Đề tài Thực trạng áp dụng SA8000 tại Công ty cổ phần tập đoàn Thái Tuấn

Thế kỷ XX đã khép lại, thế kỷ XXI đã mở ra cùng với bao sự kiện trọng đại khác. Vì vậy, chính sách đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện, thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt nam diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh. Cùng với việc ban hành chính sách đầu tư nước ngoài và một loạt các văn bản pháp luật hỗ trợ quá trình hội nhập, việc Việt Nam cam kết thực hiện AFTA trong khối ASEAN, gia nhập diễn đàn APEC, mở rộng quan hệ thương mại và đầu tư với EU,Nhật Bản, kí hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa kì và gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO đã mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam nhiều cơ hội cũng như thách thức cùng với những “ luật chơi” mới. Một trong những điều kiện mới đó là “trách nhiệm xã hội” của doanh nghiệp.

Nhận thức được tầm quan trọng của trách nhiệm xã hội đối với các doanh nghiệp , đặc biệt là các doanh nghiệp dệt may trong giai đoạn hiện nay nên tôi quyết định chọn đề tài : “THỰC TRẠNG ÁP DỤNG SA8000 TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN THÁI TUẤN” làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề chuyên sâu với mục đích tìm hiểu thực trạng áp dụng trách nhiệm xã hội của công ty để từ đó đưa ra một số giải pháp kiến nghị nhằm giúp cho doanh nghiệp hoàn thiện hơn trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội.

doc 28 trang Minh Tâm 28/03/2025 580
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Thực trạng áp dụng SA8000 tại Công ty cổ phần tập đoàn Thái Tuấn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề tài Thực trạng áp dụng SA8000 tại Công ty cổ phần tập đoàn Thái Tuấn

Đề tài Thực trạng áp dụng SA8000 tại Công ty cổ phần tập đoàn Thái Tuấn
 GVHD : Nguyễn Ngọc Tuấn
 MỤC LỤC
PHẦN I. PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................1
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI...........................................................................................1
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU....................................................1
III. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN.....................................................2
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU....................................................................11
PHẦN II . THỰC TRẠNG THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA CÔNG 
TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN THÁI TUẤN.............................................................12
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY ..............................................................12
II. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG SA8000..................................................................18
III. KHÓ KHĂN VÀ THÁCH THỨC...................................................................22
IV. NHỮNG THÀNH QUẢ SA8000 MANG LẠI ................................................23
V. NHẬN XÉT .........................................................................................................24
PHẦN III. KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN..............................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO
 0
 SVTH : Ngô Thị Ánh Vân 
 GVHD : Nguyễn Ngọc Tuấn
 I. PHẦN MỞ ĐẦU
I.Lý do chọn đề tài
Thế kỷ XX đã khép lại, thế kỷ XXI đã mở ra cùng với bao sự kiện trọng đại khác. Vì 
vậy, chính sách đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước đã tạo điều 
kiện, thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt nam diễn ra với tốc độ ngày 
càng nhanh. Cùng với việc ban hành chính sách đầu tư nước ngoài và một loạt các văn 
bản pháp luật hỗ trợ quá trình hội nhập, việc Việt Nam cam kết thực hiện AFTA trong 
khối ASEAN, gia nhập diễn đàn APEC, mở rộng quan hệ thương mại và đầu tư với 
EU,Nhật Bản, kí hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa kì và gia nhập tổ chức thương 
mại thế giới WTO đã mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam nhiều cơ hội cũng như 
thách thức cùng với những “ luật chơi” mới. Một trong những điều kiện mới đó là 
“trách nhiệm xã hội” của doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của trách nhiệm xã hội đối với các doanh nghiệp , đặc 
biệt là các doanh nghiệp dệt may trong giai đoạn hiện nay nên tôi quyết định chọn đề 
tài : “THỰC TRẠNG ÁP DỤNG SA8000 TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN TẬP ĐOÀN 
THÁI TUẤN” làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề chuyên sâu với mục đích tìm hiểu 
thực trạng áp dụng trách nhiệm xã hội của công ty để từ đó đưa ra một số giải pháp 
kiến nghị nhằm giúp cho doanh nghiệp hoàn thiện hơn trong việc thực hiện trách 
nhiệm xã hội. 
Do thời gian có hạn, điều kiện nghiên cứu chưa sâu, khả năng phân tích còn hạn chế, 
đề tài được phân tích dựa trên thông tin thu thập dược và những kiến thức đã học là 
chủ yếu, chưa có nhiều kinh nghiệm thực tế vì vậy không thể tránh khỏi những thiếu 
sót.
Mong thầy cô góp ý giúp đỡ để bài làm của tôi được hoàn thiện hơn.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy Nguyễn Ngọc Tuấn đã hướng dẫn và chỉ 
bảo tận tình trong quá trình thực hiện chuyên đề này.
II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu
Bộ tiêu chuẩn thực hiện trách nhiệm xã hội SA8000
Quy định của pháp luật Việt Nam : bộ luật, thông tư, nghị định 
2. Phạm vi nghiên cứu 
Công ty dệt may Thái Tuấn
Thời gian : từ 1/3/2011 đến 10/3/2011
 1
 SVTH : Ngô Thị Ánh Vân 
 GVHD : Nguyễn Ngọc Tuấn
III. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn 
1. Cơ sở lý luận
 Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social Responsibility hay 
CSR), theo chuyên gia của Ngân hàng thế giới được hiểu là “Cam kết của doanh 
nghiệp đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua việc tuân thủ chuẩn 
mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền lợi lao động, trả 
lương công bằng, đào tạo và phát triển nhân viên, phát triển cộng đồng, theo cách có 
lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội”.
 Các doanh nghiệp có thể thực hiện trách nhiệm xã hội của mình bằng cách đạt 
một chứng chỉ quốc tế hoặc áp dụng những bộ quy tắc ứng xử (Code of Conduct – 
COC). Trách nhiệm xã hội là nghĩa vụ mà một doanh nghiệp phải thực hiện đối với xã 
hội. Có trách nhiệm với xã hội là tăng đến mức tối đa các tác dụng tích cực và giảm tới 
tối thiểu các hậu quả tiêu cực đối với xã hội.
Các khía cạnh của trách nhiệm xã hội
 Nhiều lãnh đạo của doanh nghiệp cho rằng, trách nhiệm xã hội của doanh 
nghiệp là tham gia vào các chương trình trợ giúp các đối tượng xã hội như hỗ trợ người 
tàn tật, trẻ em mồ côi, xây dựng nhà tình nghĩa, ủng hộ đồng bào lũ lụt và thiên tai... 
Điều đó là đúng nhưng hoàn toàn chưa đủ, mặc dù các hoạt động xã hội là một phần 
quan trọng trong trách nhiệm của một công ty. Quan trọng hơn, một doanh nghiệp phải 
dự đoán được và đo lường được những tác động về xã hội và môi trường hoạt động của 
doanh nghiệp và phát triển những chính sách làm giảm bớt những tác động tiêu cực. 
 Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp còn là cam kết của doanh nghiệp đóng 
góp vào sự phát triển kinh tế bền vững, hợp tác cùng người lao động, gia đình họ, cộng 
đồng và xã hội nói chung để cải thiện chất lượng cuộc sống cho họ sao cho vừa tốt cho 
doanh nghiệp vừa ích lợi cho phát triển. Nếu doanh nghiệp sản xuất xe hơi, phải tính 
toán được ngay cả năng lượng mà cơ sở tiêu thụ và tìm cách cải thiện nó. Và là doanh 
nghiệp sản xuất giấy, phải xem chất thải ra bao nhiêu và tìm cách xử lý nó...
 Vì vậy ngày nay một doanh nghiệp có trách nhiệm xã hội liên quan đến mọi 
khía cạnh vận hành của một doanh nghiệp. Trách nhiệm xã hội bao gồm 4 khía cạnh: 
kinh tế, pháp lý, đạo đức và lòng bác ái. 
Khía cạnh kinh tế 
 Khía cạnh kinh tế trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là phải sản 
xuất hàng hóa và dịch vụ mà xã hội cần và muốn với một mức giá có thể duy trì doanh 
nghiệp ấy và làm thỏa mãn nghĩa vụ của doanh nghiệp với các nhà đầu tư; là tìm kiếm 
nguồn cung ứng lao động, phát hiện những nguồn tài nguyên mới, thúc đẩy tiến bộ 
 2
 SVTH : Ngô Thị Ánh Vân 
 GVHD : Nguyễn Ngọc Tuấn
công nghệ, phát triển sản phẩm; là phân phối các nguồn sản xuất như hàng hoá và dịch 
vụ như thế nào trong hệ thống xã hội.
Trong khi thực hiện các công việc này, các doanh nghiệp thực sự góp phần vào tăng 
thêm phúc lợi cho xã hội, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
 Đối với người lao động, khía cạnh kinh tế của doanh nghiệp là tạo công ăn việc 
làm với mức thù lao xứng đáng cơ hội việc làm như nhau, cơ hội phát triển nghề và 
chuyên môn, hưởng thù lao tương xứng, hưởng môi trường lao động an toàn, vệ sinh 
và đảm bảo quyền riêng tư, cá nhân ở nơi làm việc. 
 Đối với người tiêu dùng, trách nhiệm kinh tế của doanh nghiệp là cung cấp hàng 
hoá và dịch vụ, trách nhiệm kinh tế của doanh nghiệp còn liên quan đến vấn đề về chất 
lượng, an toàn sản phẩm, định giá, thông tin về sản phẩm (quảng cáo), phân phối, bán 
hàng và cạnh tranh.
 Khía cạnh kinh tế trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là cơ sở cho 
các hoạt động của doanh nghiệp. Phần lớn các nghĩa vụ kinh tế trong kinh doanh đều 
được thể chế hoá thành các nghĩa vụ pháp lý 
Khía cạnh pháp lý
 Khía cạnh pháp lý trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là doanh 
nghiệp phải thực hiện đầy đủ những quy định về pháp lý chính thức đối với các bên 
hữu quan. Những điều luật như thế này sẽ điều tiết được cạnh tranh, bảo vệ khách 
hàng, bảo vệ môi trường, thúc đẩy sự công bằng và an toàn và cung cấp những sáng 
kiến chống lại những hành vi sai trái. Các nghĩa vụ pháp lý được thể hiện trong luật 
dân sự và hình sự. Về cơ bản, nghĩa vụ pháp lý bao gồm năm khía cạnh:
(1) Điều tiết cạnh tranh
(2) Bảo vệ người tiêu dùng
(3) Bảo vệ môi trường
(4) An toàn và bình đẳng
(5) Khuyến khích phát hiện và ngăn chặn hành vi sai trái.
 Thông qua trách nhiệm pháp lý, xã hội buộc các thành viên phải thực thi các 
hành vi được chấp nhận. Các tổ chức không thể tồn tại lâu dài nếu họ không thực hiện 
trách nhiệm pháp lý của mình 
Khía cạnh đạo đức
 Khía cạnh đạo đức trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là những 
hành vi và hoạt động mà xã hội mong đợi ở doanh nghiệp nhưng không được quy định 
trong hệ thống luật pháp, không được thể chế hóa thành luật.
 Khía cạnh này liên quan tới những gì các công ty quyết định là đúng, công bằng 
vượt qua cả những yêu cầu pháp lý khắc nghiệt, nó chỉ những hành vi và hoạt động mà 
 3
 SVTH : Ngô Thị Ánh Vân 
 GVHD : Nguyễn Ngọc Tuấn
các thành viên của tổ chức, cộng đồng và xã hội mong đợi từ phía các doanh nghiệp dù 
cho chúng không được viết thành luật. 
 Khía cạnh đạo đức của một doanh nghiệp thường được thể hiện thông qua 
những nguyên tắc, giá trị đạo đức được tôn trọng trình bày trong bản sứ mệnh và chiến 
lược của công ty. Thông qua các công bố này, nguyên tắc và giá trị đạo đức trở thành 
kim chỉ nam cho sự phối hợp hành động của mỗi thành viên trong công ty và với các 
bên hữu quan.
Thuật ngữ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp mới chính thức xuất hiện cách đây hơn 
50 năm, khi H.R.Bowen công bố cuốn sách của mình với nhan đề “Trách nhiệm xã hội 
của doanh nhân” (Social Responsibilities of the Businessmen) (1953) nhằm mục đích 
tuyên truyền và kêu gọi người quản lý tài sản không làm tổn hại đến các quyền và lợi 
ích của người khác, kêu gọi lòng từ thiện nhằm bồi hoàn những thiệt hại do các doanh 
nghiệp làm tổn hại cho xã hội. Tuy nhiên, từ đó đến nay, thuật ngữ trách nhiệm xã hội 
của doanh nghiệp đang được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Một số người xác định 
“trách nhiệm xã hội hàm ý nâng hành vi của doanh nghiệp lên một mức phù hợp với 
các quy phạm, giá trị và kỳ vọng xã hội đang phổ biến” (Prakash, Sethi, 1975: 58 – 
64). Một số người khác hiểu “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bao gồm sự mong 
đợi của xã hội về kinh tế, luật pháp, đạo đức và lòng từ thiện đối với các tổ chức tại 
một thời điểm nhất định” (Archie. B Carroll, 1979), v.v..
 Hiện đang tồn tại hai quan điểm đối lập nhau về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. 
Những người ủng hộ quan điểm thứ nhất cho rằng, doanh nghiệp không có trách nhiệm 
gì đối với xã hội mà chỉ có trách nhiệm với cổ đông và người lao động của doanh 
nghiệp, còn nhà nước phải có trách nhiệm với xã hội; doanh nghiệp đã có trách nhiệm 
thông qua việc nộp thuế cho nhà nước. Trái lại, những người khác lại có quan điểm 
cho rằng, với tư cách là một trong những chủ thể của nền kinh tế thị trường, các doanh 
nghiệp đã sử dụng các nguồn lực của xã hội, khai thác các nguồn lực tự nhiên và trong 
quá trình đó, họ gây ra những tổn hại không tốt đối với môi trường tự nhiên. Vì vậy, 
ngoài việc đóng thuế, doanh nghiệp còn có trách nhiệm xã hội đối với môi trường, 
cộng đồng, người lao động, v.v.. 
Còn ở Việt Nam, trong những năm gần đây, người ta thường sử dụng định nghĩa của 
Nhóm phát triển kinh tế tư nhân của Ngân hàng thế giới về trách nhiệm xã hội của 
doanh nghiệp. Theo đó, “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social 
Responsibility – CSR) là sự cam kết của doanh nghiệp đóng góp vào việc phát triển 
kinh tế bền vững, thông qua những hoạt động nhằm nâng cao chất lượng đời sống của 
người lao động và các thành viên gia đình họ, cho cộng đồng và toàn xã hội, theo cách 
có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội”.
 4
 SVTH : Ngô Thị Ánh Vân 
 GVHD : Nguyễn Ngọc Tuấn
Nói cách khác, doanh nghiệp muốn phát triển bền vững luôn phải tuân theo những 
chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền lợi lao 
động, trả lương công bằng, đào tạo và phát triển nhân viên và phát triển cộng đồng. 
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được thể hiện một cách cụ thể trên các yếu tố, 
các mặt, như: 1. Bảo vệ môi trường; 2. Đóng góp cho cộng đồng xã hội; 3. Thực hiện 
tốt trách nhiệm với nhà cung cấp; 4. Bảo đảm lợi ích và an toàn cho người tiêu dùng; 5. 
Quan hệ tốt với người lao động; và 6. Đảm bảo lợi ích cho cổ đông và người lao đông 
trong doanh nghiệp. Trong đó, bốn yếu tố đầu tiên thể hiện trách nhiệm bên ngoài của 
doanh nghiệp, còn hai yếu tố cuối thể hiện trách nhiệm bên trong, nội tại của doanh 
nghiệp. Tất nhiên, sự phân chia thành trách nhiệm bên ngoài và trách nhiệm bên trong 
chỉ có ý nghĩa tương đối và không thể nói trách nhiệm nào quan trọng hơn trách nhiệm 
nào.
 Với những nội dung cụ thể như vậy về trách nhiệm xã hội thì việc thực hiện trách 
nhiệm xã hội của doanh nghiệp không chỉ làm cho doanh nghiệp phát triển bền vững, 
mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của xã hội nói chung. 
Như chúng ta đều biết, ở Việt Nam, phát triển bền vững đã trở thành mục tiêu chiến 
lược và được đề ra từ những năm 80 của thế kỷ XX. Cùng với thời gian, khái niệm 
phát triển bền vững đã có sự thay đổi về nội hàm và ngày càng được bổ sung thêm 
những nội dung mới.
 Xét về nguồn gốc, thuật ngữ phát triển bền vững ra đời từ những năm 70 của thế kỷ 
XX và bắt đầu thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu về môi trường và phát triển 
quốc tế nhờ sự ra đời của công trình Chiến lược bảo tồn thế giới(1980)(2). Sau đó, tư 
tưởng về phát triển bền vững được trình bày trong một loạt công trình, như Tương lai 
chung của chúng ta (1987), Chăm lo cho trái đất (1991)(3) Khi nói về sự phát triển 
bền vững, người ta thường sử dụng hai định nghĩa đã được nêu ra trong các cuốn sách 
nói trên. Trong cuốn Tương lai chung của chúng ta, phát triển bền vững được hiểu là 
sự phát triển đáp ứng những nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp 
ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai; còn trong cuốn Chăm lo cho trái đất, phát triển 
bền vững được xác định là việc nâng cao chất lượng đời sống con người khi đang tồn 
tại trong khuôn khổ bảo đảm các hệ sinh thái. Nhìn chung, cả hai định nghĩa đó đều 
quy phát triển bền vững về việc sử dụng một cách hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo 
vệ môi truờng sao cho thế hệ hôm nay vẫn phát triển được mà không làm ảnh hưởng 
đến tương lai của các thế hệ sau. 
Như vậy, nếu xét theo nguồn gốc của thuật ngữ, phát triển bền vững là một sự phát 
triển bảo đảm tăng trưởng kinh tế trên cơ sở sử dụng một cách hợp lý tài nguyên thiên 
nhiên và bảo vệ được môi trường tự nhiên nhằm vừa có thể thỏa mãn được nhu cầu của 
 5
 SVTH : Ngô Thị Ánh Vân 
 GVHD : Nguyễn Ngọc Tuấn
thế hệ hôm nay, vừa không làm ảnh hưởng đến điều kiện thỏa mãn nhu cầu và môi 
trường sống của các thế hệ mai sau. Thực chất của sự phát triển bền vững là giải quyết 
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo đảm sự công 
bằng giữa các thế hệ trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. 
Tuy nhiên, ở Việt Nam, ngoài nội dung trên đây, khái niệm phát triển bền vững còn 
được bổ sung thêm nhiều nội dung mới. Việt Nam đang chủ trương xây dựng chiến 
lược phát triển bền vững phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Nội 
dung cơ bản của chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam bao gồm:
 Một là, phát triển nhanh phải đi đôi với tính bền vững. Điều đó phải được kết 
hợp ở cả tầm vĩ mô lẫn vi mô, ở cả tầm ngắn hạn lẫn dài hạn. 
 Hai là, tăng trưởng về số lượng phải đi liền với nâng cao chất lượng, hiệu quả 
và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
 Ba là, trong khi khai thác các yếu tố phát triển theo chiều rộng, phải đặc biệt coi 
trọng các yếu tố phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức.
 Bốn là, phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển toàn diện 
con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện 
đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo
 Năm là, phải coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước 
phát triển.
 Sáu là, phát triển kinh tế phải đi đôi với việc bảo đảm ổn định chính trị – xã hội, 
coi đây là tiền đề, điều kiện để phát triển nhanh và bền vững. 
Có thể nói, đây là những nội dung cơ bản trong chiến lược phát triển bền vững của 
Việt Nam. Chiến lược đó đã thể hiện khá rõ sự kết hợp giữa quan điểm truyền thống, 
kinh điển và quan điểm mới, riêng của Việt Nam. Trong chiến lược phát triển nhanh và 
bền vững của Việt Nam, chúng ta có thể nhận thấy rằng:
 Thứ nhất, yếu tố ổn định chính trị – xã hội được xem là tiền đề, điều kiện để 
phát triển nhanh và bền vững
 Thứ hai, chiến lược phát triển nhanh, bền vững tập trung nâng cao chất lượng 
phát triển, kết hợp giữa phát triển kinh tế với việc phát triển toàn diện con người, thực 
hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống, 
khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo, với việc coi trọng bảo 
vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước phát triển.
 Thứ ba, chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam đã đề cập một cách khá 
toàn diện các khía cạnh khác nhau của sự phát triển, trong đó nổi lên việc giải quyết 
hài hòa các mối quan hệ, như hài hòa giữa phát triển nhanh và bền vững, giữa tăng 
trưởng về số lượng và nâng cao chất lượng, giữa phát triển theo chiều rộng và phát 
 6
 SVTH : Ngô Thị Ánh Vân 
 GVHD : Nguyễn Ngọc Tuấn
triển theo chiều sâu; hài hòa giữa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, 
giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ và cải thiện môi trường, v.v.. Hài hòa là một trong 
những nội dung quan trọng của chiến lược phát triển bền vững
 Thứ tư, vấn đề trọng tâm, mục tiêu cơ bản của chiến lược phát triển bền vững 
chính là vấn đề dân sinh. Điều đó được thể hiện trong nội dung của chiến lược mà tôi 
vừa trình bày. Chiến lược phát triển nhanh và bền vững đã chú trọng đến chất lượng 
của sự tăng trưởng kinh tế, những mục tiêu của sự tăng trưởng hướng tới sự phát triển 
toàn diện của con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc 
làm, cải thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm 
nghèo, với việc coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước phát 
triển. Rõ ràng, mục tiêu của sự tăng trưởng như vậy là nhằm giải quyết ngày càng tốt 
hơn vấn đề dân sinh, bảo đảm cho mọi người dân có cuộc sống ấm no và hạnh phúc. 
Trên thực tế, chiến lược phát triển nhanh, bền vững là phương thức hữu hiệu bảo đảm 
cho sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với mục tiêu “dân giàu, 
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
 Rõ ràng là, với mục tiêu của phát triển bền vững như vậy, việc thực hiện trách nhiệm 
của doanh nghiệp góp phần quan trọng vào chiến lược phát triển bền vững của Việt 
Nam.
 Mặt khác, khi tiếp cận trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, chúng ta cần tiếp cận cả 
trên phương diện đạo đứclẫn phương diện pháp lý. Chúng ta không nên chỉ hiểu trách 
nhiệm của doanh nghiệp ở khía cạnh đạo đức của chủ doanh nghiệp, ở công tác từ 
thiện của doanh nghiệp, mà cần hiểu cả ở khía cạnh pháp lý, tức thực thi trách nhiệm 
xã hội là một yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Việc kết hợp cả hai phương 
diện đạo đức và pháp lý là cơ sở quan trọng để đề xuất các giải pháp nâng cao trách 
nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
2. Cơ sở thực tiễn 
Trên thế giới, đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, trách nhiệm xã hội 
không còn là vấn đề xa lạ. Các doanh nghiệp nếu thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của 
mình sẽ đạt được một chứng chỉ quốc tế hoặc áp dụng những bộ Qui tắc ứng xử (Code 
of Conduct hay gọi tắt là CoC). Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, những người 
tiêu dùng, nhà đầu tư, nhà hoạch định chính sách và các tổ chức phi chính phủ trên 
toàn cầu ngày càng quan tâm hơn tới ảnh hưởng của việc toàn cầu hoá đối với quyền 
của người lao động, môi trường và phúc lợi cộng đồng. Những doanh nghiệp không 
thực hiện trách nhiệm xã hội có thể sẽ không còn cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế.
Thực tế trên thế giới đã chỉ ra rằng, doanh nghiệp nào thực hiện tốt trách nhiệm xã hội 
thì lợi ích của họ không những không giảm đi mà còn tăng thêm. Những lợi ích mà 
 7
 SVTH : Ngô Thị Ánh Vân 
 GVHD : Nguyễn Ngọc Tuấn
doanh nghiệp thu được khi thực hiện trách nhiệm xã hội bao gồm giảm chi phí, tăng 
doanh thu, tăng giá trị thương hiệu, giảm tỷ lệ nhân viên thôi việc, tăng năng suất và 
thêm cơ hội tiếp cận những thị trường mới. Chúng ta có thể dẫn ra đây một số ví dụ về 
lợi ích của việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
 Thứ nhất, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần giảm chi phí và tăng năng 
suất. Một doanh nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí sản xuất nhờ đầu tư, lắp đặt các 
thiết bị mới. 
Chi phí sản xuất và năng suất lao động phụ thuộc chặt chẽ vào hệ thống quản lý nhân 
sự. Một hệ thống quản lý nhân sự hiệu quả cũng giúp doanh nghiệp cắt giảm chi phí và 
tăng năng suất lao động đáng kể. Chế độ lương, thưởng hợp lý, môi trường lao động 
sạch sẽ và an toàn, các cơ hội đào tạo và chế độ bảo hiểm y tế và giáo dục đều góp 
phần giảm tỷ lệ nhân viên nghỉ, bỏ việc, do đó giảm chi phí tuyển dụng và đào tạo 
nhân viên mới. Tất cả cái đó góp phần giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất lao động. 
 Thứ hai, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần tăng doanh thu. Mỗi doanh 
nghiệp đều đứng trên địa bàn nhất định. Do đó, việc đầu tư hỗ trợ phát triển kinh tế địa 
phương có thể tạo ra một nguồn lao động tốt hơn, nguồn cung ứng rẻ và đáng tin cậy 
hơn và nhờ đó tăng doanh thu. 
 Thứ ba, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần nâng cao giá trị thương hiệu và 
uy tín của công ty. Trách nhiệm xã hội có thể giúp doanh nghiệp tăng giá trị thương 
hiệu và uy tín đáng kể. Đến lượt nó, uy tín giúp doanh nghiệp tăng doanh thu, hấp dẫn 
các đối tác, nhà đầu tư và người lao động. Trên thế giới, những công ty khổng lồ đang 
chi một khoản tiền rất lớn để trở thành hình mẫu kinh doanh lý tưởng. 
Thứ tư, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần thu hút nguồn lao động giỏi. Nguồn lao 
động giỏi, có năng lực là yếu tố quyết định năng suất và chất lượng sản phẩm của 
doanh nghiệp. Có một thực tế là, ở các nước đang phát triển, nguồn nhân lực được đào 
tạo có chất lượng cao không nhiều. Vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp là làm thế 
nào thu hút, giữ chân họ và phát huy hết khả năng của họ trong hoạt động quản lý, sản 
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Do vậy, việc thu hút và giữ được nhân viên có chuyên môn tốt là một thách thức lớn 
đối với các doanh nghiệp. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, những doanh 
nghiệp trả lương thỏa đáng và công bằng, tạo cho nhân viên cơ hội đào tạo, có chế độ 
bảo hiểm y tế và môi trường làm việc sạch sẽ có khả năng thu hút và giữ được nguồn 
nhân lực có chất lượng cao. 
Tất cả những điều nói trên là cơ sở để luận chứng cho sự cần thiết phải thực hiện trách 
nhiệm xã hội của doanh nghiệp nói chung, đồng thời là những kinh nghiệm bổ ích, có 
giá trị tham khảo cho các doanh nghiệp Việt Nam. 
 8
 SVTH : Ngô Thị Ánh Vân 
 GVHD : Nguyễn Ngọc Tuấn
 Trên thực tế, ở Việt Nam, vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp mặc dù 
là vấn đề mới mẻ, nhưng bước đầu đã được một số bộ, ngành quan tâm, chú ý. Bằng 
chứng là, từ năm 2005, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Bộ Lao động 
Thương binh và Xã hội, Bộ Công thương cùng với các hiệp hội Da giày, Dệt may trao 
giải thưởng “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp hướng tới sự phát triển bền vững” 
nhằm tôn vinh các doanh nghệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp 
trong bối cảnh hội nhập. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp lớn ở Việt Nam đã nhận thấy 
rằng, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đã trở thành một trong những yêu cầu 
không thể thiếu được đối với doanh nghiệp, bởi lẽ, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội 
nhập quốc tế, nếu doanh nghiệp không tuân thủ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp 
sẽ không thể tiếp cận được với thị trường thế giới. Nhiều doanh nghiệp khi thực hiện 
trách nhiệm xã hội đã mang lại những hiệu quả thiết thực trong sản xuất kinh doanh.
Kết quả khảo sát gần đây do Viện Khoa học lao động và xã hội tiến hành trên 24 doanh 
nghiệp thuộc hai ngành Giầy da và Dệt may cho thấy, nhờ thực hiện các chương trình 
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, doanh thu của các doanh nghiệp này đã tăng 
25%, năng suất lao động cũng tăng từ 34,2 triệu đồng lên 35,8 triệu đồng/1 lao 
động/năm; tỷ lệ hàng xuất khẩu tăng từ 94% lên 97%.
Bên cạnh hiệu quả kinh tế, các doanh nghiệp còn củng cố được uy tín với khách hàng, 
tạo được sự gắn bó và hài lòng của người lao động đối với doanh nghiệp, thu hút được 
lực lượng lao động có chuyên môn cao.
Do nhận thức được tầm quan trọng và ích lợi của việc thực hiện trách nhiệm xã hội 
trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, một số doanh nghiệp lớn của Việt 
Nam, ngoài trách nhiệm đóng thuế cho nhà nước, đã đăng ký thực hiện trách nhiệm xã 
hội dưới dạng các cam kết đối với xã hội trong việc bảo vệ môi trường, với cộng đồng 
địa phương nơi doanh nghiệp đóng và với người lao động. 
Tuy nhiên, bên cạnh đó, phải thừa nhận rằng, trong thời gian qua ở Việt Nam, nhiều 
doanh nghiệp đã không thực hiện một cách nghiêm túc trách nhiệm xã hội của mình. 
Điều đó thể hiện ở các hành vi gian lận trong kinh doanh, báo cáo tài chính, không bảo 
đảm an toàn lao động, sản xuất, kinh doanh hàng kém chất lượng, cố ý gây ô nhiễm 
môi trường. Điển hình là các vụ xả nước thải không qua xử lý gây ô nhiễm môi trường 
nghiêm trọng cho các dòng sông và cộng đồng dân cư của các Công ty Miwon, Công 
ty thuộc da Hào Dương, Công ty Giấy Việt Trì, công ty Hyundai Vinashin (Khánh 
Hòa), các vụ sản xuất thực phẩm chứa chất có hại cho sức khỏe con người, như nước 
tương có chứa chất 3-MCPD gây ung thư, bánh phở chứa phormol, thực phẩm chứa 
hàn the, sữa có chứa melamine. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp vi phạm các quy định 
pháp luật về lương bổng, chế độ bảo hiểm, vấn đề an toàn lao động cho người lao động 
 9
 SVTH : Ngô Thị Ánh Vân

File đính kèm:

  • docde_tai_thuc_trang_ap_dung_sa8000_tai_cong_ty_co_phan_tap_doa.doc