Đề tài Xây dựng và phát triển khung năng lực công nghệ thông tin dành cho giáo viên Tiếng Anh
Ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào tiến trình giảng dạy và học tập nói chung và đào tạo ngoại ngữ nói riêng đã phát triển sâu rộng ở các nước trong khu vực và thế giới. Hiện nay, mối quan tâm của các nhà nghiên cứu và các nhà giáo dục không còn là có nên giới thiệu và ứng dụng CNTT vào quá trình đào tạo hay không, mà là làm thế nào để năng cao hiệu quả học tập của sinh viên thông qua việc ứng dụng các thành tựu mới của CNTT. Điều này chứng minh một thực tế là hành trình đưa các ứng dụng của công nghệ vào lớp học là xu thế mới, không thể quay ngược. Thêm vào đó, giúp sinh viên tiếp cận và làm quen với các phương tiện hỗ trợ học tập này là cách hỗ trợ họ chuẩn bị hành trang trên bước đường hòa nhập vào thị trường lao động hiện đại, nơi mà cái bóng của CNTT là khắp nơi, len lỏi vào công việc và cuộc sống của họ. Việc ứng dụng CNTT là hiện thực đang được triển khai ở các nước trong khu vực và thế giới; nhưng đối với giáo dục Việt Nam, đây là lý tưởng cần vươn tới. Mặc dầu đã có những đầu tư đáng kể về hạ tầng cơ sở CNTT vào giáo dục trong những năm gần đây, hạ tầng CNTT chúng ta vẫn luôn trong thế rượt đuổi với sự phát triển vượt bậc của CNTT thế giới.
Việc đào tạo ngoại ngữ có sự hỗ trợ của công nghệ Internet đã và đang xuất hiện ở các cấp đại học, trung học và dạy nghề ở nhiều nước trên thế giới. Ngay tại Việt Nam việc ứng dụng công nghệ trong giảng dạy ở trường học cũng đang trên đà phát triển, dù vẫn còn trong giai đoạn manh mún. Ngày nay, việc học tiếng Anh qua máy tính và việc học cách sử dụng thành thạo máy tính qua tiếng Anh là khuynh hướng chung trong các chương trình đào tạo ngoại ngữ.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề tài Xây dựng và phát triển khung năng lực công nghệ thông tin dành cho giáo viên Tiếng Anh

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG BÁO CÁO TÓM TẮT ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KHUNG NĂNG LỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN DÀNH CHO GIÁO VIÊN TIẾNG ANH Mã số: Đ2014-05-35 Chủ nhiệm đề tài: TS. NGUYỄN VĂN LONG Đà Nẵng, 12/2014 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG BÁO CÁO TÓM TẮT ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KHUNG NĂNG LỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN DÀNH CHO GIÁO VIÊN TIẾNG ANH Mã số: Đ2014-05-35 Xác nhận của cơ quan chủ trì đề tài Chủ nhiệm đề tài (ký, họ và tên, đóng dấu) (ký, họ và tên) Đà Nẵng, 12/2014 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào tiến trình giảng dạy và học tập nói chung và đào tạo ngoại ngữ nói riêng đã phát triển sâu rộng ở các nước trong khu vực và thế giới. Hiện nay, mối quan tâm của các nhà nghiên cứu và các nhà giáo dục không còn là có nên giới thiệu và ứng dụng CNTT vào quá trình đào tạo hay không, mà là làm thế nào để năng cao hiệu quả học tập của sinh viên thông qua việc ứng dụng các thành tựu mới của CNTT. Điều này chứng minh một thực tế là hành trình đưa các ứng dụng của công nghệ vào lớp học là xu thế mới, không thể quay ngược. Thêm vào đó, giúp sinh viên tiếp cận và làm quen với các phương tiện hỗ trợ học tập này là cách hỗ trợ họ chuẩn bị hành trang trên bước đường hòa nhập vào thị trường lao động hiện đại, nơi mà cái bóng của CNTT là khắp nơi, len lỏi vào công việc và cuộc sống của họ. Việc ứng dụng CNTT là hiện thực đang được triển khai ở các nước trong khu vực và thế giới; nhưng đối với giáo dục Việt Nam, đây là lý tưởng cần vươn tới. Mặc dầu đã có những đầu tư đáng kể về hạ tầng cơ sở CNTT vào giáo dục trong những năm gần đây, hạ tầng CNTT chúng ta vẫn luôn trong thế rượt đuổi với sự phát triển vượt bậc của CNTT thế giới. Việc đào tạo ngoại ngữ có sự hỗ trợ của công nghệ Internet đã và đang xuất hiện ở các cấp đại học, trung học và dạy nghề ở nhiều nước trên thế giới. Ngay tại Việt Nam việc ứng dụng công nghệ trong giảng dạy ở trường học cũng đang trên đà phát triển, dù vẫn còn trong giai đoạn manh mún. Ngày nay, việc học tiếng Anh qua máy tính và việc học cách sử dụng thành thạo máy tính qua tiếng Anh là khuynh hướng chung trong các chương trình đào tạo ngoại ngữ. Ứng dụng CNTT vào tiến trình giảng dạy và học tập nói chung và đào tạo ngoại ngữ nói riêng đã phát triển sâu rộng ở các 2 nước trong khu vực và thế giới. Hiện nay, mối quan tâm của các nhà nghiên cứu và các nhà giáo dục không còn là có nên giới thiệu và ứng dụng CNTT vào quá trình đào tạo hay không, mà là làm thế nào để năng cao hiệu quả học tập của sinh viên thông qua việc ứng dụng các thành tựu mới của CNTT. Điều này chứng minh một thực tế là hành trình đưa các ứng dụng của công nghệ vào lớp học là xu thế mới, không thể quay ngược. Thêm vào đó, giúp sinh viên tiếp cận và làm quen với các phương tiện hỗ trợ học tập này là cách hỗ trợ họ chuẩn bị hành trang trên bước đường hòa nhập vào thị trường lao động hiện đại, nơi mà cái bóng của CNTT là khắp nơi, len lỏi vào công việc và cuộc sống của họ. Khung năng lực Công nghệ Thông tin dành cho giáo viên tiếng Anh ở Việt Nam được xây dựng sẽ giúp chuẩn hóa và nâng cao nhận thức của giáo viên tiếng Anh trong việc ứng dụng Công nghệ Thông tin vào các hoạt động dạy và học; nghiên cứu và trao đổi giữa các thầy cô giáo. Đó là mục đích chính của công tác xây dựng này. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu của đề tài này là nghiên cứu và phát triển chuẩn năng lực công nghệ thông tin, dựa trên Quyết định số 1400/QĐ- TTg ngày 30 tháng 9 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020”; - Ứng dụng công nghệ để lưu trữ, phản hồi và đánh giá kết quả học tập được phát triển. - Ứng dụng Công nghệ Thông tin trong kiểm tra đánh giá của người học ngoại ngữ. Nghiên cứu, tìm ra các giải pháp nhằm đưa các ứng dụng của mạng xã hội vào quá trình đào tạo; biến quá trình học tập không chỉ bó gọn trong bốn bức tường của lớp học. Việc ứng dụng Web2.0 vào quá trình giảng dạy nhằm nâng cao tính tự chủ 3 và động cơ học tập của sinh viên; và đặc biệt mở rộng khả năng tương tác (tương tác với nội dung môn học, với giảng viên, với bạn học) của sinh viên bằng ba hướng: (1) kéo thế giới vào lớp học; (2) mang lớp học ra khỏi bốn bức tường; và (3) đặc biệt là, quá đó, tăng năng lực tiếp cận, xử lý, và điều tiến thông tin để tạo thông tin mới của người học. 3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Xây dựng các khung năng lực Công nghệ Thông tin dành cho giáo viên. Giáo dục kỹ thuật số là phương thức học tập và làm việc mới với Công nghệ Thông tin và liên lạc tạo thuận lợi cho các trải nghiệm học tập chất lượng đối với người học kỹ thuật số thế kỷ 21. Thực hiện và quản lý các hệ thống thông tin quản lý giáo dục trực tuyến và cơ sở dữ liệu của ngành.” Yêu cầu giáo viên, sinh viên và học sinh phải đạt chuẩn kiến thức về Công nghệ Thông tin. 4. Cấu trúc đề tài Ngoài các phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục; nội dung chính của đề tài được trình bày trong 3 chương, cụ thể: Chương 1. Cơ sở lý luận Chương 2. Phương pháp nghiên cứu Chương 3. Khung năng lực công nghệ thông tin cho giáo viên CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Cơ sở lý thuyết 1.1.1. Giáo dục kỹ thuật số Giáo dục kỹ thuật số là phương thức học tập và làm việc mới với Công nghệ Thông tin và liên lạc tạo thuận lợi cho các trải nghiệm học tập chất lượng đối với người học kỹ thuật số thế kỷ 21. Nó được định nghĩa là sự hội tụ các kỹ năng công nghệ, các hoạt động sư phạm và sự hiểu biết về thiết kế chương trình giảng 4 dạy phù hợp với người học kỹ thuật số. Nó chuyển sự tập trung từ các công cụ và các kỹ năng Công nghệ Thông tin và liên lạc đến một phương thức làm việc mới trong thế giới kỹ thuật số. 1.1.2. Các đường hướng ứng dụng Công nghệ Thông tin Khi xây dựng khung năng lực Công nghệ Thông tin cho giáo viên chúng tôi dựa vào các đường hướng ứng dụng Công nghệ Thông tin để làm cơ sở cho lựa chọn các tiêu chí năng lực được mô tả trong các mục tiêu. Giáo viên muốn đạt được các mục tiêu và tiêu chuẩn năng lực không những bồi dưỡng kiến thức và khả năng ứng dụng Công nghệ Thông tin mà còn phải biết lựa chọn các phương pháp hay đường hướng sư phạm phù hợp trong giảng dạy ngoại ngữ có ứng dụng Công nghệ Thông tin. Đồng thời, chúng tôi xác định các đường hướng dưới đây chính là cơ sở lý thuyết về phương pháp, qua đó thể hiện năng lực của giáo viên. Các mục tiêu và tiêu chí năng lực được phát triển có nội hàm đều là các đường hướng sau bởi lẽ không có một đương hướng nào dưới đây là phù hợp với tất cả ứng dụng trong môi trường công nghệ hoặc ít có ứng dụng công nghệ nào chỉ dùng một đường hướng. 1.1.2.1. Đường hướng hành vi (behavioural approach) Đường hướng hành vi là một đường hướng chính trong quá trình dạy học. Nó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bắt chước và luyện tập như là một quá trình thiết yếu trong việc phát triển ngôn ngữ. Chính vì vậy, theo đường hướng hành vi trong giảng dạy ngôn ngữ, việc thiết kế các trang web học trực tuyến hay phần mềm giảng dạy cần phải đi theo cấu trúc đã được sắp đặt sẵn, đó là một khối lượng kiến thức nhất định để hiểu một chủ đề. Giáo viên cần phải hiểu và có năng lực sử dụng Công nghệ Thông tin kết hợp với năng lực ngôn ngữ và phương pháp sư phạm để có thể phát huy được tối đa vai trò của giáo viên khi ứng dụng Công nghệ Thông tin trong dạy học ngoại ngữ. 5 1.1.2.2. Đường hướng tri nhận - kiến tạo (cognitive-constructivist approach) Những giáo viên theo đường hướng tri nhận sử dụng các chiến lược điều tiết và tiếp thu để giúp người học chiếm lĩnh tri thức tích cực hơn, hướng dẫn người học học, ghi nhớ, suy nghĩ một cách phê phán, khuyến khích người học vận dụng hơn là chỉ tập trung vào thành tích làm cho người học hiểu bài một cách thụ động. Khái niệm lược đồ là một nguyên tắc quan trọng trong đường hướng tri nhận-xây dựng - đây là một tiến trình tổ chức các khái niệm và thông tin thành một cấu trúc tri nhận hỗ trợ cho việc sử dụng ngôn ngữ sau này và việc nhớ lại kiến thức. Hình thức học bằng cách khám phá, tiếp nhận, và xử lý thông tin là đặc trưng của việc áp dụng các nguyên tắc tri nhận trong các bài giảng dựa trên công nghệ dạy học. Vì vậy, kiến thức và khả năng về sử dụng Công nghệ Thông tin của giáo viên sẽ được phân loại theo các cấp độ này. 1.1.2.3. Đường hướng nhận thức (cognitive approach) Đường hướng nhận thức nhấn mạnh tầm quan trọng của người học trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Người học chịu trách nhiệm đối với việc học và người dạy đóng một vai trò khác. Đường hướng nhận thức như là một chuỗi liên kết trong đó mỗi bài tập biểu hiện một điểm liên kết trên chuỗi liên kết đó mà người học phải có trách nhiệm gắn kết những điểm đó lại với nhau và nếu một điểm liên kết yếu, hay nói cách khác là người học chưa hiểu vấn đề thì những gì người học cần làm là học tập để bổ sung kiến thức đó. Chính vì vậy, việc giáo viên có năng lực ứng dụng đường hướng nhận thức vào việc sử dụng Công nghệ Thông tin trong dạy học phải tạo một môi trường học giống với thực tế cuộc sống. Hơn nữa, học sinh cần được hướng dẫn để mở rộng kiến thức khi sử dụng những gì họ đã và đang học. 6 1.1.2.4. Đường hướng văn hóa - xã hội (sociocultural theory) Lý thuyết văn hóa xã hội còn nhấn mạnh đến việc học diễn ra thông qua các phương tiện như ngôn ngữ, ký hiệu, hình ảnh, chữ viết cũng như các thiết bị công nghệ. Để một phần mềm hay một chương trình học ngoại ngữ trực tuyến có thể bồi dưỡng cho người học sự phát triển khả năng xử lý thông tin tốt hơn, phần mềm đó phải tạo ra môi trường học đa dạng các loại hình bài tập rèn luyện kỹ năng. Từ đó, người học sẽ có thói quen tự phản ánh quá trình học của mình và tự tìm ra các chiến lược học tập có định hướng trong hoạt động học. Thuyết văn hóa xã hội còn chú trọng đến cộng đồng thực hành tiếng. Như vậy, việc ứng dụng Công nghệ Thông tin phải cung cấp cho người học những lời nhận xét, đánh giá phù hợp với năng lực của họ cũng như là những hướng dẫn sử dụng công nghệ đó. Đường hướng văn hóa xã hội được thể hiện trong mục tiêu 4 khung năng lực Công nghệ Thông tin. Tức là khả năng sử dụng công nghệ để nâng cao năng lực giao tiếp, khả năng hợp tác và tính hiệu quả trong giảng dạy của giáo viên trong một xã hội học tập với Công nghệ Thông tin. 1.1.3. Năng lực Công nghệ Thông tin Bảng phân loại năng lực công nghệ bao gồm các bậc cấp độ phát triển từ đơn giản đến phức tạp, từ bậc đầu tiên đến bậc cuối cùng, từ khái quát đến chi tiết. Sáu cấp độ liên kết khá chặt chẽ về khả năng đọc hiểu, hợp tác, quyết định, hướng dẫn, tích hợp và xem xét đã chỉ ra một cách nhìn mới về việc học trong môi trường công nghệ. Bảng năng lực của Tomei (2003) được phân bố theo trục dọc, chúng tôi tổng hợp các cấp độ trên theo trục ngang để phân loại năng lực: tiêu chí thể hiện cơ bản và tiêu chí thể hiện ở cấp độ chuyên nghiệp và xây dựng thành 2 cấp độ năng lực cho giáo 7 viên tiếng Anh ở Việt Nam: thể hiện ở cấp độ cơ bản và thể hiện ở cấp độ chuyên nghiệp. Mỗi mục tiêu là một năng lực khác nhau. Trong mỗi mục tiêu có các tiêu chuẩn thể hiện các khía cạnh năng lực Công nghệ Thông tin. Chúng tôi chia các tiêu chuẩn thành hai tiêu chí thể hiện như đã phân tích ở trên: tiêu chí thể hiện ở cấp độ cơ bản và tiêu chí thể hiện ở cấp độ chuyên nghiệp. Mục đích của chúng tôi là bồi dưỡng năng lực Công nghệ Thông tin cho giáo viên để giáo viên đạt được năng lực cơ bản hoặc cao hơn là cấp độ chuyên nghiệp đối với những giáo viên có đam mê về công nghệ. 1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Nhu cầu của xã hội Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành chỉ thị về “tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng Công nghệ Thông tin trong ngành Giáo dục giai đoạn 2013-2018. Như vậy, yêu cầu giáo viên, sinh viên và học sinh phải đạt chuẩn kiến thức về Công nghệ Thông tin. Đối với giáo viên tiếng Anh, để nâng cao năng lực chuyên môn và triển khai Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020”, các cơ sở đào tạo được Đề án giao nhiệm vụ như là những Trung tâm Ngoại ngữ khu vực đã tổ chức các đợt bồi dưỡng nâng cao trình độ cho giáo viên Tiếng Anh cấp Trung học Cơ sở của các Sở GDĐT trên toàn quốc. Đợt bồi dưỡng hướng tới nâng cao một bậc năng lực tiếng Anh, cập nhật phương pháp giảng dạy và sử dụng sách giáo khoa mới hiệu quả cho giáo viên Tiếng Anh cấp THCS từ các Sở GDĐT đã có trình độ tương đương bậc 3 (B1-CEFR) hoặc bậc 2 (A2- CEFR) đối với các địa bàn khó khăn. Từ cơ sở thực tiễn trên chúng tôi muốn nghiên cứu và xây dựng khung năng lực về kiến thức Công nghệ Thông tin và ứng dụng Công nghệ Thông tin của giáo viên nhằm đạt hiệu quả cao 8 nhất trong giảng dạy, đáp ứng mọi nhu cầu giáo dục của xã hội hiện nay. 1.2.2. Sự cần thiết của năng lực ứng dụng CNTT trong giảng dạy Để ứng dụng Công nghệ Thông tin hiệu quả trong việc giảng dạy đòi hỏi người dạy phải có kiến thức về các thiết bị kỹ thuật số và các đường hướng ứng dụng Công nghệ Thông tin. Hiện nay, Công nghệ Thông tin gần như trở thành phương tiện và môi trường học tập, giảng dạy không thể tách rời với quá trình giáo dục. Chính vì vậy, năng lực CNTT của giáo viên là một yêu cầu không thể thiếu trong quá trình dạy học của người giáo viên. Nếu không có năng lực ứng dụng Công nghệ Thông tin giáo viên khó có thể thực hiện được các nhiệm vụ trọng tâm của năm học như sau (Trích Bộ GD&ĐT, 2007b; Bộ GD&ĐT, 2012). Từ các nhiệm vụ trọng tâm, chúng tôi phát triển các mục tiêu và triển khai các tiêu chuẩn trong mỗi mục tiêu. - Triển khai mạng giáo dục. (Mục tiêu 4) - Tăng cường phát triển nội dung thông tin số. (Mục tiêu 1) - Triển khai chương trình công nghệ giáo dục. (Mục tiêu 1, Mục tiêu 2) - Phát động các phong trào thi đua soạn bài giảng điện tử để đổi mới cách dạy và học. (Mục tiêu 2) - Tăng cường việc tổ chức họp, hội nghị và giảng dạy qua mạng. (Mục tiêu 4) - Tiếp tục thực hiện việc xử lý, phân tích dữ liệu kết quả các kì thi. (Mục tiêu 3) - Xây dựng chương trình, tài liệu bồi dưỡng kiến thức và kĩ năng về CNTT cho cán bộ quản lý và giáo viên trong quản lý giáo dục và trong giảng dạy. (Mục tiêu 2, Mục tiêu 4)
File đính kèm:
de_tai_xay_dung_va_phat_trien_khung_nang_luc_cong_nghe_thong.pdf