triển thực hiện việc bóc lột đối với các nước lạc hậu và thường là thuộc địa của nó: Nhưng ông không phủ nhận vai trò của nó. Trong thời kỳ đầu của chính quyền Xô Viết, Lê Nin chủ trương sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài và khi đưa ra "chính sách kinh tế mới" đã nói rằng những người cộng sản phải biết lợi dụng những thành tựu kinh tế và khoa học kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản, thông qua hình thức " chủ nghĩa tư bản nhà nước". Theo quan điểm này nhiều nước đã “chấp nhận phần nào sự bóc lột của chủ nghiã tư bản để phát triển kinh tế, như thế có thể còn nhanh hơn là sự vận động tự thân của mỗi nước”. Tuy nhiên việc "xuất khẩu tư bản" phải tuân theo pháp luật của các nước đế quốc vì họ có sức mạnh kinh tế, còn ngày nay thì tuân theo pháp luật, sự điều hành của mỗi quốc gia nhận đầu tư. Các hình thức xuất khẩu tư bản Xét về chủ sở hữu tư bản có: xuất khẩu tư bản nhà nước và xuất khẩu tư bản tư nhân. 10 Xét về hình thức đầu tư có: xuất khẩu tư bản trực tiếp(đưa tư bản ra nước ngoài để trực tiếp kinh doanh thu lợi nhuận cao) và xuất khẩu tư bản gián tiếp(cho vay để thu lợi tức). Trong phạm vi khóa luận này tác giả chỉ tập trung nghiên cứu hình thức xuất khẩu trực tiếp(đầu tư trực tiếp), bao gồm cả đầu tư về vốn, khoa học-kỹ thuật-công nghệ. - Quan niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) Gần đây, khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được nhiều tổ chức kinh tế quốc tế đưa ra nhằm mục đích giúp các quốc gia hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô về FDI, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động tự do hóa thương mại và đầu tư quốc tế cũng như sử dụng trong công tác thống kê quốc tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày nay đã trở thành hình thức đầu tư phổ biến và đã được định nghĩa bởi các tổ chức kinh tế quốc tế cũng như luật pháp của các quốc gia. Theo Ủy ban thương mại và phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD): “FDI là hoạt động đầu tư bao gồm mối quan hệ dài hạn, phản ánh lợi ích và quyền kiểm soát lâu dài của một thực thể thường trú ở một nền kinh tế (nhà đầu tư nước ngoài hoặc công ty mẹ nước ngoài) đối với một doanh nghiệp thường trú ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp liên doanh hoặc chi nhánh nước ngoài) ”[4, tr.11]. Theo quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): FDI được quan niệm là “Đầu tư có lợi ích lâu dài của một doanh nghiệp tại một nước khác (nước nhận đầu tư - hosting country) không phải tại nước mà doanh nghiệp đang hoạt động (nước đi đầu tư - source country) với mục đích quản lý một cách có hiệu quả doanh nghiệp” [10, tr.350]. Hoa Kỳ là một trong những nước tiếp nhận đầu tư và tiến hành đầu tư lớn nhất trên thế giới cũng đưa ra định nghĩa về FDI: FDI là bất kỳ dòng vốn nào thuộc sở hữu đa phần của công dân hoặc công ty của nước đi đầu
File đính kèm:
de_tai_vai_tro_dau_tu_truc_tiep_nuoc_ngoai_doi_voi_chuyen_di.doc