Đề tài Nghiên cứu giải pháp xử lý bã thải trồng nấm trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng

Trong thời gian qua, thành phố Đà Nẵng được xác định là trung tâm kinh tế của miền Trung và trên cả nước với mức tăng trưởng kinh tế nhanh, liên tục và khá ổn định gắn liền với các tiến bộ trong đời sống xã hội. Trong đó, việc thực hiện tốt những giải pháp trong chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới đã thay đổi tổng thể về kinh tế - xã hội của nhiều địa phương, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân nông thôn ngày một tốt hơn. Công tác đổi mới, phát triển mô hình sản xuất có hiệu quả đã mang lại nhiều thành tựu góp phần nâng cao thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn năm 2013 đạt 20,86 triệu đồng, tăng 1,93 triệu đồng so với năm 2012 và đưa tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn thành phố) giảm từ 16,52% xuống còn 10,3% năm 2013; tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên khu vực nông thôn đạt 95,2%.

Với định hướng phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, nông nghiệp đô thị áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, tạo nghề mới trên cơ sở nguồn tài nguyên và lao động sẵn có. Thành phố Đà Nẵng đã có chủ trương phát triển ngành trồng nấm do nghề này mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân nhưng quy trình sản xuất đơn giản, ít tốn diện tích đất canh tác và nguyên liệu sử dụng là các phế phẩm của ngành nông nghiệp như rơm rạ, mùn cưa... Dưới sự khuyến khích chuyển đổi, tuyên truyền và mở các lớp kỹ thuật nuôi trồng nấm cho các hộ nông dân, ngành trồng nấm tại Đà Nẵng ngày càng có nhiều hộ nông dân tham gia và đã đạt được nhiều mô hình trồng nấm rơm, nấm sò thành công.

Đi đôi với sự thành công của ngành trồng nấm, cùng với việc nhiều hộ gia đình tham gia trồng nấm, nhiều hợp tác xã, tổ hợp tác sản xuất chuyên canh nấm hình thành thì nguồn bã thải trồng nấm sẽ rất lớn. Nguyên liệu trồng nấm là hỗn hợp được phối trộn từ mùn cưa, rơm rạ với một số thành phần khác như cám gạo, bột ngô… trong đó thành phần chủ yếu là mùn cưa hay rơm rạ. Đây là những hợp chất khó phân hủy và sẽ được nấm sử dụng làm hoai mục một phần, đồng thời phát triển hệ sợi nên bã thải trồng nấm vẫn còn lượng lớn các chất hữu cơ chậm phân hủy như cellulose, lignin… và nấm bệnh. Nếu được xử lý đúng cách bã thải trồng nấm sẽ là nguồn phân hữu cơ phục vụ cho trồng hoa và rau an toàn. Tuy nhiên hầu hết ở nông thôn, nguồn bã thải được đỗ thải trực tiếp ra môi trường tự nhiên điều này gây nguy cơ ô nhiễm môi trường, phá vỡ cảnh quan và lãng phí nguồn nguyên liệu sản xuất phân hữu cơ.

Chính vì vậy, việc đánh giá hiện trạng thu gom và nghiên cứu các giải pháp xử lý bã thải trồng nấm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là hết sức cần thiết. Đó là lí do chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu giải pháp xử lý bã thải trồng nấm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”

pdf 26 trang Minh Tâm 28/03/2025 480
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Nghiên cứu giải pháp xử lý bã thải trồng nấm trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề tài Nghiên cứu giải pháp xử lý bã thải trồng nấm trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng

Đề tài Nghiên cứu giải pháp xử lý bã thải trồng nấm trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng
 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
 ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
 BÁO CÁO TÓM TẮT 
 ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ 
 CẤP ĐẠI HỌ C ĐÀ NẴNG 
NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP XỬ LÝ BÃ THẢI 
 TRỒNG NẤM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH 
 PHỐ ĐÀ NẴNG 
 Mã số: Đ2015 -02-136 
 Chủ nhiệm đề tài: TS. Phan Nhƣ Thúc 
 Đà Nẵng, 6/2016 
 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
 ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
 BÁO CÁO TÓM TẮT 
 ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ 
 CẤP ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 
 NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP XỬ LÝ BÃ THẢI 
 TRỒNG NẤM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH 
 PHỐ ĐÀ NẴNG 
 Mã số: Đ2015-02-136 
Xác nhận của cơ quan chủ trì đề tài Chủ nhiệm đề tài 
 Đà Nẵng, 6/2016 MỞ ĐẦU 
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài trong và ngoài 
nƣớc 
1.1. Trên thế giới 
 Nguồn nguyên liệu trồng nấm đa dạng nên nguồn bã thải sau nuôi trồng 
cũng khá phong phú. Chiu và cộng sự (2000) đã chỉ ra rằng quá trình sản xuất 
1 tấn nấm thành phẩm sẽ tạo ra 1 tấn bã thải trồng nấm [17]. Bã thải trồng nấm 
có hàm lượng khoáng, photphát và độ xốp cao có tác dụng điều hòa rất tốt cho 
đất và là nguồn phân bón kích thích hạt giống nảy mầm [19], [20]. 
 Giả sử ban đầu hàm lượng chất khô trong nguyên liệu là 100%, sau quá 
trình phát triển của hệ sợi nấm đến khi ra quả thể, hàm lượng chất khô giảm 
còn 64%, tức là 4% lượng chất khô đã được sợi nấm chuyển hóa và hấp thu 
(400g nấm tươi chứa 90% là nước, tiêu tốn 1kg nguyên liệu), 32% còn lại 
chuyển hóa thành nước và CO2 [21]. Theo nghiên cứu của S. Rajarathnam 
và cộng sự (1979) cho thấy trong quá trình phát triển nấm sò Pleulotus đã phân 
hủy 13,9%-14,0% cellulose, 6,6% - 7,0% hemicellulose và lignin giảm 1,5%-
4,0%, hàm lượng nitơ tổng số giảm 0,16%-0,23%, trong khi đó lượng đường 
tự do, hàm lượng tro tổng và tỉ lệ C/N có xu hướng tăng [21]. Nguồn nguyên 
liệu ban đầu chủ yếu là các hợp chất khó phân hủy, ở giai đọan đầu nấm sò 
phát triển mạnh làm tăng hàm lượng đường tự do nên thường có mùi ngọt nhẹ 
đã thu hút nhiều loài như bướm, ong ruồi đến đẻ trứng, hơn nữa khi thải ra môi 
trường vẫn còn hệ sợi ăn trắng xung quanh nên bịch nấm ban đầu vẫn còn giá 
trị dinh dưỡng đối với một lượng lớn các loài vi sinh vật và nấm bệnh. Do đó 
nếu không có biện pháp xử lý kịp thời ổ nấm bệnh sẽ dễ lây lan nhanh trong 
quá trình trồng nấm và làm ô nhiễm môi trường xung quanh do quá trình phân 
hủy chậm của các hợp chất lignin, hemicellulose và cellulose. 
1.2. Trong nƣớc 
 Từ năm 1990 thì ngành sản xuất nấm đã được xem là ngành mang lại hiệu 
quả kinh tế cao thu hút sự tham gia của nhiều bà con nông dân. Năm 2010, 
nghề sản xuất nấm ăn, nấm dược liệu được đưa vào danh mục sản phẩm quốc 
gia được ưu tiên đầu tư phát triển [13]. Đến năm 2013 tổng sản lượng nấm tại 
Việt Nam đạt 21.000 tấn xếp thứ 20 trong số các quốc gia sản xuất nấm trên 
thế giới [23]. 
 1 
 Đi đôi với sự thành công trong việc gia tăng quy mô và sản lượng nuôi 
trồng nấm thì lượng bã thải trồng nấm được thải ra ngày càng lớn. Hầu hết ở 
nông thôn, nguồn bã thải được đưa trực tiếp ra môi trường tự nhiên tiềm ẩn 
nguy cơ gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khỏe của con người. 
Một số cơ sở đã quan tâm xử lý như: 
 - Ông Mai Thanh Nhân – xã viên Hợp tác xã sản xuất chế biến kinh doanh 
nấm Thanh Tuyền tại ấp Phước Hựu, xã Tam Phước, huyện Châu Thành tỉnh 
Bến Tre thành công trong mô hình trồng nấm rơm trên bã nấm bào ngư [26]. 
 - Ông Nguyễn Đăng Trí ấp Bàu Cối, xã Bảo Quang, huyện Long Khánh, 
tỉnh Đồng Nai trồng nấm rơm trên bã nấm mộc nhĩ [24]. 
 - Lê Duy Thắng, Trần Hoàng Dũng, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên 
TP. HCM đã nghiên cứu và tận dụng nguồn bã thải trồng nấm rơm sau trồng 
nấm để nuôi trùn quế [22]. 
 - Công ty TNHH hữu cơ Việt Úc Đà Nẵng đã dùng nguồn bã thải trồng 
nấm sò, ủ với phân bò, bổ sung thêm bã hèm sau đó bón lót trồng rau. 
 Tại Đà Nẵng vào năm 2010, tác giả Lê Văn Thông đã tiến hành nghiên cứu, 
xây dựng quy trình xử lý rơm thải sau trồng nấm rơm làm phân hữu cơ vi sinh 
bằng phương pháp ủ bể có đảo trộn [7]. Tuy nhiên, phương pháp này cần phải 
có bể ủ nên chưa phù hợp với điều kiện sản xuất tại các hợp tác xã, tổ hợp tác 
sản xuất nấm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 
2. Tính cấp thiết của đề tài 
 Trong thời gian qua, thành phố Đà Nẵng được xác định là trung tâm kinh tế 
của miền Trung và trên cả nước với mức tăng trưởng kinh tế nhanh, liên tục và 
khá ổn định gắn liền với các tiến bộ trong đời sống xã hội. Trong đó, việc thực 
hiện tốt những giải pháp trong chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng 
nông thôn mới đã thay đổi tổng thể về kinh tế - xã hội của nhiều địa phương, 
nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân nông thôn ngày một tốt hơn. 
Công tác đổi mới, phát triển mô hình sản xuất có hiệu quả đã mang lại nhiều 
thành tựu góp phần nâng cao thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn 
năm 2013 đạt 20,86 triệu đồng, tăng 1,93 triệu đồng so với năm 2012 và đưa 
tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn thành phố) giảm từ 16,52% xuống còn 10,3% năm 
2013; tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên khu vực nông thôn đạt 95,2%. 
 Với định hướng phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, nông nghiệp 
 2 
 đô thị áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến vào lĩnh vực 
sản xuất nông nghiệp, tạo nghề mới trên cơ sở nguồn tài nguyên và lao động 
sẵn có. Thành phố Đà Nẵng đã có chủ trương phát triển ngành trồng nấm do 
nghề này mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân nhưng quy trình sản 
xuất đơn giản, ít tốn diện tích đất canh tác và nguyên liệu sử dụng là các phế 
phẩm của ngành nông nghiệp như rơm rạ, mùn cưa... Dưới sự khuyến khích 
chuyển đổi, tuyên truyền và mở các lớp kỹ thuật nuôi trồng nấm cho các hộ 
nông dân, ngành trồng nấm tại Đà Nẵng ngày càng có nhiều hộ nông dân tham 
gia và đã đạt được nhiều mô hình trồng nấm rơm, nấm sò thành công. 
 Đi đôi với sự thành công của ngành trồng nấm, cùng với việc nhiều hộ gia 
đình tham gia trồng nấm, nhiều hợp tác xã, tổ hợp tác sản xuất chuyên canh 
nấm hình thành thì nguồn bã thải trồng nấm sẽ rất lớn. Nguyên liệu trồng nấm 
là hỗn hợp được phối trộn từ mùn cưa, rơm rạ với một số thành phần khác như 
cám gạo, bột ngô trong đó thành phần chủ yếu là mùn cưa hay rơm rạ. Đây 
là những hợp chất khó phân hủy và sẽ được nấm sử dụng làm hoai mục một 
phần, đồng thời phát triển hệ sợi nên bã thải trồng nấm vẫn còn lượng lớn các 
chất hữu cơ chậm phân hủy như cellulose, lignin và nấm bệnh. Nếu được xử 
lý đúng cách bã thải trồng nấm sẽ là nguồn phân hữu cơ phục vụ cho trồng hoa 
và rau an toàn. Tuy nhiên hầu hết ở nông thôn, nguồn bã thải được đỗ thải trực 
tiếp ra môi trường tự nhiên điều này gây nguy cơ ô nhiễm môi trường, phá vỡ 
cảnh quan và lãng phí nguồn nguyên liệu sản xuất phân hữu cơ. 
 Chính vì vậy, việc đánh giá hiện trạng thu gom và nghiên cứu các giải pháp 
xử lý bã thải trồng nấm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là hết sức cần thiết. 
Đó là lí do chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu giải pháp xử lý bã thải 
trồng nấm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”. 
3. Mục tiêu nghiên cứu 
 - Hướng đến tái sử dụng có hiệu quả các phế thải nông nghiệp trên địa 
bàn thành phố Đà Nẵng. 
 - Xây dựng mô hình xử lý bã thải trồng nấm cho các trang trại trồng 
nấm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 
 - Nghiên cứu thành phần và kiểm tra thực nghiệm bã thải trồng nấm đã 
qua xử lý. 
 3 
 4. Cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu 
4.1. Cách tiếp cận 
 - Khảo sát, điều tra và tổng hợp; 
 - Nghiên cứu, thử nghiệm các mô hình xử lý; 
 - Tiếp cận định tính và định lượng bã thải trồng nấm, các thành phần trong 
bã thải sau xử lý (phân hữu cơ vi sinh), các chỉ tiêu của cây cải mầm và cây cải 
ngọt. 
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 
 Để thực hiện đề tài, các tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: 
 - Phương pháp điều tra, khảo sát. 
 - Phương pháp thống kê. 
 - Phương pháp mô hình. 
 - Phương pháp lấy mẫu, phân tích. 
 - Phương pháp kế thừa. 
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 
5.1. Đối tƣợng nghiên cứu 
 - Bã thải trồng nấm tại các hợp tác xã trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 
 - Thực trạng thu gom và xử lý bã thải trồng nấm. 
 - Các giải pháp xử lý bã thải trồng nấm và sản phẩm bã thải trồng nấm 
sau xử lý. 
5.2. Phạm vi nghiên cứu 
 - Các hợp tác xã, tổ hợp tác sản xuất nấm quy mô từ 16 tấn nguyên 
liệu/năm trở lên trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 
 - Thực hiện mô hình xử lý bã thải trồng nấm tại 01 hợp tác xã ở quận 
Liên Chiểu và 01 hợp tác xã ở huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. 
6. Nội dung nghiên cứu 
 Theo tiến trình thực hiện đề tài các nội dung chính được thực hiện như sau: 
 Nội dung 1: Tổng quan tài liệu nghiên cứu và khảo sát thực trạng ngành sản 
xuất nấm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 
 Nội dung 2: Điều tra hiện trạng công tác thu gom, xử lý bã thải trồng nấm 
tại các hợp tác xã, tổ hợp tác sản xuất nấm. 
 Nội dung 3: Xây dựng các mô hình xử lý bã thải trồng nấm bằng phương 
 4 
 pháp sinh học để đánh giá hiệu quả xử lý: 
 - Xử lý bã thải trồng nấm không phối trộn thêm phân bò bằng phương 
pháp ủ đống; 
 - Xử lý bã thải trồng nấm có trộn thêm phân bò bằng phương pháp ủ 
đống; 
 - Xử lý bã thải trồng nấm bằng trùn quế. 
 Nội dung 4: Đánh giá chất lượng, hiệu quả xử lý bằng cách: 
 - Phân tích thành phần mẫu phân vi sinh sau xử lý. 
 - Trồng cây thực nghiệm: sử dụng bã thải trồng nấm sau xử lý làm giá 
thể trồng rau cải mầm và làm phân bón trồng rau cải ngọt. 
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 
7.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài 
 Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tư liệu, dẫn chứng, tài liệu tham 
khảo cho sinh viên, học viên cao học chuyên ngành công nghệ môi trường, 
quản lý môi trường. 
7.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài 
 Sản phẩm đề tài dùng định hướng quản lý phát triển bền vững và bảo vệ 
môi trường vùng nông thôn ở Đà Nẵng nói riêng và Việt Nam nói chung. 
 Quy trình xử lý bã thải trồng nấm và công thức phối trộn thích hợp đảm 
bảo sản phẩm phân vi sinh thu được từ xử lý bã thải trồng nấm đạt tiêu chuẩn. 
8. Bố cục đề tài 
 Mở đầu 
 Chương 1: Tổng quan tài liệu nghiên cứu 
 Chương 2: Thực nghiệm (Đối tượng, địa điểm và phương pháp nghiên cứu) 
 Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận 
 Kết luận và kiến nghị 
 5 
 CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN 
1.1. TÌNH HÌNH NUÔI TRỒNG NẤM TẠI VIỆT NAM VÀ ĐÀ NẴNG 
1.1.1. Tình hình ngành trồng nấm tại Việt Nam 
 Năm 2013 tổng sản lượng nấm tại Việt Nam đạt 21000 tấn, xếp thứ 20 trên 
thế giới về tổng sản lượng nấm [23]. 
1.1.2. Tình hình nuôi trồng nấm tại thành phố Đà Nẵng 
 Hiện nay, lực lượng lao động trong lĩnh vực sản xuất nấm ở Đà Nẵng cũng 
là khá đông. Cùng với đó, các hợp tác xã sản xuất nấm với quy mô từ 25 đến 
30 tấn nấm các loại mỗi năm cũng xuất hiện nhiều. Với sự đầu tư phát triển 
nhiều loại nấm như nấm rơm, nấm sò, nấm linh chi, nấm mộc nhĩ... Đây là 
những tiến bộ cho thấy khả năng phát triển nghề trồng nấm tại Đà Nẵng sắp tới 
sẽ có quy mô lớn và hiệu quả hơn nhiều [5], [12]. 
1.2. PHƢƠNG PHÁP XỬ LÝ BÃ THẢI TRỒNG NẤM 
 Bã thải trồng nấm có thể xử lý bằng các phương pháp sau: 
 - Sử dụng bã thải của các loại nấm cao cấp để làm nguyên liệu sản xuất các 
loại nấm thấp hơn. 
 - Phương pháp ủ sinh học. 
 - Phương pháp sử dụng trùn xử lý rác. 
 CHƢƠNG 2: THỰC NGHIỆM 
2.1. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU 
 - Thực trạng thu gom và xử lý bã thải sau trồng nấm tại các hợp tác xã, tổ 
hợp tác sản xuất nấm tại thành phố Đà Nẵng. 
 - Bã thải sau trồng nấm: nấm rơm và nấm sò. 
 - Các giải pháp xử lý bã thải trồng nấm và sản phẩm bã thải trồng nấm sau 
xử lý. 
2.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 
 Đề tài tiến hành nghiên cứu các nội dung sau: 
 - Khảo sát thực trạng thu gom và xử lý bã thải sau trồng nấm tại các HTX 
trồng nấm, tổ hợp tác sản xuất nấm, đơn vị sản xuất nấm có quy mô từ 16 tấn 
nguyên liệu/năm trở lên trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 
 - Đánh giá thực trạng thu gom và xử lý bã thải trồng nấm trên địa bàn thành 
phố Đà Nẵng. 
 6 
 - Thực hiện xử lý bã thải trồng nấm sò và nấm rơm bằng mô hình ủ đống có 
bổ sung chế phẩm vi sinh và mô hình xử lý bã thải trồng nấm bằng trùn Quế. 
 - Đánh giá chất lượng bã thải trồng nấm sau xử lý thông qua phân tích một 
số chỉ tiêu chất lượng của phân hữu cơ và phân hữu cơ vi sinh. 
 - Đánh giá khả năng ứng dụng bã thải trồng nấm sau xử lý làm giá thể hữu 
cơ (đất sạch) trồng rau cải mầm. 
 - Đánh giá khả năng ứng dụng bã thải trồng nấm sau xử lý làm phân hữu cơ 
sử dụng trong trồng rau cải ngọt. 
2.3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.3.1. Phƣơng pháp thu thập số liệu 
 a. Thu thập số liệu thứ cấp 
 b. Thu thập số liệu tại cơ sở trồng nấm 
 Việc thu thập số liệu tại các HTX, tổ hợp tác sản xuất, đơn vị sản xuất nấm 
có quy mô trên 16 tấn nguyên liệu trong năm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng 
được thực hiện thông qua phiếu điều tra và những ghi nhận thực tế tại cơ sở 
sản xuất thông qua phỏng vấn trực tiếp các hộ sản xuất nấm, đồng thời lấy các 
thông tin theo phiếu điều tra đã lập. 
2.3.2. Xây dựng mô hình xử lý bã thải trồng nấm 
 Việc nghiên cứu lựa chọn giải pháp và thực hiện các mô hình xử lý bã thải 
trồng nấm nhằm đáp ứng các mục tiêu sau: 
 - Xử lý nguồn bã thải trồng nấm thành các sản phẩm có khả năng ứng dụng 
phục vụ nhu cầu sản xuất. 
 - Đề ra quy trình, công thức phối trộn thích hợp đảm bảo sản phẩm thu 
được đạt tiêu chuẩn. 
 - Các mô hình được đề ra phải có tính ứng dụng cao, có khả năng áp dụng 
vào thực tế nhằm xử lý bã thải sau trồng nấm cho các HTX, tổ hợp tác sản 
xuất, đơn vị sản xuất nấm có công suất tương tự. 
 Để đáp ứng các mục tiêu trên, chúng tôi tiến hành xây dựng và vận hành 04 
mô hình thực nghiệm xử lý bã thải trồng nấm như sau: 
 1. Xây dựng mô hình xử lý bã thải trồng nấm sò 
 a. Mô hình 1 - Xử lý theo phương pháp ủ đống có bổ sung phân bò và 
chế phẩm vi sinh Emuniv 
 7 
 Mô hình có quy mô xử lý 1000 bịch bã thải trồng nấm (tương đương 0,6 
tấn bã thải trồng nấm). Thời gian thực hiện: 45 ngày. Đống ủ có kích thước: 
1,5m x 2,5m x 0,9 m (Hình 2.1). 
 4
 2
 1 1
 3 1% 3 1%
 5
 Hình 2.1. Mô hình xử lý bã thải trồng nấm sò bằng phương pháp ủ đống 
 b. Mô hình xử lý bã thải trồng nấm bằng trùn quế 
 Mô hình có quy mô nhỏ, thực hiện trong thùng xốp có kích thước 0,45m x 
0,6m x 0,4m (Hình 2.2). Thời gian thực hiện: 30 ngày. Các nguyên vật liệu 
thực hiện mô hình được trình bày tại Bảng 2.1. 
 1
 2
 Hình 2.2. Mô hình xử lý bã thải trồng nấm sò bằng trùn quế 
 (1) Bã thải trồng nấm đã trộn phân bò; (2) Sinh khối trùn quế và trùn quế 
 2. Xây dựng mô hình xử lý bã thải trồng nấm rơm 
 Bã thải trồng nấm rơm được xử lý theo phương pháp ủ đống sử dụng chế 
phẩm Emuniv với 2 mô hình: 01 mô hình có bổ sung phân bò và 01 mô hình 
không bổ sung phân bò. Mô hình có quy mô xử lý 100 kg bã thải. Thời gian 
thực hiện: 42 ngày. 
 Quy trình thực hiện tương tự như mô hình xử lý bã thải nấm sò theo 
phương pháp ủ đống. 
 Bảng 2.1. Thông số các mô hình xử lý bã thải trồng nấm 
 Bã thải nấm sò Bã thải nấm rơm 
 Nội dung Ủ đống Xử lý bằng Ủ đống có Ủ đống không 
 có phân(BSU) trùn quế(BST) phân(BRC) phân(BRK) 
Thời gian 
 45 ngày 30 ngày 42 ngày 42 ngày 
thực hiện 
 8 

File đính kèm:

  • pdfde_tai_nghien_cuu_giai_phap_xu_ly_ba_thai_trong_nam_tren_dia.pdf