Tiểu luận Hiệu quả và công bằng của bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam

1, Lý do chọn đề tài

Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế - xã hội mà hầu hết các nước trên thế giới

phải đương đầu. Tác động của thất nghiệp đến sự phát triển, ổn định kinh tế, chính trị và

xã hội của mỗi quốc gia là rất lớn, nó đẩy người lao động bị thất nghiệp vào tình cảnh

túng quẫn, dẫn đến các tệ nạn xã hội gia tăng, chính trị bất ổn, lãng phí nguồn lực xã hội

đi liền với sự giảm sút về sản lượng, là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho nền

kinh tế bị trì trệ. Vì vậy, hạn chế thất nghiệp và đảm bảo ổn định đời sống người lao động

trong trường hợp bị thất nghiệp là mục tiêu chung của các quốc gia và các tổ chức quốc tế

và khu vực.

Ngày 1.1.2009, tại Việt Nam một loại hình bảo hiểm mới đã bắt đầu có hiệu lực

nhằm bảo vệ, hỗ trợ những đối tượng lao động thất nghiệp. Đó là bảo hiểm thất nghiệp

(BHTN). Sự ra đời của loại hình bảo hiểm này thực sự là một bước tiến lớn trong con

đường phát triển của ngành bảo hiểm Việt nam nói riêng và nỗ lực đảm bảo an sinh xã

hội của Đảng và Nhà nước ta nói chung.

BHTN ở Việt Nam ra đời gắn với giai đoạn đầy khó khăn, tồi tệ của nền kinh tế

Việt nam cũng như kinh tế thế giới; giai đoạn mà chúng ta phải chứng kiến nhiều doanh

nghiệp phá sản, hàng nghìn lao động rơi vào cảnh thất nghiệp.Sau 2 năm thực hiện, Bảo

hiểm thất nghiệp đã mang lại những thành công nhất định, cũng như tác dụng tích cực về

mặt kinh tế xã hội. Tuy nhiên, chính sách đó đang còn những bất cập và gặp khó khăn

trong quá trình thực hiện. điều đó cho thấy việc nghiên cứu, hoàn thiện chính sách BHTN

ở Việt Nam là một yêu cầu cấp thiết hiện nay. Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn về chính

sách cũng như kết quả đạt được của BHTN, tôi đã quyết định thực hiện đề tài “ Hiệu quả

và công bằng của bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam ”. Hy vọng đề tài có thể mang đến

một cái nhìn toàn diện nôi dung về chính sách BHTN cũng như hiệu quả và công bằng

mà chính sách mang lại, từ đó đưa ra các giải pháp để hoàn thiện chính sách BHTN ở

Việt Nam hiện nay.

2, Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu của đề tài là tìm ra những giải pháp để tháo gỡ những vấn đề còn vướng

mắc nhằm cải thiện và nâng cao hiệu quả mang lại, góp phần đạt được mục tiêu của chính

sách BHTN là công bằng và an sinh xã hội.

3, Đối tượng nghiên cứu

BHTN và các vấn đề liên quan như tình hình thực hiện, hiệu quả, công bằng mà

chính sách mang lại trong việc thực thi BHTN.

4, Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu hiệu quả và công bằng của chính sách BHTN sau 2 năm thực hiện ( từ

tháng 1/1/2009 đến nay)

5, Phương pháp nghiên cứu

• Nghiên cứu dựa trên phân tích thực chứng

• Phân tích thống kê từ các số liệu thực tế của Bộ Lao Động Thương Binh & Xã

Hội

• Phương pháp mô hình hoá

6, Kết cấu đề tài

• Phần mở đầu : Giới thiệu chung về đề tài

• Chương I : Cơ sở lý luận

• Chương II : Những quy định chung về chế độ BHTN ở Việt Nam

• Chương III : Đánh giá hiệu quả và công bằng của chế độ BHTN ở Việt Nam

• Chương IV : Giải pháp nâng cao hiệu quả của BHTN

• Phần kết luận

pdf 19 trang chauphong 19/08/2022 6740
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Hiệu quả và công bằng của bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu luận Hiệu quả và công bằng của bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam

Tiểu luận Hiệu quả và công bằng của bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam
GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính 
SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 1 
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HCM 
ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT 
Tiểu Luận Môn: Kinh Tế Công Cộng 
Đề tài: 
HIỆU QUẢ VÀ CÔNG BẰNG CỦA BẢO 
HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM 
 GVHD : TSKH. Phạm Đức Chính 
 SVTH : Hoàng Thị Dung 
 MSSV : K084010019 
TP. HCM tháng 5-2011 
GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính 
SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 2 
PHẦN MỞ ĐẦU 
1, Lý do chọn đề tài 
Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế - xã hội mà hầu hết các nước trên thế giới 
phải đương đầu. Tác động của thất nghiệp đến sự phát triển, ổn định kinh tế, chính trị và 
xã hội của mỗi quốc gia là rất lớn, nó đẩy người lao động bị thất nghiệp vào tình cảnh 
túng quẫn, dẫn đến các tệ nạn xã hội gia tăng, chính trị bất ổn, lãng phí nguồn lực xã hội 
đi liền với sự giảm sút về sản lượng, là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho nền 
kinh tế bị trì trệ. Vì vậy, hạn chế thất nghiệp và đảm bảo ổn định đời sống người lao động 
trong trường hợp bị thất nghiệp là mục tiêu chung của các quốc gia và các tổ chức quốc tế 
và khu vực. 
Ngày 1.1.2009, tại Việt Nam một loại hình bảo hiểm mới đã bắt đầu có hiệu lực 
nhằm bảo vệ, hỗ trợ những đối tượng lao động thất nghiệp. Đó là bảo hiểm thất nghiệp 
(BHTN). Sự ra đời của loại hình bảo hiểm này thực sự là một bước tiến lớn trong con 
đường phát triển của ngành bảo hiểm Việt nam nói riêng và nỗ lực đảm bảo an sinh xã 
hội của Đảng và Nhà nước ta nói chung. 
BHTN ở Việt Nam ra đời gắn với giai đoạn đầy khó khăn, tồi tệ của nền kinh tế 
Việt nam cũng như kinh tế thế giới; giai đoạn mà chúng ta phải chứng kiến nhiều doanh 
nghiệp phá sản, hàng nghìn lao động rơi vào cảnh thất nghiệp.Sau 2 năm thực hiện, Bảo 
hiểm thất nghiệp đã mang lại những thành công nhất định, cũng như tác dụng tích cực về 
mặt kinh tế xã hội. Tuy nhiên, chính sách đó đang còn những bất cập và gặp khó khăn 
trong quá trình thực hiện. điều đó cho thấy việc nghiên cứu, hoàn thiện chính sách BHTN 
ở Việt Nam là một yêu cầu cấp thiết hiện nay. Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn về chính 
sách cũng như kết quả đạt được của BHTN, tôi đã quyết định thực hiện đề tài “ Hiệu quả 
và công bằng của bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam ”. Hy vọng đề tài có thể mang đến 
một cái nhìn toàn diện nôi dung về chính sách BHTN cũng như hiệu quả và công bằng 
mà chính sách mang lại, từ đó đưa ra các giải pháp để hoàn thiện chính sách BHTN ở 
Việt Nam hiện nay. 
2, Mục tiêu nghiên cứu 
Mục tiêu của đề tài là tìm ra những giải pháp để tháo gỡ những vấn đề còn vướng 
mắc nhằm cải thiện và nâng cao hiệu quả mang lại, góp phần đạt được mục tiêu của chính 
sách BHTN là công bằng và an sinh xã hội. 
3, Đối tượng nghiên cứu 
 BHTN và các vấn đề liên quan như tình hình thực hiện, hiệu quả, công bằng mà 
chính sách mang lại trong việc thực thi BHTN. 
4, Phạm vi nghiên cứu 
 Nghiên cứu hiệu quả và công bằng của chính sách BHTN sau 2 năm thực hiện ( từ 
tháng 1/1/2009 đến nay) 
5, Phương pháp nghiên cứu 
• Nghiên cứu dựa trên phân tích thực chứng 
GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính 
SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 3 
• Phân tích thống kê từ các số liệu thực tế của Bộ Lao Động Thương Binh & Xã 
Hội 
• Phương pháp mô hình hoá 
6, Kết cấu đề tài 
• Phần mở đầu : Giới thiệu chung về đề tài 
• Chương I : Cơ sở lý luận 
• Chương II : Những quy định chung về chế độ BHTN ở Việt Nam 
• Chương III : Đánh giá hiệu quả và công bằng của chế độ BHTN ở Việt Nam 
• Chương IV : Giải pháp nâng cao hiệu quả của BHTN 
• Phần kết luận 
GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính 
SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 4 
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN 
1. Một số vấn đề về thất nghiệp 
1.1. Khái niệm 
Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO): “ Thất nghiệp là tình trạng tồn tại một số người 
trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền 
lương thịnh hành”. 
1.2. Phân loại 
Phân loại theo lý do thất nghiệp : 
• Thất nghiệp tự nguyện : Là loại thất nghiệp mà ở một mức tiền công nào đó người 
lao động không muốn làm việc hoặc vì lý do cá nhân nào đó (di chuyển, sinh 
con).Thất nghiệp loại này thường tạm thời. 
• Thất nghiệp không tự nguyện : Thất nghiệp mà ở mức tiền công nào đó người lao 
động chấp nhận nhưng vẫn không được làm việc do kinh tế suy thoái , cung lớn 
hơn cầu về lao động 
• Thất nghiệp trá hình (còn gọi là hiện tượng khiếm dụng lao động) là hiện tượng 
xuất hiện khi người lao động được sử dụng dưới mức khả năng mà bình thường 
gắn với việc sử dụng không hết thời gian lao động. 
1.3. Tác động của thất nghiệp đến sự phát triển kinh tế - xã hội 
• Thất nghiệp tác động đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát. 
• Thất nghiệp ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của người lao động. 
• Thất nghiệp ảnh hưởng đến trật tự xã hội, an toàn xã hội. 
2. Bảo hiểm thất nghiệp 
2.1. Khái niệm 
BHTN là quá trình tổ chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung – quỹ bảo hiểm thất 
nghiệp - được hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia ( người lao động, người 
sử dụng lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước ) nhằm hỗ trợ về mặt thu nhập cho người lao 
động trong thời gian bị mất việc làm, tạo điều kiện cho họ tìm kiếm việc làm mới trong 
thị trường lao động. 
GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính 
SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 5 
BHTN cũng là một loại thuế nhãn hiệu. Thuế nhãn hiệu là thuế có mục đích, mà được 
xác định và thời điểm vận dụng loại thuế đó. Sử dụng các khoản thu từ thuế đó dù vào 
mục đích khác đi nữa cũng không được phép. Người tham gia BHTN thực hiện trách 
nhiệm nộp thuế và hiểu rất rõ phần thuế mình nộp vào sẽ được tiêu dung vào mục đích gì. 
BHTN cũng tuân thủ theo nguyên tắc lấy số đông bù số ít giống BHXH vì mục tiêu 
chung là bảo vệ người lao động, ổn định xã hội. 
Mặc dù vậy, nhưng BHTN có những đặc điểm khác với BHXH, vì BHTN gắn liền 
với vấn đề việc làm và tạo việc làm cho đối tượng, mục đích, công tác quản lýNên: 
• Đối tượng của bảo hiểm thất nghiệp không thể tính toán được, cũng không thể 
dự toán chính xác được như các loại bảo hiểm xã hội khác 
• Lao động làm việc trong các thành phần kinh tế khác nhau, việc quản lý quyền 
lợi của người tham gia bảo hiểm thất nghiệp rất khó khăn, vì thực tế ở các 
nước đã có nhiều người lao động tìm được việc làm, có thu nhập, nhưng vẫn 
nhận được trợ cấp thất nghiệp. 
• Bảo hiểm thất nghiệp có liên quan chặt chẽ với cơ quan xúc tiến việc làm 
trong lúc cơ quan này lại hoạt động chưa thực sự hiệu quả. 
2.2. Mục tiêu của chương trình BHTN 
• Cung cấp nguồn hỗ trợ về thu nhập cho người lao động bị thất nghiệp, đảm bảo 
chi tiêu cần thiêt trong thời gian tìm việc mới mà không gây ra tình trạng nợ 
nần. 
• Ổn định nền kinh tế, góp phần duy trì sức tiêu dùng ở cả góc độ cá thể và kinh 
tế vĩ mô, thúc đẩy tìm việc làm hiệu quả - tạo điều kiện kết nối tốt hơn giữa 
cung và cầu trong thị trường lao động. 
• Khuyến khích người lao động nâng cao tay nghề. 
• Tăng cường các kỹ năng tìm kiếm việc làm, Giúp những người thất nghiệp 
sớm có cơ hội tìm được việc làm, những người có kĩ năng sẽ tìm đựơc công 
việc phù hợp thay vì phải làm những công việc khác với mức lương không 
tương xứng 
GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính 
SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 6 
• Giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước và doanh nghiệp. 
2.3. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm 
Đối tượng được nhận bảo hiểm thất nghiệp là những người bị mất việc không do 
lỗi của cá nhân họ. Họ vẫn đang cố gắng tìm kiếm việc làm, sẵn sàng nhận công việc mới 
và luôn nỗ lực nhằm chấm dứt tình trạng thất nghiệp. Bảo hiểm thất nghiệp không áp 
dụng cho những người thất nghiệp vì tự ý bỏ việc hay những ngưòi vừa mới ra trường và 
chưa tìm được công ăn vịêc làm,những người thuộc vào diện thất nghiệp tự nhiên 
3. Hiệu quả và công bằng của BHTN 
3.1. Hiệu quả Pareto 
Theo Vilfredo Pareto, nhà kinh tế học người Ý, một sự phân bổ nguồn lực được gọi là 
đạt hiệu quả Pareto nếu như không có cách nào phân bổ lại các nguồn lực để làm ít nhất 
một người được lợi mà không phải làm thiệt hại đến bất kì ai. Nghĩa là, ngoài những 
người nhận được trợ cấp từ BHTN sẽ được lợi, mà những người tham gia BHTN mà 
không được nhận hoặc chưa được nhận những khoản trợ cấp này cũng không bị thiệt hại. 
3.2. Tính công bằng 
3.2.1. Tính công bằng ngang và công bằng dọc 
Khái niệm công bằng xã hội không hoàn toàn không đồng nhất, nó được hiểu ở 
nhiều khía cạnh khác nhau, tuy nhiên có thể hiểu ở hai cách sau: 
Thứ nhất, khái niệm công bằng ngang là sự đối xử như nhau đối với những người 
có tình trạng kinh tế như nhau (được xét theo một số tiêu chí nào đó như: thu nhập, hoàn 
cảnh gia đình, tôn giáo, dân tộc) 
Thứ hai, khái niệm công bằng dọc là đối xử khác nhau với những người có khác 
biệt bẩm sinh hoặc có tình trạng kinh tế ban đầu khác nhau nhằm khắc phục những khác 
biệt sẵn có. 
3.2.2. Phân phối lại thu nhập 
Phân phối lại thu nhập là hình thức điều tiết thu nhập tài sản trong xã hội nhằm tạo 
công bằng cho xã hội như lấy của người giàu chia cho người nghèo, trợ cấpvà bảo 
hiểm thất nghiệp chính là một chính sách phân phối lại thu nhập của chính phủ. 
GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính 
SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 7 
3.3. Mối quan hệ giữa hiệu quả và công bằng xã hội 
Có hai trường phái khác nhau về mối quan hệ giữa hiệu quả và công bằng xã hội: 
• Trường phái thứ nhất cho rằng hiệu quả và công bằng có mâu thuẫn, có 
nghĩa là nếu ưu tiên hiệu quả thì phải chấp nhận bất công và ngược lại. 
• Trường phái thứ hai cho rằng hiệu quả và công bằng không nhất thiết phải có 
mâu thuẫn, có nghĩa là không nhất thiết phải có sự đánh đổi giữa hiệu quả và 
công bằng. 
CHƯƠNG II : NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ BHTN Ở VIỆT NAM 
1. Những quy định chung về việc thực hiện BHTN ở Việt Nam 
Vấn đề bảo hiểm thất nghiệp hiện đang được điều chỉnh cơ bản bởi Nghị định số 
127/2008 NĐ – CP được Chính phủ ban hành ngày 12/12/2008 quy định chi tiết và 
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp với 
một số các nội dung cơ bản sau đây : 
1.1. Quy định về người lao động tham gia BHTN 
Người lao động tham gia BHTN là công dân Việt Nam giao kết các loại hợp đồng lao 
động với người sử dụng lao động gồm : hợp đồng lao động xác định thời hạn từ đủ mười 
hai tháng đến ba mươi sáu tháng; Hợp đồng lao động không xác định thời hạn; Hợp đồng 
làm việc xác định thời hạn từ đủ mười hai tháng đến ba mươi sáu tháng; Hợp đồng làm 
việc không xác định thời hạn. 
Người đang hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng có giao kết hợp 
đồng lao động, hợp đồng làm việc với người sử dụng lao động theo các loại hợp đồng 
trên không thuộc đối tượng tham gia BHTN 
1.2. Quy định về người sử dụng lao động tham gia BHTN 
Là người sử dụng lao động có sử dụng từ mười 10 người lao động trở lên tại các 
cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp : đơn vị Nhà nước; tổ chức chính trị xã hội; doanh 
nghiệp thành lập theo luật Doanh nghiệp, luật Đầu tư; các hợp tác xã thành lập theo luật 
Hợp tác xã; các hộ kinh doanh cá thể; các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động trển lãn ... ọ sẵn sàng tìm được công việc mới mà không bị áp 
lực tái thất nghiệp. 
1.2.2. Biến dạng lợi ích 
™ Các chủ sử dụng lao động né tránh đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động 
GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính 
SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 14 
So với BHXH, chủ sử dụng lao động phải đóng 16% thì nghĩa vụ đóng góp của 
BHTN là không lớn, doanh nghiệp chỉ trích 1% quỹ tiền lương, tiền công/tháng. Song 
với những đơn vị khó khăn, nợ đọng BHXH kéo dài, việc hàng tháng phải trích thêm 1 
khoản chi phí nữa để đóng cho NLĐ là một vấn đề lớn. Ngoài ra, mặc dù đã được tuyên 
truyền nhưng nhiều chủ sử dụng lao động vẫn chưa hiểu rõ quy định của pháp luật về 
BHTN, có tâm lý ngại tiếp xúc với các thủ tục hành chính, vẫn còn tình trạng doanh 
nghiệp nợ tiền đóng BHTN. Có đơn vị không đăng ký tham gia bảo hiểm thất nghiệp cho 
một số người lao động với lý do đơn vị sử dụng lao động tự coi người lao động đó là 
công chức hoặc đơn vị sự nghiệp không thực hiện chế độ Hợp đồng làm việc mà vẫn duy 
trì hình thức quyết định tuyển dụng, tự coi số lao động được tuyển dụng đó là công chức 
nên không đóng bảo hiểm thất nghiệp. 
™ Người lao động thiếu thông tin và thói quen chỉ lo mưu sinh trước mắt: 
Lao động Việt nam phần lớn là lao động trình độ trung bình thấp ít có điều kiện được 
tiếp cận với thông tin nên không biết sự xuất hiện của các chính sách của Chính phủ, 
không biết những quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Hơn nữa, họ không được chủ sử dụng 
tạo điều kiện để tiếp cận đầy đủ các chính sách về BHTN. Điều này càng tạo điều kiện 
cho các chủ doanh nghiệp có những hành vi né tránh, không đảm bảo quyền lợi cho 
người lao động. 
Mặt khác, một bộ phận người lao động có tâm lý không thích tham gia BHTN, bởi 
theo họ trong điều kiện giá cả ngày càng tăng, thu nhập không tăng, nên không muốn 
đồng lương của mình bị hao hụt, hoặc có nơi lao động tham gia đủ 12 tháng bảo hiểm 
thất nghiệp đã xin nghỉ việc để được hưởng trợ cấp thất nghiệp, sau khi lấy được tiền đã 
xin trở lại làm việc. 
™ Gian lận, tình trạng thất nghiệp “ ảo ” 
Thị trường lao động phía Nam phát triển mạnh, luôn biến động, số lượng lao động 
chuyển việc, nghỉ việc, thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động sau 12 tháng để hưởng 
trợ cấp thất nghiệp khá lớn. Đã xuất hiện tình trạng thất nghiệp “ảo”, mặc dù đang trong 
thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp nhưng thực tế vẫn đang làm việc tại doanh nghiệp 
khác, không khai báo cho cơ quan lao động. Hoặc thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao 
GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính 
SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 15 
động, sau đó ít tháng lại quay trở lại doanh nghiệp cũ để làm việc. Điều này không chỉ 
gây thất thoát cho quỹ BHTN mà còn ảnh hưởng đến tình hình sản xuất, kinh doanh của 
doanh nghiệp, do không ổn định về nhân lực. 
™ Tư tưởng nghỉ ngơi 
Số lượng người thất nghiệp có nhu cầu học nghề rất ít, nguyên nhân do thời gian học 
nghề không có tiền sinh hoạt, danh mục học nghề chưa đáp ứng được nhu cầu. Đặc biệt 
các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam việc làm dồi dào, tình trạng tuyển dụng trực tiếp 
tại doanh nghiệp “tràn lan”, nhưng người lao động có tư tưởng nghỉ ngơi, hưởng trợ cấp 
thất nghiệp sau đó đi làm nên ít có nhu cầu tư vấn hoặc học nghề. 
™ Khó khăn trong việc làm hồ sơ thủ tục 
Thời hạn đăng ký thất nghiệp trong 7 ngày là quá ngắn, gây sức ép về thời gian cho cả 
người lao động, cơ quan BHXH và Trung tâm giới thiệu việc làm, dẫn đến một số đối 
tượng thuộc diện được hưởng trợ cấp nhưng lại không được,đây chính là một trong 
những biến dạng không mong muốn của BHTN. 
1.3. Tổn thất xã hội 
Gọi P là phí bảo hiểm thất nghiệp, Q là lượng người tham gia bảo hiểm. Đường cung 
S nằm ngang do phí bảo hiểm là như nhau đối với tất cả các đối tượng và luôn ổn định 
mà nhu cầu bảo hiểm của xã hội thì rất lớn. 
Xã hội có quá nhiều lao động không tham gia BHTN trong khi khả năng rủi ro thất 
nghiệp là rất lớn và không thể dự đoán được. những người không may mắn sau khi bị mất 
việc, nếu không tham gia BHTN thì không có một khoản thu nhập, đảm bảo chi tiêu cho 
cuộc sống, lỡ lúc bệnh tất ốm đau. 
Trong số Q người lao động tham gia BHTN thì thực tế số người thuộc diện chi trả từ 
quỹ BHTN là nhỏ hơn Q do nguyên tắc bảo hiểm là lấy đông bù ít. 
Giả sử xã hội có Q người tham gia BHTN, là những người lao động bị thất 
nghiệp và có thể được hưởng chế độ trợ cấp của BHTN. Với lượng này thì tổng số 
phí BHTN họ đóng trong quá trình lao động là hình chữ nhật O C và tổng phúc lợi 
họ nhận được là phần diện tích nằm dưới đường cầu D và trên đường cung S. Tuy nhiên, 
do xã hội có nhiều lao động không thể lường trước được hết những rủi ro có thể xảy ra 
GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính 
SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 16 
nên chỉ có một lượng người ít hơn Q tham gia bảo hiểm và chỉ có số lượng người Q2 (Q2 
< Q1) được chi trả bảo hiểm. Phí đóng bảo hiểm của những người lao động nhận trợ cấp 
 này là hình chữ nhật P1A O và phúc lợi xã hội nhận được là phần giới hạn bởi D’ 
và S. 
Đường cầu D dịch chuyển xuống D’ dẫn tới tổn thất phúc lợi xã hội là tam giác ABC. 
Như vậy, do rủi ro đạo đức và chênh lệch thông tin từ phía người lao động dẫn tới tổn 
thất xã hội. 
2. Đánh giá công bằng của BHTN 
Việc chi trả BHTN nói riêng và BH nói chung đều dựa trên nguyên tắc lấy đông bù 
ít, chia sẻ rủi ro giữa các đối tượng trong xã hội, BHTN chia sẻ rủi ro giữa người có việc 
làm với người bị mất việc làm. Chính vì vây, công bằng của BHTN là sự phân phối lại, 
phân phối giữa người có thu nhập và người không có thu nhập tạo nên công bằng xã hội, 
giúp những người bị mất việc có một khoản thu nhập để bù đắp các khoản chi tiêu cho 
cuộc sống trong khoảng thời gian tìm việc mới, đồng thời hỗ trợ NLĐ tìm được công việc 
mới phù hợp với bản thân. Đây chính là một trong những chính sách nhằm hướng tới 
mục tiêu an sinh xã hội, bảo đảm quyền lợi cho người lao động trong thời gian tạm thời 
mất việc làm. An sinh xã hội ở đây chính là sự bảo vệ, trợ giúp của Nhà nước, cộng đồng 
đối với những người “ yếu thế ” trong xã hội khi họ gặp rủi ro mất việc làm, chính điều 
GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính 
SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 17 
này là sự động viên khuyến khích họ vươn lên khắc phục những khó khăn, có cơ hội phát 
triển, hòa nhập vào cộng đồng, nhằm xây dựng một xã hội nhân ái, công bằng. 
Bảo hiểm thất nghiệp dựa trên nguyên tắc người lao động bình đẳng trong nghĩa 
vụ đóng góp và quyền lợi mình được hưởng BHTN. Thông qua hoạt động, Quỹ bảo hiểm 
xã hội tham gia vào việc phân phối và phân phối lại thu nhập xã hội giữa những người 
lao động may mắn và không may mắn, giữa những người có việc làm và những người 
không có việc làm. Vì vậy, bảo hiểm xã hội góp phần thực hiện công bằng xã hội, giảm 
bớt khoảng cách giàu nghèo trong xã hội. 
Tính công bằng ngang của BHTN thể hiện ở chỗ mọi đối tượng tham gia BHTN 
đều phải đóng một mức phí bảo hiểm như nhau khi gặp rủi ro thì được hưởng lợi ích từ 
BH theo mức quy đinh. Tính công bằng dọc đòi hỏi cần có sự chuyển giao cho người 
kém may mắn hơn, đó là những người gặp những rủi ro xã hội, không may bị mất việc 
làm. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít, BHTN thực hiện phân phối lại thu nhập 
theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối phải đảm bảo công bằng, nghĩa là đòi hỏi 
những khoản phí cá nhân nộp vào hệ thống quỹ phù hợp với những gì họ nhận được. 
Hoạt động BHXH nói chung không vì mục tiêu lợi nhận mà hoạt động vì mục đích 
bảo đảm sự phát triển lâu bền của nền kinh tế, góp phần ổn định và tiến bộ xã hội. BHTN 
mang tính chất nhân đạo, nhân văn sâu sắc, là một chính sách vì mục tiêu an sinh, đảm 
bảo công bằng xã hội của đất nước. 
3. Sự đánh đổi giữa hiệu quả và công bằng trong BHTN 
Ta thấy răng, nếu lý do chính của việc người thất nghiệp không kiếm được việc làm là do 
không có việc làm, thì mức trợ cấp thất nghiệp sẽ có tác động lên việc tìm kiếm việc làm. 
Xét hai trường hơp : 
• Nếu bảo hiểm thất nghiệp có ít ảnh hưởng đến quá trình tìm việc làm thì 
không có nhiều đánh đổi lắm giữa hiệu quả và công bằng. 
• Ngược lại, nếu tìm việc làm rất nhạy bén với bảo hiểm thất nghiệp thì sẽ có 
sự đánh đổi đáng kể giữa hiệu quả và công bằng. 
Đây chỉ là phân tích mang tính định tính, để có thể nhận định sự đánh đổi giữa 
hiệu quả và công bằng ở Việt Nam như thế nào, thì chúng ta nên xây dựng mô hình, khảo 
GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính 
SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 18 
sát những người lao động được hưởng BHTN, để đánh giá mối liên hệ giữa quá trình tìm 
việc làm và BHTN như thế nào. 
CHƯƠNG IV : GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA BHTN 
1. Đối với nhà nước và các cơ quan ban ngành 
Một là, tăng cường tuyên truyền chính sách về BHTN đến tận chủ sử dụng lao động 
và người lao động thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, hội thảo, tọa đàm, phổ 
biến chính sách ở các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động và các khu công nghiệp 
nhằm nâng cao nhận thức của chủ sử dụng lao động cũng như bản thân người lao động về 
chính sách BHTN, quy trình thủ tục tham gia, các chế độ thụ hưởng BHTN như hỗ trợ 
học nghề, hỗ trợ tìm việc làm, bảo hiểm y tế 
Hai là, đẩy mạnh sự phối hợp giữa ngành Lao động – Thương binh và Xã hội và 
ngành Bảo hiểm xã hội nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình thực hiện như 
ban hành văn bản hướng dẫn kịp thời, phù hợp với tình hình thực tế, xác định đối tượng 
đóng BHTN, xác định rõ những người có việc làm thôi hưởng trợ cấp thất nghiệp. Đồng 
thời, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của ngành và liên ngành, kiên quyết xử lý 
những doanh nghiệp cố tình trốn đóng BHTN hoặc những trường hợp doanh nghiệp, 
người lao động có hiện tượng gian lận trong thụ hưởng chế độ BHTN. 
Ba là, cần phát huy vai trò của tổ chức công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi cho 
người lao động cùng với sự phối hợp của các cấp, các ngành trong việc tuyên truyền 
chính sách về BHTN cũng như giám sát việc thực hiện BHTN. 
Bốn là, Tăng cường công tác đào tạo cán bộ, đặc biệt cán bộ mới nhận công tác phải 
có cán bộ hướng dẫn khi thực hiện công việc và có đánh giá cụ thể. Nâng cao năng lực 
của các cơ sở đào tạo nghề và đa dạng hóa ngành nghề đào tạo đặc biệt quan tâm đối 
tượng là lao động phổ thông. 
2. Đối với người lao động 
Người lao động cần chủ động tìm hiểu nắm được chính sách BHTN, tích cực tham gia 
các cuộc hội thảo, tạo đàm hoặc phổ biến chính sách về BHTN để yêu cầu về quyền lợi 
tham gia BHTN khi ký kết hợp đồng với chủ sử dụng lao động, biết được quy trình, thủ 
tục khi thụ hưởng chế độ BHTN. 
GVHD: TSKH . Phạm Đức Chính 
SVTH : Hoàng Thị Dung  Page 19 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
--------------()-------------- 
1. TSKH. Phạm Đức Chính (2010), “Bài giảng môn Kinh Tế Học Công Cộng”, 
Trường Đại Học Kinh Tế - Luật. 
2. Joseth E. Stiglitz (1995), “Kinh Tế Học Công Cộng”, Nhà xuất bản Khoa học kỹ 
thuật 
3. 
MON-KINH-T%E1%BA%BE-CONG-C%E1%BB%98NG 
nghiep-cua-viet-nam-hien-tai-va-tuong-lai.html 
viet-nam-thuc-trang-va-giai-phap.html 
den-bao-hiem-that-nghiep-888998/ 
Email 

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_hieu_qua_va_cong_bang_cua_bao_hiem_that_nghiep_o_v.pdf