Luận văn Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn

Hợp đồng dân sự là một loại giao dịch dân sự và cũng là một trong những phương thức hữu hiệu cho cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, hợp tác xã, xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình nhằm thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng và trong sản xuất. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta trong giai đoạn hiện nay thì hợp đồng dân sự càng có ý nghĩa hơn nữa.

Hiện nay, Việt Nam đang trên đà phát triển kinh tế xã hội, và việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã mở ra vô vàn cơ hội nhưng cũng đặt ra không ít những khó khăn, thách thức, chính điều này đòi hỏi pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật dân sự nói riêng phải hoàn thiện để đáp ứng các nhu cầu thực tế xảy ra. Hơn nữa, các tranh chấp về hợp đồng dân sự cũng ngày một gia tăng và mức độ ngày càng phức tạp thì đòi hỏi pháp luật về hợp đồng dân sự phải hoàn thiện để giải quyết một cách triệt để.

Xuất phát từ lý do đó, pháp luật dân sự nước ta đã quy định khá đầy đủ, chặt chẽ và cụ thể về việc xác lập, thực hiện hợp đồng dân sự thông qua quy định về giao dịch dân sự cũng như việc quyết định các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu. Những quy định này của pháp luật dân sự đã tạo ra một khung hành lang pháp lý cho các chủ thể tham gia vào hợp đồng dân sự được thuận tiện hơn, đặc biệt khi có tranh chấp xảy ra thì đây là cơ sở để giải quyết tranh chấp.

doc 36 trang Minh Tâm 31/03/2025 40
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Luận văn Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn

Luận văn Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn
 Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn
 LỜI MỞ ĐẦU
 1. Tính cấp thiết của đề tài
 Hợp đồng dân sự là một loại giao dịch dân sự và cũng là một trong những 
phương thức hữu hiệu cho cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, hợp tác xã, xác lập và 
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình nhằm thỏa mãn các nhu cầu trong sinh 
hoạt, tiêu dùng và trong sản xuất. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường theo 
định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta trong giai đoạn hiện nay thì hợp đồng 
dân sự càng có ý nghĩa hơn nữa. 
 Hiện nay, Việt Nam đang trên đà phát triển kinh tế xã hội, và việc gia nhập 
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã mở ra vô vàn cơ hội nhưng cũng đặt ra 
không ít những khó khăn, thách thức, chính điều này đòi hỏi pháp luật Việt Nam 
nói chung và pháp luật dân sự nói riêng phải hoàn thiện để đáp ứng các nhu cầu 
thực tế xảy ra. Hơn nữa, các tranh chấp về hợp đồng dân sự cũng ngày một gia 
tăng và mức độ ngày càng phức tạp thì đòi hỏi pháp luật về hợp đồng dân sự phải 
hoàn thiện để giải quyết một cách triệt để.
 Xuất phát từ lý do đó, pháp luật dân sự nước ta đã quy định khá đầy đủ, chặt 
chẽ và cụ thể về việc xác lập, thực hiện hợp đồng dân sự thông qua quy định về 
giao dịch dân sự cũng như việc quyết định các trường hợp giao dịch dân sự vô 
hiệu. Những quy định này của pháp luật dân sự đã tạo ra một khung hành lang 
pháp lý cho các chủ thể tham gia vào hợp đồng dân sự được thuận tiện hơn, đặc 
biệt khi có tranh chấp xảy ra thì đây là cơ sở để giải quyết tranh chấp.
 Thực tiễn cho thấy, ngành toà án cũng đã giải quyết những vụ án về hợp 
đồng dân sự vô hiệu. Trong đó, hợp đồng dân sự do giả tạo là một trong những 
loại giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm ý chí chủ thể gây nhiều tranh cãi và khó 
khăn trong quá trình áp dụng pháp luật hiện nay. Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 
ngày 14/6/2005 của Quốc hội (“BLDS”) quy định về giao dịch dân sự tại Chương 
VI của Phần thứ nhất, từ Điều 121 đến Điều 138, trong đó giao dịch dân sự do giả 
tạo được quy định cụ thể tại Điều 129. Do các quy định của pháp luật hiện hành 
GVHD: Tăng Thanh Phương Trang 1 SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Phương Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn
về vấn đề này chủ yếu dừng lại ở nhiều cách hiểu khác nhau về giao dịch dân sự 
do giả tạo và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự do giả tạo. Từ 
đó dẫn đến tình hình vi phạm pháp luật về hợp đồng dân sự do giả tạo đang có 
nhiều chiều hướng gia tăng và phức tạp. Toà án cũng gặp không ít khó khăn trong 
quá trình giải quyết các vụ án khiếu kiện về hợp đồng dân sự do giả tạo. Có nhiều 
vụ án đã được xét xử nhiều lần nhưng vẫn còn nhiều thắc mắc, nhiều quan điểm 
khác nhau gây nhiều tranh luận phức tạp.
 2. Mục đích nghiên cứu đề tài
 Từ việc nhận thức được tầm quan trọng cũng như thấy rõ những bất cập hiện 
hữu liên quan đến hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo, người viết chọn vấn đề 
“Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn” làm nội dung chính 
cho đề tài. Với đề tài, người viết mong muốn có thể góp phần làm sáng tỏ những 
quy định về yếu tố vô hiệu do giả tạo của hợp đồng dân sự và hậu quả pháp lý khi 
hợp đồng vô hiệu cũng như thực trạng, thực tiễn áp dụng pháp luật hiện nay, để từ 
đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm từng bước hoàn thiện pháp luật. 
 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
 Đề tài tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật về hợp đồng dân 
sự vô hiệu, hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu và thực tiễn xác định, 
xử lý hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của BLDS hiện hành.
 Bên cạnh đó, sau gần 10 năm thi hành thì thực tiễn đã chứng minh rằng 
BLDS đã có những tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất 
nước cũng như đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ 
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động. Trong giai 
đoạn phát triển mới của đất nước hiện nay, BLDS hiện hành cũng cần được xem 
xét sửa đổi, bổ sung thích hợp, đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi mới, cụ thể hóa 
các quy định của Hiến pháp 2013 liên quan đến bảo vệ quyền con người, quyền 
công dân và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và 
hội nhập quốc tế. Vì lẽ đó, trong đề tài này thì người viết sẽ mở rộng phạm vi 
nghiên cứu đến Dự thảo Bộ luật Dân sự được trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp 
thứ 10 Quốc hội khóa XIII (“Dự thảo BLDS”) để nhằm đưa ra những kiến nghị 
GVHD: Tăng Thanh Phương Trang 2 SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Phương Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn
cần thiết, phù hợp với thực tiễn về hợp đồng dân sự vô hiệu trong suốt thời gian 
vừa qua.
 4. Phương pháp nghiên cứu
 Trong quá trình nghiên cứu đề tài người viết đã áp dụng một số phương pháp 
nghiên cứu như sau:
 Phương pháp nghiên cứu lý luận trên tài liệu, sách: nhằm nghiên cứu các cơ 
sở lí luận về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự, hợp đồng dân sự vô hiệu ..
 Phương pháp phân tích luật viết: đặc biệt là nghiên cứu những quy định của 
pháp luật điều chỉnh về hợp đồng dân sự vô hiệu, hợp đồng dân sự vô hiệu do giả 
tạo được quy định trong các đạo luật và các văn bản có liên quan.
 Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp: nhằm tìm ra những điểm chung, 
khác biệt khi tiếp cận các vấn đề cần nghiên cứu trong luận văn.
 Phương pháp sưu tầm số liệu thực tế: bằng cách tìm trên mạng Internet, giáo 
trình, tìm kiếm số liệu ở các cơ quan tiến hành tố tụng dân sự để giúp cho 
người viết có nguồn thông tin chính xác đối với các trường hợp về hợp đồng dân 
sự vô hiệu do giả tạo.
 5. Bố cục của đề tài 
 Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung đề tài được chia làm 03 chương:
 Chương 1: Lý luận chung về hợp đồng dân sự vô hiệu.
 Chương 2: Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo và hậu quả pháp lý của hợp 
đồng dân sự vô hiệu do giả tạo.
 Chương 3: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về giao dịch 
dân sự do giả tạo – một số kiến nghị cụ thể.
GVHD: Tăng Thanh Phương Trang 3 SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Phương Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn
 CHƯƠNG 1
 LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ GIẢ TẠO
 1.1. Khái quát chung về hợp đồng dân sự 
 1.1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự
 1.1.1.1. Khái niệm
 Để tồn tại và phát triển, mỗi cá nhân cũng như mỗi tổ chức phải tham gia 
nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau. Trong đó, việc các bên thiết lập với nhau 
những quan hệ để qua đó chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất nhằm đáp ứng 
nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, đóng một vai trò quan trọng, là một tất yếu đối với 
mọi đời sống xã hội. Tuy nhiên, việc chuyển giao các lợi ích vật chất đó không 
phải tự nhiên hình thành bởi tài sản (vốn là hiện thân của các lợi ích vật chất) 
không thể tự tìm đến với nhau để thiết lập các quan hệ. Các quan hệ tài sản chỉ 
được hình thành từ những hành vi có ý chí của các chủ thể. 1 Mặt khác, nếu chỉ có 
một bên thể hiện ý chí của mình mà không được bên kia chấp nhận cũng không 
thể hình thành một quan hệ để qua đó thực hiện việc chuyển giao tài sản hoặc làm 
một công việc đối với nhau được. Do đó, chỉ khi nào có sự thể hiện và thống nhất 
ý chí giữa các bên thì quan hệ trao đổi lợi ích vật chất mới được hình thành. Quan 
hệ đó được gọi là hợp đồng dân sự. 
 Tuy nhiên, hợp đồng đó chỉ có hiệu lực pháp luật (chỉ được pháp luật công 
nhận và bảo vệ) khi ý chí của các bên phù hợp với ý chí của Nhà nước. Các bên 
được tự do thoả thuận để thiết lập hợp đồng nhưng sự tự do ấy phải được đặt 
trong giới hạn bởi lợi ích của người khác, lợi ích chung của xã hội và trật tự công 
cộng. 
 Khái niệm về hợp đồng dân sự cần phải được xem xét ở nhiều phương diện 
khác nhau. 
1 Các-Mác cho rằng: “Tự chúng, hàng hóa không thể đi đến thị trường và trao đổi với nhau được. 
 Muốn cho những vật đó trao đổi với nhau thì những người giữ chúng phải đối xử với nhau như 
 những người mà ý chí nằm trong các vật đó”. 
GVHD: Tăng Thanh Phương Trang 4 SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Phương Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn
 Theo phương diện khách quan thì hợp đồng dân sự là do các quy phạm pháp 
luật của Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong 
quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau.
 Theo phương diện chủ quan, hợp đồng dân sự là một giao dịch dân sự mà 
trong đó các bên tự trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thoả thuận để cùng 
nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định. Theo phương diện 
này, hợp đồng dân sự vừa được xem xét ở dạng cụ thể vừa được xem xét ở dạng 
khái quát. 
 Nếu định nghĩa dưới dạng cụ thể thì: “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận 
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của 
các bên trong mua bán, thuê, vay, mượn, tặng, cho tài sản, làm một việc hoặc 
không làm một việc, dịch vụ hoặc các thoả thuận khác mà trong đó một hoặc các 
bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng” 2. Sự liệt kê cụ thể bao giờ cũng 
rơi vào tình trạng không đầy đủ và để quy định của pháp luật có thể bao trùm 
được toàn bộ các hợp đồng dân sự xảy ra trong thực tế, BLDS đã định nghĩa nó ở 
dạng khái quát hơn: “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác 
lập, thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự” 3. Như vậy, hợp đồng 
dân sự không chỉ là sự thoả thuận để một bên chuyển giao tài sản, thực hiện một 
công việc cho bên kia mà có thể còn là sự thoả thuận để thay đổi hay chấm dứt 
các nghĩa vụ đó. 
 Ngoài ra, cần phải nói thêm rằng xét về nội dung kinh tế sẽ khó phân biệt 
giữa một hợp đồng dân sự với một hợp đồng kinh tế nếu nội dung của chúng đều 
là sự mua bán và trao đổi các lợi ích vật chất. Tuy nhiên, yêu cầu của quá trình 
tiến hành tố tụng trong việc giải quyết các tranh chấp từ hợp đồng, đòi hỏi cần 
phải có sự phân biệt rạch ròi giữa một hợp đồng thương mại với một hợp đồng 
dân sự. Trong thực tế có rất nhiều hợp đồng không thể phân biệt được là hợp 
đồng thương mại hay hợp đồng dân sự. Để có thể phân biệt được hai loại hợp 
đồng này phải xác định được cụ thể mục đích của từng loại hợp đồng. Nếu các 
2 Điều 1 Pháp lệnh Hợp đồng Dân sự năm 1991.
3 Điều 388 BLDS.
GVHD: Tăng Thanh Phương Trang 5 SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Phương Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn
bên chủ thể (hoặc ít nhất có một bên) tham gia hợp đồng với mục đích thoả mãn 
nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng thì hợp đồng đó được xác định là hợp đồng dân sự. 
Vì vậy, chỉ được coi là hợp đồng thương mại khi các bên chủ thể tham gia đều 
nhằm mục đích kinh doanh. Tuy nhiên, mục đích tham gia cũng chỉ là một cơ sở 
mang tính tương đối trong việc phân biệt giữa hai loại hợp đồng vì rằng có những 
hợp đồng cả hai bên đều mang mục đích kinh doanh nhưng không thể coi đó là 
hợp đồng thương mại được nếu có một bên chủ thể là cá nhân không có đăng kí 
kinh doanh.
 1.1.1.2. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự
 Theo quy định tại Điều 390 BLDS, khi giao kết hợp đồng các chủ thể phải 
tuân theo các nguyên tắc sau đây:
 - Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.
 Nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể thoả mãn được các nhu cầu về đời sống 
vật chất cũng như tinh thần, BLDS cho phép mọi chủ thể được quyền “tự do giao 
kết hợp đồng”. Theo nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ tư cách chủ 
thể đều có quyền tham gia giao kết bất kì một hợp đồng dân sự nào, nếu họ muốn 
mà không ai có quyền ngăn cản. Bằng ý chí tự do của mình, các chủ thể có quyền 
giao kết những hợp đồng dân sự đã được pháp luật quy định cụ thể cũng như 
những hợp đồng dân sự khác dù rằng pháp luật chưa quy định. Tuy nhiên, sự tự 
do ý chí đó phải nằm trong một khuôn khổ nhất định. Bên cạnh việc chú ý đến 
quyền lợi của mình, các chủ thể phải hướng tới việc bảo đảm quyền lợi của những 
người khác cũng như lợi ích của toàn xã hội. Vì vậy, tự do của mỗi chủ thể phải 
không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Nằm trong mối liên hệ tương ứng giữa 
quyền và nghĩa vụ, mỗi một chủ thể vừa có quyền “tự do giao kết hợp đồng” vừa 
có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật và đạo đức xã hội. Lợi ích của cộng đồng (được 
quy định bằng pháp luật) và đạo đức xã hội được coi là sự giới hạn ý chí tự do 
của mỗi một chủ thể trong việc giao kết hợp đồng dân sự nói riêng, cũng như đối 
với mọi hành vi nói chung của họ.
GVHD: Tăng Thanh Phương Trang 6 SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Phương Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn
 Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tính cộng đồng và đạo đức xã hội không cho 
phép các cá nhân được tự do ý chí tuyệt đối để biến các hợp đồng dân sự thành 
phương tiện bóc lột.
 - Các bên tự nguyện và bình đẳng trong giao kết hợp đồng.
 Nguyên tắc này thể hiện bản chất của quan hệ dân sự. Quy luật giá trị đòi hỏi 
các bên khi thiết lập các quan hệ trao đổi phải bình đẳng với nhau. Không một ai 
được lấy lí do khác biệt về thành phần xã hội, dân tộc, giới tính, tôn giáo, hoàn 
cảnh kinh tế v.v. để làm biến dạng các quan hệ dân sự. Mặt khác, chỉ khi nào các 
bên bình đẳng với nhau về mọi phương diện trong giao kết hợp đồng thì ý chí tự 
nguyện của các bên mới thật sự được bảo đảm. Vì vậy, theo nguyên tắc trên, 
những hợp đồng được giao kết thiếu bình đẳng và không có sự tự nguyện của các 
bên sẽ không được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, đánh giá một hợp đồng có 
phải là ý chí tự nguyện của các bên hay không là một công việc tương đối phức 
tạp và khó khăn trong thực tế.
 Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận thống nhất ý chí của các chủ thể tham gia. 
Vì thế, muốn xem xét các chủ thể có tự nguyện trong giao kết hợp đồng hay 
không, cần phải dựa vào sự thống nhất biện chứng giữa hai phạm trù: Ý chí và sự 
bảy tỏ ý chí. Như chúng ta đã biết, ý chí là mong muốn chủ quan bên trong của 
mỗi một chủ thể. Nó phải được bày tỏ ra bên ngoài thông qua một hình thức nhất 
định. Ý chí và sự bày tỏ ý chí là hai mặt của một vấn đề, chúng luôn có quan hệ 
mật thiết, gắn bó khăng khít với nhau.
 Ý chí tự nguyện chính là sự thống nhất giữa ý muốn chủ quan bên trong và 
sự bày tỏ ý chí đó ra bên ngoài. Vì vậy, để xác định một hợp đồng dân sự có tuân 
theo nguyên tắc tự nguyện hay không cần phải dựa vào sự thống nhất ý chí của 
người giao kết hợp đồng và sự thể hiện (bày tỏ) ý chí đó trong nội dung của hợp 
đồng mà người đó đã giao kết. Chỉ khi nào hợp đồng là hình thức phản ánh một 
cách khách quan, trung thực những mong muốn bên trong của các bên giao kết thì 
việc giao kết đó mới được coi là tự nguyện.
 1. 2. Khái quát về hợp đồng dân sự vô hiệu
 1.2. 1. Khái niệm 
GVHD: Tăng Thanh Phương Trang 7 SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Phương Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn
 Hợp đồng vô hiệu là những hợp đồng không tuân thủ các điều kiện có hiệu 
lực do pháp luật quy định nên không tồn tại theo quy định của pháp luật, không 
có hiệu lực pháp lý mặc dù hợp đồng đó được xác lập, các bên có thể chưa thực 
hiện, đang thực hiện hay đã thực hiện xong quyền và nghĩa vụ như cam kết nhưng 
khi xác định là HĐVH thì mọi cam kết đã, đang thực hiện thì đều không phải là 
các quyền và nghĩa vụ được pháp luật bảo vệ. Vậy hợp đồng vô hiệu là khi xác 
lập các bên đã có vi phạm ít nhất một trong các điều kiện có hiệu lực do pháp luật 
quy định dẫn đến hậu quả pháp lý là không làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ 
dân sự nào.
 Khi tìm hiểu về hợp đồng dân sự vô hiệu thiết nghĩ cần phải có sự phân biệt 
rạch ròi với trường hợp hợp đồng dân sự mất hiệu lực. Theo đó, hợp đồng dân sự 
vô hiệu là hợp đồng không có hiệu lực ở ngay thời điểm giao kết. Còn hợp đồng 
mất hiệu lực là hợp đồng có hiệu lực ở thời điểm ký kết nhưng hợp đồng bị mất 
hiệu lực là do rơi vào tình trạng không thể thực hiện được. Tình trạng mất hiệu 
lực của hợp đồng dân sự có thể do một bên vi phạm, dẫn đến bên vi phạm yêu cầu 
huỷ hợp đồng hoặc các bên tự thoả thuận với nhau chấm dứt hiệu lực của hợp 
đồng hoặc do trở ngại khách quan nào khác.
 1.2.2. Đặc điểm 
 Căn cứ quy định của BLDS thì những quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu 
được hiểu và vận dụng giống như là giao dịch dân sự vô hiệu 4. Vậy đặc điểm 
chung của các hợp đồng vô hiệu là không đáp ứng các điều kiện theo quy định 
của pháp luật. Khi hợp đồng vô hiệu các bên phải gánh chịu hậu quả pháp lý nhất 
định có thể bất lợi về vật chất hoặc tinh thần như không đạt được mục đích đã xác 
định nếu chưa thực hiện được thì sẽ không thực hiện được tiếp, nếu đang thực 
hiện thì phải chấm dứt việc thực hiện đó để quay trở lại tình trạng ban đầu hoàn 
trả cho nhau những gì đã nhận5. Người viết đi vào phân tích các đặc điểm sau đối 
với hợp đồng dân sự vô hiệu:
4 Khoản 1 Điều 410 BLDS.
5 Khoản 2 Điều 137 BLDS.
GVHD: Tăng Thanh Phương Trang 8 SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Phương Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn
 1.2.2.1. Không đáp ứng được các điều kiện theo quy định của pháp luật với 
hợp đồng vô hiệu
 - Về năng lực hành vi dân sự của người tham gia hợp đồng: 
 Bản chất của hợp đồng dân sự là sự thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí của các 
chủ thể tham gia hợp đồng nhưng không phải ai cũng có quyền tham gia vào bất 
kỳ loại hợp đồng nào mà chỉ có các chủ thể được pháp luật cho phép mới có thể 
được tham gia. Trong một số trường hợp thì một số chủ thể chỉ được tham gia 
trong giới hạn của một số quan hệ quan hệ dân sự nhất định. Khi các chủ thể tham 
gia quan hệ hợp đồng phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự mà 
năng lực pháp luật là vốn có của chủ thể mà pháp luật quy định cho các chủ thể 
có quyền như nhau: mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau. 
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi 
người đó chết6. Còn năng lực hành vi thì pháp luật căn cứ vào khả năng nhận biết 
hành vi của từng con người cụ thể. 
 - Mục đích và nội dung của các hợp đồng không đáp ứng đủ yêu cầu của 
pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội: 
 Trong chế định hợp đồng dân sự, các chủ thể có quyền tự do thể hiện ý chí 
của mình, tự do trong việc quyết định nội dung, hình thức của giao dịch, thể hiện 
khi xác lập hợp đồng các chủ thể có quyền tự do lựa chọn đối tác, tự do thoả 
thuận nội dung của hợp đồng, hình thức giao kết. Nhưng sự tự do không mang 
tính tuyệt đối mà bị ràng buộc bởi khuôn khổ pháp luật. Sự ràng buộc này hạn chế 
sự tự do của các chủ thể khi tham gia xác lập hợp đồng. Chủ thể không tuân theo 
sự hạn chế của pháp luật dẫn tới hợp đồng vô hiệu. 
 + Mọi thoả thuận không trái với pháp luật. 
 + Mọi thoả thuận không được trái với đạo đức xã hội. Không trái với pháp 
luật thì rõ nhưng không trái với đạo đức xã hội là một vấn đề phức tạp vì khái 
niệm đạo đức là một khái niệm trừu tượng. 
 Khái niệm đạo đức xã hội được luật hóa như sau: “Đạo đức xã hội là những 
chuẩn mực ứng xử giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng 
6 Khoản 2, 3 Điều 14 BLDS.
GVHD: Tăng Thanh Phương Trang 9 SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Phương Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo – Lý luận và thực tiễn
thừa nhận”7. Tuy nhiên, các nhà làm luật không quy định cụ thể trường hợp nào 
là vi phạm. Chính vì vậy mà khi xác định nội dung của khái niệm đạo đức thường 
được xem trong mối quan hệ với án lệ, nhưng về lý thuyết thì Nhà nước ta chưa 
thừa nhận án lệ. Chính vì thế trong thực tiễn hiện nay quy định này đã gây ra 
không ít khó khăn trong việc áp dụng. 
 - Chủ thể tham gia xác lập hợp đồng không tự nguyện:
 Sự tự nguyện khi giao kết hợp đồng là một yếu tố cơ bản và không thể thiếu 
được trong hợp đồng dân sự. VÌ vậy các chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng 
phải thể hiện ý chí đích thực của mình. Mọi thoả thuận không phản ánh đúng ý 
chí cuả các bên đều có thể dẫn đến hợp đồng vô hiệu. Ý chí của chủ thể là thể 
hiện mong muốn của mình ra bên ngoài trong khuôn khổ pháp luật cho phép mà 
không bị sự ép buộc nào. 
 - Hình thức hợp đồng không đúng quy định của pháp luật: 
 Để đảm bảo cho trật tự xã hội, lợi ích của Nhà nước và cá nhân khi tham gia 
giao kết hợp đồng, ngoài việc các chủ thể tham gia xác lập hợp đồng phải thể hiện 
ý chí của mình còn phải tuân theo các quy định của pháp luật về hình thức đối với 
một số loại hợp đồng nhất định. Thông qua các biểu hiện về hình thức này người 
khác có thể phần nào biết được nội dung của hợp đồng. Việc quy định một số loại 
giao dịch cần phải tuân theo các quy định về hình thức dưạ trên cơ sở là đối tượng 
của các loại hợp đồng này có giá trị lớn hoặc có tính năng đặc biệt nên hình thức 
của hợp đồng là căn cứ xác đinh nội dung của hợp đồng. Mặt khác, với những 
quy đinh này còn là cơ sở để các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kiểm tra giám 
sát việc chuyển dịch các tài sản này. 
 1.2.2.2. Các bên tham gia hợp đồng phải gánh chịu hậu quả pháp lý nhất 
định
 Một khi hợp đồng vô hiệu thì: “ các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, 
hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả bằng hiện vật thì phải 
hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị 
tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường 8”. 
7 Điều 128 BLDS.
GVHD: Tăng Thanh Phương Trang 10 SVTH: Nguyễn Thị Mỹ Phương

File đính kèm:

  • docluan_van_hop_dong_dan_su_vo_hieu_do_gia_tao_ly_luan_va_thuc.doc