Đề tài Phân tích tình hình cung cầu lao động tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
Thế giới ngày càng phát triển tăng tiến về mọi mặt. Gồm sự tăng trưởng kinh tế và cùng với nó là sự hoàn chỉnh về mặt cơ cấu, thể chế kinh tế, chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao. Bước sang thế kỷ XXI, nền kinh tế thế giới đều vận động theo chiều hướng toàn cầu hóa và hội nhập. Hội nhập kinh tế trên quy mô khu vực và toàn cầu là xu thế tất yếu của kinh tế mỗi nước. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật tất yếu này. Cùng với quy luật phát triển của thế giới Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO đã đánh dấu bước đầu phát triển kinh tế nước ta trong thời hội nhập. Đây là một cơ hội lớn và cũng là thách thức lớn đối với nước ta hiện nay. Một trong những cơ hội lớn đó là giúp tạo thêm nhiều cơ hội việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống, việc làm cho người lao động và người lao động có điều kiện làm việc ở những lĩnh vực mới, các khu vực mới, đặc biệt là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài; khu vực dịch vụ; khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ…
Vì các khu vực này có xu hướng ngày càng gia tăng về nhu cầu sử dụng lao động, cả về số lượng lẫn chất lượng, có tác động trực tiếp đến vấn đề đào tạo và tuyển dụng lao động. Tuy nhiên, cạnh tranh cũng sẽ quyết liệt hơn và việc sử dụng lao động đang đòi hỏi phải thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn lao động quốc tế đặt ra, là yêu cầu phải nâng cao chất lượng nguồn lao động để đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề tài Phân tích tình hình cung cầu lao động tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN BOÄ LAO ÑOÄNG THÖÔNG BINH & XAÕ HOÄI TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC LAO ÑOÄNG - XAÕ HOÄI ( CƠ SỞ II) KHOA QUAÛN LÍ LAO ĐỘNG ------- TIỂU LUẬN MÔN THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẦU LAO ĐỘNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY GVBM : NGUYỄN NGỌC TUẤN NHÓM SINH VIÊN : LỚP : NIÊN KHÓA : TPHCM, Tháng 06 năm 2010 LỜI MỞ ĐẦU SVTH: 1 THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN Thế giới ngày càng phát triển tăng tiến về mọi mặt. Gồm sự tăng trưởng kinh tế và cùng với nó là sự hoàn chỉnh về mặt cơ cấu, thể chế kinh tế, chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao. Bước sang thế kỷ XXI, nền kinh tế thế giới đều vận động theo chiều hướng toàn cầu hóa và hội nhập. Hội nhập kinh tế trên quy mô khu vực và toàn cầu là xu thế tất yếu của kinh tế mỗi nước. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật tất yếu này. Cùng với quy luật phát triển của thế giới Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO đã đánh dấu bước đầu phát triển kinh tế nước ta trong thời hội nhập. Đây là một cơ hội lớn và cũng là thách thức lớn đối với nước ta hiện nay. Một trong những cơ hội lớn đó là giúp tạo thêm nhiều cơ hội việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống, việc làm cho người lao động và người lao động có điều kiện làm việc ở những lĩnh vực mới, các khu vực mới, đặc biệt là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài; khu vực dịch vụ; khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ Vì các khu vực này có xu hướng ngày càng gia tăng về nhu cầu sử dụng lao động, cả về số lượng lẫn chất lượng, có tác động trực tiếp đến vấn đề đào tạo và tuyển dụng lao động. Tuy nhiên, cạnh tranh cũng sẽ quyết liệt hơn và việc sử dụng lao động đang đòi hỏi phải thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn lao động quốc tế đặt ra, là yêu cầu phải nâng cao chất lượng nguồn lao động để đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Cùng với tình hình đó, thành phố Hồ Chí Minh – một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục quan trọng của Việt Nam cũng chịu tác động không nhỏ. Thị trường lao động thành phố Hồ Chí Minh hiện nay phát triển theo các qui luật mới của nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, hội nhập khu vực và quốc tế với tư cách một hệ thống động và mở: cung và cầu lao động biến động rất cao, số lao động không ổn định việc làm, mất việc làm, tái bố trí lại việc làm hàng năm cũng rất lớn. Như vậy, vấn đề quan trọng đặt ra hiện nay đối với thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và đất nước ta nói chung là phải phân tích tận dụng cơ hội để phát triển thị trường lao động và nghiên cứu, đề ra những giải pháp để vượt qua những khó khăn, thách thức trong vấn đề thị trường lao động, tiến tới cân bằng cung cầu lao động. Từ đó, tạo điều kiện cho chúng ta phát về mọi mặt, đặc biệt là giúp chúng ta phát triển đạt đến một nền kinh tế hiện đại làm cho đại bộ phận cuộc sống của người dân trong xã hội trở nên tươi đẹp hơn vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong quá trình thực hiện và hoàn thành bài tiểu luận này nhóm chúng em đã tham khảo nhiều nguồn tài liệu về vấn đề cung cầu lao động và được sự giúp đỡ tận tình từ thầy Nguyễn Ngọc Tuấn trường ĐH Lao Động Xã Hội (cơ sở II). Vì vậy, trước khi vào nội dung bài viết em xin gửi lời cảm ơn tới thầy đã tạo điều kiện giúp chúng em hoàn thành đề tài này. Nhóm thực hiện. SVTH: 2 THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN PHẦN: MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài SVTH: 3 THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN Như chúng ta đã biết sự phát triển về kinh tế và sự ổn định về chính trị - xã hội không chỉ là cơ sở mà còn là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của một đất nước. Nó là nền tảng vững chắc của một đất nước phát triển. Vì thế phát triển về kinh tế - xã hội có nội dung và ý nghĩa khá toàn diện, là mục tiêu và ước vọng của các dân tộc trên thế gới nói chung và của dân tộc ta nói riêng. Phát triển kinh tế - xã hội bao hàm trong nó mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế - xã hội là điều kiện tuyên quyết và cơ bản để nâng cao đời sống nhân dân và đảm bảo công bằng xã hội thông qua việc ổn định việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động. Nó không chỉ là mục tiêu phấn đấu của nhân loại mà còn là động lực của sự phát triển đất nước. Vì vậy, toàn Đảng toàn dân ta phải tích cực và chủ động thống nhất đưa ra các biện pháp có tích chất quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước một cách toàn diện và bền vững lâu dài. Nhằm đưa đất nước ta phát triển một cách vượt bậc trên mọi phương diện: kinh tế - văn hóa – xã hội – ngoại giao Nhưng trước hết, chúng ta cần phải xác định được những cơ hội và thách thức hiện tại mà nước ta đang có và phải đối mặt vượt qua. Việc gia nhập vào tồ chức thương mại thế giới đã đem lại nhiều cơ hội: tăng cơ hội việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động, xuất hiện thêm nhiều ngành nghề mới ở những khu vực – lĩnh vực mới, các khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) được mọc lên... thì kèm theo đó cũng có không ít những khó khăn, thử thách được đặt ra cho chung ta như: ✓ Sản phẩm sản xuất ra với chất lượng vẫn còn thấp nên gặp nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ, đặc biệt là trong hoạt động xuất khẩu ra nước ngoài hoặc nếu có xuất khẩu được thì cũng với giá rẻ hơn những sản phẩm cùng loại của các quốc gia khác. Đó là do trình độ tay nghề và kỹ năng làm việc của công nhân nước ta còn thấp. ✓ Trình độ chuyên môn kỹ thuật của công nhân còn thấp gây khó khăn trong việc áp dụng những công nghệ mới, khoa học – kỹ thuật hiện đại vào quy trình sản xuất. ✓ Việc đầu tư cho công nghệ mới, máy móc, thiết bị và dây chuyền sản xuất tiên tiến, hiện đại vẫn còn rất hạn chế vì các doanh nghiệp ít kinh phí. ✓ Cơ chế pháp lý và hệ thống hành chính, Luật Pháp Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập gây khó khăn trong việc thu hút và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. ✓ Sự di chuyển lao động giữa các vùng miền và ra nước ngoài thông qua hoạt động xuất khẩu lao đông gây khó khăn trong việc quản lý và điều tiết lao động. Chính vì nước ta đang trong thời kỳ hội nhập, cộng với tiến trình phát triển tất yếu của đất nước, đang tiến lên công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước một cách toàn diện và phấn đấu đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Điều này sẽ kích sự di chuyển lao động giữa các vùng miền, địa phương, các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp thậm chí là giữa các khu vực. Đó chính là một trong những lý do gây ra việc cung – SVTH: 4 THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN cầu lao động giữa những vùng miền, khu vực mất cân bằng. Đây là một vấn đề nóng bỏng và thực sự cần thiết phải có những giải pháp hiệu quả và thiết thực để giải quyết. Và thực trạng ấy cũng chính là thực trạng mà thành phố Hồ Chi Minh hiện đang mắc phải. Do đó, việc nắm vững và điều tiết thị trường cung – cầu lao động tại thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới một cách hiệu quả là hết sức khó khăn. Vì vậy, cần thiết phải có sự phối hợp hoạt động và giải quyết của những cơ quan, đơn vị chuyên trách và những bộ phận có liên quan. Tuy nhiên, việc phân tích thực trạng và đưa ra các giải pháp khắc phục tình trạng này ở thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua dường như chưa đủ mạnh, chưa hiệu quả và chưa thiết thực với thực tế. Đây chính là lý do mà nhóm chúng em quyết định chọn đề tài sau đây để phân tích và đưa ra giải pháp chiến lược cho vấn đề cung cầu lao động thành phố Hồ Chí Minh: “Phân tích cung cầu lao động tại thành phố Hồ Chí Minh” 2. Mục tiêu nghiên cứu Trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay thì vấn đề cung cầu lao động đang là một vấn đề bức xúc cấp thiết cần phải có những biện pháp giải quyết một cách triệt để. Ở đây, bên cạnh việc tìm lời giải đáp những vướng mắc của nhóm về thực trạng cung - cầu lao động tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Chúng em cũng đề ra một số yêu cầu và mục đích khi nghiên cứu đề tài. Nhằm nhận diện và phân tích những cơ hội cũng thách thức về vấn đề nhân lực và nguồn lao động tại thành phố trong những năm tiếp theo. Từ đó có thể hiểu và nắm được quy luật cung - cầu lao động và những cơ hội thách thức về vấn đề lao động tại thành phố, biết được sự tham gia và hoạt động của các đơn vị liên quan góp phần vào việc giải quyết vấn đề nóng bỏng này tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Mặt khác, cũng giúp chúng em trang bị được thêm những kiến thức cần thiết cho ngành nghề quản trị nhân lực của chúng em trong tương lai. Ngoài ra, chúng em mong muốn rằng cuốn tiểu luận này sẽ có thể là nguồn tài liệu có ích giúp cho các nhà nghiên cứu thị trường, các nhà hoạch định chiến lược có thể đưa ra các biện pháp giải quyết hiệu quả để giải quyết triệt để vấn đề cung – cầu lao động tại thành phố Hồ Chí Minh trong những năm tiếp theo. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: tình hình cung cầu lao động tại thành phố Hồ Chí Minh + Các doanh nghiệp sản xuất cũng như các KCX, KCN đang hoạt động trên đại bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. + Các cơ sở, trung tâm việc làm - dạy nghề và công ty tư vấn trong khu vực thành phố. - Phạm vi nghiên cứu: toàn địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2010. 4. Số liệu Số liệu từ sở Lao Động Thương Binh- Xã Hội thành phố Hồ Chí Minh SVTH: 5 THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN Giáo trình thị trường lao động, giáo trình quản trị nhân lực, giáo trình quản trị doanh nghiệp, giáo trình thị trường lao động. Báo thanh niên, tạp chí Tuổi trẻ Các trang Web như: thành phố hồ chí minh; sở công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh; doanh nhân; hội chợ việc làm; chính phủ; v.v 5. Phương pháp nghiên cứu Căn cứ vào giáo trình đã tìm hiểu; Căn cứ vào việc tìm kiếm và thu thập thông tin từ các website, báo chí Dựa vào sự hỗ trợ của các chuyên gia, các đơn vị cơ quan trong xã hội Được thực hiện dựa trên cơ sở sử dụng phương pháp thu thập số liệu, thống kê, tổng hợp và phân tích số liệu và đưa ra nhận định. 6. Kết cấu CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CUNG CẦU LAO ĐỘNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHẦN: NỘI DUNG SVTH: 6 THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN I. Một số khái niệm 1. Thị trường lao động Trong hệ thống các thị trường (thị trường hàng hóa, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường đất đai ) thì thị trường lao động là thị trường quan trọng bậc nhất. Bởi vì, lao động là nhu cầu của con người. Lao động là nguồn gốc tạo ra phần lớn của cải vật chất trong xã hội. Lao động là nhân tố quyết định sự hoạt động và phát triển của tất cả các loại thị trường. Theo Adam Smith “ Thị trường lao động là nơi diễn ra sự trao đổi hàng hóa sức lao động ( hoặc dịch vụ lao động ) giữa một bên sử dụng lao động và một bên là người lao động ”. Theo tiến sỹ Leo Maglen “ Thị trường lao động là một hệ thống trao đổi giữa những người có việc làm hoặc người đang tìm việc làm (cung lao động) với những người đang sử dụng lao động hoặc đang tìm kiếm lao động để sử dụng ( cầu lao động )” Theo tổ chức lao động quốc tế ( ILO ) “ Thị trường lao động là thị trường trong đó các dịch vụ lao động được mua bán thông qua một quá trình thỏa thuận để xác định mức độ có việc làm của lao động, cũng như mức độ tiền cộng” Từ đó có thể nêu lên một định nghĩa khái quát về thị trường lao động như sau: “ Thị trường lao động là nơi ngưới có nhu cầu tìm việc làm và người có nhu cầu sử dụng lao động trao đổi với nhau, mua bán dịch vụ lao động thông qua các hình thức giá cả ( tiền công, tiền lương ) và các điều kiện thỏa thuận khác ( thời gian làm việc, điều kiện lao động, bảo hiểm xã hội ) trên cơ sở một hợp đồng lao động bằng văn bản hoặc bằng miệng, hoặc thông qua các dạng hợp đồng hay thỏa thuận khác. Như vậy mặc dù có những cách diễn đạt khác nhau, nhưng các định nghĩa nêu trên đều thống nhất với nhau nhũng nội dung cơ bản về thị trường lao động là thị trường mà trong đó: - Có người cần bán sức lao động, cung cấp dịch vụ lao động (người lao động). - Có người cần mua sức lao động ( người sử dụng lao động) - Có các quan hệ cung cầu lao động, giá cả sức lao động (tiền công, tiền lương), các quan hệ thỏa thuận khác (thời gian làm việc, điều kiện lao động, môi trường lao động, bảo hiểm xã hội ) ( giáo trình thị trường lao động, 2008, tr 11- 14) 2. Cung lao động Cung lao động là số lượng lao động đang tham gia và sẵn sàng tham gia vào thị trường lao động ở những thời điểm nhất định (thời điểm xem xét). Cung lao động phụ thuộc vào tốc độ tăng nguồn lao động, sự biến động về cầu SVTH: 7 THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN lao động, trình độ đào tạo hướng nghiệp – dạy nghề và tiền lương (tiền công) trên thị trường lao động. (giáo trình thị trường lao động, 2008, tr 53) Có thể hiểu rõ hơn cung về lao động là tổng nguồn sức lao động do người lao động tự nguyện đem ra tham dự vào quá trình tái sản xuất xã hội. Tức là tổng số nhân khẩu trong độ tuổi lao động, có năng lực lao động và cả số nhân lực không nằm trong độ tuổi lao động, nhưng đã chính thức tham gia vào quá trình tái sản xuất xã hội. Xét về mặt số lượng, khi nói đến cung trên thị trường lao động, người ta thường phân biệt rõ thành hai phạm trù: cung thực tế và cung tiềm năng. Cung tiềm năng về lao động bao gồm những người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc, những người thất nghiệp, những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang đi học, đang làm công việc nội trợ hoặc không có nhu cầu làm việc. Cung thực tế về lao động bao gồm tất cả những người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc và những người thất nghiệp, hoặc thiếu việc làm. Bên cạnh đó, cung về lao động còn được xem xét từ giác độ chất lượng lao động, tức là các phẩm chất cá nhân của người lao động. Trong đó, trình độ học vấn, trình độ đào tạo, các kỹ năng chuyên môn, kỷ luật lao động là những yếu tố chính, quyết định chất lượng của loại hàng hóa đặc biệt này. Từ đó có thể thấy rằng các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến cung lao động là: quy mô và tốc độ tăng dân số; quy định pháp lý về độ tuổi lao động; tỷ trọng cư dân trong độ tuổi lao động và tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động; tỷ lệ tham gia của lực lượng lao động vào thị trường lao động; tình trạng tự nhiên của người lao động; các phẩm chất cá nhân về học vấn, trình độ tay nghề, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người lao động, và một số các chỉ số khác. 3. Cầu lao động Cầu về lao động là số lượng lao động được thuê mướn trên thị trường lao động. Hay nói cách khác, cầu lao động là toàn bộ cầu về sức lao động của một nền kinh tế (hoặc của một ngành, địa phương, doanh nghiệp ) ở một thời kỳ nhất đinh, bao gồm cả mặt số lượng, chất lượng, cơ cấu và thường được xác định thông qua chỉ tiêu việc làm. (giáo trình thị trường lao động, 2008, tr 76) Nhu cầu về cầu lao động thể hiện qua khả năng thuê mướn lao động trên thị trường lao động. Xét từ giác độ số lượng, trong điều kiện năng suất lao động không biến đổi, cầu về lao động xã hội tỷ lệ thuận với quy mô và tốc độ sản xuất. Nếu quy mô sản xuất không đổi, cầu về lao động tỷ lệ nghịch với năng xuất lao động. Còn xét từ giác độ chất lượng, việc nâng cao năng suất lao động, mở rộng quy mô, tiền vốn, tri thức của doanh nghiệp càng ngày càng đòi hỏi nâng cao cầu về chất lượng lao động. Trong đó, các chỉ số quan trọng nhất thể hiện chất lượng lao động là: trình độ tinh thông nghề nghiệp, mức độ phù hợp của nghề nghiệp được đào tạo với công việc được giao, kỷ luật lao động SVTH: 8 THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN Theo báo cáo của Bộ Lao đông Thương Binh Xã Hội, ở Việt Nam, hiện việc tính cầu tiềm năng về lao động, tức là việc tính toán nhu cầu về lao động cho tổng số chỗ làm việc có thể có được, sau khi đã tính đến các yếu tố có khả năng tạo việc làm trong tương lai như vốn, đất đai, tư liệu sản xuất, công nghệ, và cả những điều kiện khác như chính trị xã hội chưa được thực hiện. Các chỉ số quan trọng để tính thực tế cầu về lao động, tức là nhu cầu thực tế về lao động cần sử dụng tại một thời điểm nhất định, thể hiện qua số lượng chỗ làm việc mới, chỗ làm việc bỏ trống, hầu như chưa được thu thập, hoặc có nhưng không đầy đủ, không hệ thống. Như vậy cầu thực tế về lao động ở nước ta cho đến nay mới chỉ được xem xét giới hạn trong tổng số chỗ làm việc mới được tạo ra hàng năm. Theo số liệu thống kê của Bộ LĐ-TB-XH, số lượng chỗ làm việc mới có xu hướng gia tăng trong suốt thời kỳ từ năm 1991 đến năm 2000. Nếu trong giai đoạn 1991-1995, số chỗ làm việc tăng thêm bình quân hàng năm khoảng 863 ngàn chỗ thì đến giai đoạn 1996-2000, bình quân mỗi năm đã có khoảng 1,2 triệu chỗ làm việc mới được tạo ra. So với số lượng người bước vào độ tuổi lao động tăng lên hàng năm (trên 1,1 triệu người), thì số chỗ làm mới cho những người này. Tuy nhiên, trên thực tế, do những méo mó của thị trường lao động này, những người mới tham gia vào lược lượng lao động lại là nhóm người bị thất nghiệp hoặc thiếu việc làm nhiều nhất. 4. Quan hệ cung cầu lao động Việc nghiên cứu thị trường lao động bắt đầu và kêt thúc bằng sự phân tích cung cầu lao động và mối quan hệ giữa chúng. Những kết quả của hoạt động thị trường lao động liên quan chặt chẽ đến điều kiện lao động (suất lương, tổng mức lương, điều kiện làm việc) và mức độ làm việc. Bất cứ kết quả hoạt động nào của thị trường lao động cũng là kết quả hoạt động, tương tác của hai lực lượng cung và cầu lao động. (giáo trình thị trường lao động, 2008, tr 141) Cung cầu lao động có quan hệ ràng buộc với nhau, dựa vào nhau để tồn tại. Sự tác động lẫn nhau của hai chủ thề này quyết định tính cạnh tranh của thị trường: khi bên cung sức lao động lớn hơn nhu cầu về loại hàng hoa này, thì bên mua ở vào địa vị có lợi hơn trên thị trường lao động (thị trường của bên mua). Ngược lại, nếu cầu về sức lao động trên thị trường lớn hơn cung thì người bán sẽ có lợi hơn, có nhiều cơ hội hơn để lựa chọn công việc, giá cả sức lao động vì thế có thể được nâng cao (thị trường của bên bán). Bên cạnh đó, cũng như bất kỳ mọi dạng thị trường khác, thị trường lao động còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác, trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tới động thái phát triển của thị trường này. II. Các vấn đề mang tính lý luận liên quan đến cung và cầu lao động 1. Kinh tế - xã hội Gia nhập WTO, Việt Nam đã và đang có những điều kiện thuận lợi chuẩn bị cho hội nhập kinh tế quốc tế. Riêng trong lĩnh vực lao động, lực lượng lao động Việt Nam có nhiều ưu thế: lực lượng lao động dồi dào, trẻ, có trình độ văn hoá khá, đặc biệt khả năng tiếp thu của lao động Việt Nam được các nước trên thế giới đánh giá là nhanh nhạy. Đặc biệt giá nhân công của Việt Nam lại SVTH: 9 THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG GVHD: NGUYỄN NGỌC TUẤN rẻ, đây cũng là một lợi thế cạnh tranh của Việt Nam. Thị trường lao động Việt Nam và các hoạt động dịch vụ liên quan đã có hơn 10 mười năm phát triển và đang từng bước hoàn thiện. Hệ thống pháp luật lao động Việt Nam được xây dựng về cơ bản là tương đối đầy đủ và phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường, đảm bảo được cơ bản các tiêu chuẩn lao động quốc tế. Các chính sách về an sinh xã hội đã được Việt Nam chú tâm phát triển trong những năm gần đây. Với những điều kiện hiện có như vậy, khi Việt Nam gia nhập WTO có nhiều thuận lợi. Đầu tư nước ngoài tăng, tạo thêm nhiều việc làm mới cùng với nó là hiện tượng dịch chuyển lao động khiến cơ cấu lao động trở nên năng động hơn. Có thể khẳng định chắc chắn rằng Việt Nam gia nhập WTO sẽ mang lại nhiều cơ hội về việc làm và thu nhập cho người lao động. Người lao động cũng có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận trực tiếp với nền sản xuất hiện đại, nâng cao trình độ, kỹ năng, tác phong lao động, kinh nghiệm quản lý. Bên cạnh đó, hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO cũng mang lại cho Việt Nam những thách thức về lao động, việc làm. Gia nhập WTO, nguy cơ đầu tiên mà người lao động Việt Nam phải đối đầu là sẽ có nhiều người mất việc làm. Đó có thể là những lao động giản đơn, trình độ thấp hoặc lao động trong các doanh nghiệp sắp xếp lại tổ chức, thu hẹp sản xuất hoặc do cải cách về công nghệ hoặc do bị phá sản, giải thể do không thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài 2. Pháp luật Nhà nước Trong gần một thập kỷ qua, những chủ trương, đường lối chỉ đạo của Đảng đã lần lượt được thể chế hóa và đưa vào thực hiện. Trong số các văn bản pháp lý quan trọng điều chỉnh việc hình thành và vận hành của thị trường lao động ở nước ta, quan trọng nhất phải kể đến là Bộ Luật Lao động ( năm 1994), các Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Thông Tư liên bộ liên quan đến lao động, việc làm. Chỉ tính riêng từ ngày 1/1/1995 đến nay, cùng với sự ra đời của Bộ Luật Lao động, đã có hàng trăm văn bản pháp quy liên quan đến thị trường lao động được ban hành, về căn bản đã tạo ra khung khổ pháp lý cho thị trường lao động ở Việt Nam. Bộ luật Lao động của nước CHXHCN Việt Nam, được ban hành năm 1994 và bắt đầu có hiệu lực từ 1/1/1995 với 198 Điều đã tạo thành nền tảng cho khung khổ pháp lý của thị trường lao động ở nước ta bằng việc công nhận quyền tự do mua, bán sức lao động trên thị trường. Điều 16 Bộ luật Lao động đã ghi rõ: Người lao động có quyền làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và ở bất kỳ chỗ nào mà pháp luật không cấm; và người sử dụng lao động có quyền trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức dịch vụ việc làm để tuyển chọn lao động, có quyền tăng giảm lao động phù hợp với nhu cầu sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật. Như vậy quyền tự do tìm việc làm và quyền lựa chọn người làm việc cho mình – hai yếu tố cơ bản tạo ra quan hệ cung cầu cho thị trường lao động đã được Bộ luật này xác nhận. Một điểm quan trọng nữa là Bộ luật Lao động còn khẳng định khái niệm mới về việc làm. Nếu như trước đây, chỉ có làm việc trong khu vực quốc doanh và tập thể mới đựoc coi là việc làm, thì ngày nay Điều 13 của Bộ luật lao động SVTH: 10
File đính kèm:
de_tai_phan_tich_tinh_hinh_cung_cau_lao_dong_tai_thanh_pho_h.doc