Đề tài Vấn đề trách nhiệm xã hội với SA8000 Việt Nam tại công ty cổ phần dệt may Bình Định

Trong những năm qua,chính sách đổi mới và mở cửa chủ động hội nhập kinh tế của Đảng và Nhà Nước đã mang lại những thành tựu to lớn trong sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta,làm thay đổi căn bản hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế.Toàn cầu hóa kinh tế là một xu hướng khách quan tạo nhiều cơ hội phát triển cho quốc gia,cho ngành công nghiệp đồng thời cũng chịu áp lực của các yếu tố thị trường, chủ sở hữu và nhân viên.

Các yêu cầu bởi khách hàng của các tổ chức với việc nâng cao hiệu quả kinh tế của các hoạt động mang tính trách nhiệm xã hội nhằm tạo và duy trì lợi thế cạnh tranh.Chủ sở hữu thì muốn đảm bảo đầu tư của họ được duy trì “trong sạch” về mặt trách nhiệm xã hội,cải thiện hình ảnh của doanh nghiệp đối với khách hàng và các bên quan tâm.Nhân viên thì muốn có môi trường làm việc an toàn,muốn có tổ chức và thương thảo tập thể với chủ doanh nghiệp về lợi ích. Vì vậy, tiêu chuẩn SA 8000 được ra đời như một tiêu chuẩn nhân bản để bảo vệ quyền và lợi ích cho người lao động đồng thời cũng nâng cao vị thế của các doanh nghiệp.

doc 21 trang Minh Tâm 28/03/2025 180
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Vấn đề trách nhiệm xã hội với SA8000 Việt Nam tại công ty cổ phần dệt may Bình Định", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề tài Vấn đề trách nhiệm xã hội với SA8000 Việt Nam tại công ty cổ phần dệt may Bình Định

Đề tài Vấn đề trách nhiệm xã hội với SA8000 Việt Nam tại công ty cổ phần dệt may Bình Định
 Chuyên đề chuyên sâu GVHD:Nguyễn Ngọc Tuấn
 VẤN ĐỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI VỚI 
 SA8000 TẠI VIỆT NAM
 PHẦN MỞ ĐẦU
 1. Lý do chọn đề tài:
 Trong những năm qua,chính sách đổi mới và mở cửa chủ động hội nhập kinh tế của 
Đảng và Nhà Nước đã mang lại những thành tựu to lớn trong sự phát triển kinh tế - xã hội 
nước ta,làm thay đổi căn bản hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế.Toàn cầu hóa kinh tế 
là một xu hướng khách quan tạo nhiều cơ hội phát triển cho quốc gia,cho ngành công 
nghiệp đồng thời cũng chịu áp lực của các yếu tố thị trường,chủ sở hữu và nhân viên.Các 
yêu cầu bởi khách hàng của các tổ chức với việc nâng cao hiệu quả kinh tế của các hoạt 
động mang tính trách nhiệm xã hội nhằm tạo và duy trì lợi thế cạnh tranh.Chủ sở hữu thì 
muốn đảm bảo đầu tư của họ được duy trì “trong sạch” về mặt trách nhiệm xã hội,cải 
thiện hình ảnh của doanh nghiệp đối với khách hàng và các bên quan tâm.Nhân viên thì 
muốn có môi trường làm việc an toàn,muốn có tổ chức và thương thảo tập thể với chủ 
doanh nghiệp về lợi ích.Vì vậy,tiêu chuẩn SA 8000 được ra đời như một tiêu chuẩn nhân 
bản để bảo vệ quyền và lợi ích cho người lao động đồng thời cũng nâng cao vị thế của 
các doanh nghiệp.
 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
 a. Đối tượng nghiên cứu:
 - Bộ tiêu chuẩn thực hiện trách nhiệm xã hội SA 8000
 - Luật quy định ở Việt Nam
 b. Phạm vi ngiên cứu:
 - Không gian : Công ty cổ phần dệt may Bình Định
 - Thời gian : 9/4 – 15/5/2010
 3. Phương pháp nghiên cứu:
 - Sưu tầm,truy cập tài liệu trên mạng internet
 - Phỏng vấn công ty
 - Phỏng vấn người lao động
 - Phỏng vấn công ty dịch vụ cung ứng
 - Hỏi ý kiến chuyên gia
 - Tìm hiểu tổ chức xây dựng bộ tiêu chuẩn 
 4. Kết cấu của chuyên đề :
 Chương 1 : Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 1 Chuyên đề chuyên sâu GVHD:Nguyễn Ngọc Tuấn
 Chương 2 : Thực trạng áp dụng bộ tiêu chuẩn SA 8000 tại công ty cổ phần dệt 
 may Bình Định
 Chương 3 : Vấn đề trách nhiệm xã hội với SA 8000 tại Việt Nam
 Chương 4 : Kiến nghị và kết luận
 PHẦN NỘI DUNG 
 CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
 1. Cơ sở lý luận :
 Thuật ngữ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp mới chính thức xuất hiện cách đây hơn 
50 năm, khi H.R.Bowen công bố cuốn sách của mình với nhan đề “Trách nhiệm xã hội 
của doanh nhân” (Social Responsibilities of the Businessmen) (1953) nhằm mục đích 
tuyên truyền và kêu gọi người quản lý tài sản không làm tổn hại đến các quyền và lợi ích 
của người khác, kêu gọi lòng từ thiện nhằm bồi hoàn những thiệt hại do các doanh nghiệp 
làm tổn hại cho xã hội. Tuy nhiên, từ đó đến nay, thuật ngữ trách nhiệm xã hội của doanh 
nghiệp đang được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Một số người xác định “trách nhiệm 
xã hội hàm ý nâng hành vi của doanh nghiệp lên một mức phù hợp với các quy phạm, giá 
trị và kỳ vọng xã hội đang phổ biến” (Prakash, Sethi, 1975: 58 – 64). Một số người khác 
hiểu “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bao gồm sự mong đợi của xã hội về kinh tế, 
luật pháp, đạo đức và lòng từ thiện đối với các tổ chức tại một thời điểm nhất định” 
(Archie. B Carroll, 1979), v.v.. 
 Hiện đang tồn tại hai quan điểm đối lập nhau về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. 
Những người ủng hộ quan điểm thứ nhất cho rằng, doanh nghiệp không có trách nhiệm gì 
đối với xã hội mà chỉ có trách nhiệm với cổ đông và người lao động của doanh nghiệp, 
còn nhà nước phải có trách nhiệm với xã hội; doanh nghiệp đã có trách nhiệm thông qua 
việc nộp thuế cho nhà nước. Trái lại, những người khác lại có quan điểm cho rằng, với tư 
cách là một trong những chủ thể của nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp đã sử dụng 
các nguồn lực của xã hội, khai thác các nguồn lực tự nhiên và trong quá trình đó, họ gây 
ra những tổn hại không tốt đối với môi trường tự nhiên. Vì vậy, ngoài việc đóng thuế, 
doanh nghiệp còn có trách nhiệm xã hội đối với môi trường, cộng đồng, người lao động, 
v.v.. 
 Còn ở Việt Nam, trong những năm gần đây, người ta thường sử dụng định nghĩa của 
Nhóm phát triển kinh tế tư nhân của Ngân hàng thế giới về trách nhiệm xã hội của doanh 
nghiệp. Theo đó, “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social Responsibility 
– CSR) là sự cam kết của doanh nghiệp đóng góp vào việc phát triển kinh tế bền vững, 
thông qua những hoạt động nhằm nâng cao chất lượng đời sống của người lao động và 
các thành viên gia đình họ, cho cộng đồng và toàn xã hội, theo cách có lợi cho cả doanh 
nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội”
 Nói cách khác, doanh nghiệp muốn phát triển bền vững luôn phải tuân theo những 
chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền lợi lao 
động, trả lương công bằng, đào tạo và phát triển nhân viên và phát triển cộng đồng. Trách 
SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 2 Chuyên đề chuyên sâu GVHD:Nguyễn Ngọc Tuấn
nhiệm xã hội của doanh nghiệp được thể hiện một cách cụ thể trên các yếu tố, các mặt, 
như: 1. Bảo vệ môi trường; 2. Đóng góp cho cộng đồng xã hội; 3. Thực hiện tốt trách 
nhiệm với nhà cung cấp; 4. Bảo đảm lợi ích và an toàn cho người tiêu dùng; 5. Quan hệ 
tốt với người lao động; và 6. Đảm bảo lợi ích cho cổ đông và người lao đông trong doanh 
nghiệp. Trong đó, bốn yếu tố đầu tiên thể hiện trách nhiệm bên ngoài của doanh nghiệp, 
còn hai yếu tố cuối thể hiện trách nhiệm bên trong, nội tại của doanh nghiệp. Tất nhiên, 
sự phân chia thành trách nhiệm bên ngoài và trách nhiệm bên trong chỉ có ý nghĩa tương 
đối và không thể nói trách nhiệm nào quan trọng hơn trách nhiệm nào. 
 Với những nội dung cụ thể như vậy về trách nhiệm xã hội thì việc thực hiện trách 
nhiệm xã hội của doanh nghiệp không chỉ làm cho doanh nghiệp phát triển bền vững, mà 
còn góp phần vào sự phát triển bền vững của xã hội nói chung. 
 Như chúng ta đều biết, ở Việt Nam, phát triển bền vững đã trở thành mục tiêu chiến 
lược và được đề ra từ những năm 80 của thế kỷ XX. Cùng với thời gian, khái niệm phát 
triển bền vững đã có sự thay đổi về nội hàm và ngày càng được bổ sung thêm những nội 
dung mới. 
 Xét về nguồn gốc, thuật ngữ phát triển bền vững ra đời từ những năm 70 của thế kỷ XX 
và bắt đầu thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu về môi trường và phát triển quốc tế 
nhờ sự ra đời của công trình Chiến lược bảo tồn thế giới(1980)(2). Sau đó, tư tưởng về 
phát triển bền vững được trình bày trong một loạt công trình, như Tương lai chung của 
chúng ta (1987), Chăm lo cho trái đất (1991)(3) Khi nói về sự phát triển bền vững, 
người ta thường sử dụng hai định nghĩa đã được nêu ra trong các cuốn sách nói trên. 
Trong cuốn Tương lai chung của chúng ta, phát triển bền vững được hiểu là sự phát triển 
đáp ứng những nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của 
các thế hệ tương lai; còn trong cuốn Chăm lo cho trái đất, phát triển bền vững được xác 
định là việc nâng cao chất lượng đời sống con người khi đang tồn tại trong khuôn khổ 
bảo đảm các hệ sinh thái. Nhìn chung, cả hai định nghĩa đó đều quy phát triển bền vững 
về việc sử dụng một cách hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi truờng sao cho thế 
hệ hôm nay vẫn phát triển được mà không làm ảnh hưởng đến tương lai của các thế hệ 
sau. 
 Như vậy, nếu xét theo nguồn gốc của thuật ngữ, phát triển bền vững là một sự phát 
triển bảo đảm tăng trưởng kinh tế trên cơ sở sử dụng một cách hợp lý tài nguyên thiên 
nhiên và bảo vệ được môi trường tự nhiên nhằm vừa có thể thỏa mãn được nhu cầu của 
thế hệ hôm nay, vừa không làm ảnh hưởng đến điều kiện thỏa mãn nhu cầu và môi 
trường sống của các thế hệ mai sau. Thực chất của sự phát triển bền vững là giải quyết 
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo đảm sự công 
bằng giữa các thế hệ trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. 
 Tuy nhiên, ở Việt Nam, ngoài nội dung trên đây, khái niệm phát triển bền vững còn 
được bổ sung thêm nhiều nội dung mới. Việt Nam đang chủ trương xây dựng chiến lược 
phát triển bền vững phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Nội dung cơ 
bản của chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam bao gồm: 
 Một là, phát triển nhanh phải đi đôi với tính bền vững. Điều đó phải được kết hợp ở cả 
tầm vĩ mô lẫn vi mô, ở cả tầm ngắn hạn lẫn dài hạn. 
 Hai là, tăng trưởng về số lượng phải đi liền với nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức 
SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 3 Chuyên đề chuyên sâu GVHD:Nguyễn Ngọc Tuấn
cạnh tranh của nền kinh tế. 
 Ba là, trong khi khai thác các yếu tố phát triển theo chiều rộng, phải đặc biệt coi trọng 
các yếu tố phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. 
 Bốn là, phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển toàn diện con 
người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời 
sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo. 
Năm là, phải coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước phát triển. 
Sáu là, phát triển kinh tế phải đi đôi với việc bảo đảm ổn định chính trị – xã hội, coi đây 
là tiền đề, điều kiện để phát triển nhanh và bền vững(4). 
 Có thể nói, đây là những nội dung cơ bản trong chiến lược phát triển bền vững của Việt 
Nam. Chiến lược đó đã thể hiện khá rõ sự kết hợp giữa quan điểm truyền thống, kinh 
điển và quan điểm mới, riêng của Việt Nam. 
Trong chiến lược phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam, chúng ta có thể nhận thấy 
rằng: 
Thứ nhất, yếu tố ổn định chính trị – xã hội được xem là tiền đề, điều kiện để phát triển 
nhanh và bền vững. 
Thứ hai, chiến lược phát triển nhanh, bền vững tập trung nâng cao chất lượng phát triển, 
kết hợp giữa phát triển kinh tế với việc phát triển toàn diện con người, thực hiện dân chủ, 
tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống, khuyến khích làm 
giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo, với việc coi trọng bảo vệ và cải thiện môi 
trường ngay trong từng bước phát triển. 
Thứ ba, chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam đã đề cập một cách khá toàn diện 
các khía cạnh khác nhau của sự phát triển, trong đó nổi lên việc giải quyết hài hòa các 
mối quan hệ, như hài hòa giữa phát triển nhanh và bền vững, giữa tăng trưởng về số 
lượng và nâng cao chất lượng, giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều 
sâu; hài hòa giữa phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, giữa tăng trưởng 
kinh tế với bảo vệ và cải thiện môi trường, v.v.. Hài hòa là một trong những nội dung 
quan trọng của chiến lược phát triển bền vững. 
Thứ tư, vấn đề trọng tâm, mục tiêu cơ bản của chiến lược phát triển bền vững chính là 
vấn đề dân sinh. Điều đó được thể hiện trong nội dung của chiến lược mà chúng tôi vừa 
trình bày. Chiến lược phát triển nhanh và bền vững đã chú trọng đến chất lượng của sự 
tăng trưởng kinh tế, những mục tiêu của sự tăng trưởng hướng tới sự phát triển toàn diện 
của con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải 
thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo, với việc 
coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước phát triển. Rõ ràng, mục 
tiêu của sự tăng trưởng như vậy là nhằm giải quyết ngày càng tốt hơn vấn đề dân sinh, 
bảo đảm cho mọi người dân có cuộc sống ấm no và hạnh phúc. Trên thực tế, chiến lược 
phát triển nhanh, bền vững là phương thức hữu hiệu bảo đảm cho sự phát triển đất nước 
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, 
dân chủ, văn minh”. 
Mặt khác, khi tiếp cận trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, chúng ta cần tiếp cận cả trên 
phương diện đạo đức lẫn phương diện pháp lý. Chúng ta không nên chỉ hiểu trách nhiệm 
của doanh nghiệp ở khía cạnh đạo đức của chủ doanh nghiệp, ở công tác từ thiện của 
SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 4 Chuyên đề chuyên sâu GVHD:Nguyễn Ngọc Tuấn
doanh nghiệp, mà cần hiểu cả ở khía cạnh pháp lý, tức thực thi trách nhiệm xã hội là một 
yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Việc kết hợp cả hai phương diện đạo đức và 
pháp lý là cơ sở quan trọng để đề xuất các giải pháp nâng cao trách nhiệm xã hội của 
doanh nghiệp.
 2. Cơ sở thực tiễn :
Trên thế giới, đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, trách nhiệm xã hội 
không còn là vấn đề xa lạ. Các doanh nghiệp nếu thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của 
mình sẽ đạt được một chứng chỉ quốc tế hoặc áp dụng những bộ Qui tắc ứng xử (Code of 
Conduct hay gọi tắt là CoC). Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, những người tiêu 
dùng, nhà đầu tư, nhà hoạch định chính sách và các tổ chức phi chính phủ trên toàn cầu 
ngày càng quan tâm hơn tới ảnh hưởng của việc toàn cầu hoá đối với quyền của người lao 
động, môi trường và phúc lợi cộng đồng. Những doanh nghiệp không thực hiện trách 
nhiệm xã hội có thể sẽ không còn cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế. 
Thực tế trên thế giới đã chỉ ra rằng, doanh nghiệp nào thực hiện tốt trách nhiệm xã hội thì 
lợi ích của họ không những không giảm đi mà còn tăng thêm. Những lợi ích mà doanh 
nghiệp thu được khi thực hiện trách nhiệm xã hội bao gồm giảm chi phí, tăng doanh thu, 
tăng giá trị thương hiệu, giảm tỷ lệ nhân viên thôi việc, tăng năng suất và thêm cơ hội 
tiếp cận những thị trường mới. Chúng ta có thể dẫn ra đây một số ví dụ về lợi ích của việc 
thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. 
Thứ nhất, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần giảm chi phí và tăng năng suất. Một 
doanh nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí sản xuất nhờ đầu tư, lắp đặt các thiết bị mới. 
Chẳng hạn, một doanh nghiệp sản xuất bao bì lớn của Ba Lan đã tiết kiệm được 12 triệu 
đô la Mỹ trong vòng 5 năm nhờ việc lắp đặt thiết bị mới, nhờ đó làm giảm 7% lượng 
nước sử dụng, 70% lượng chất thải nước và 87% chất thải khí(5). 
Chi phí sản xuất và năng suất lao động phụ thuộc chặt chẽ vào hệ thống quản lý nhân sự. 
Một hệ thống quản lý nhân sự hiệu quả cũng giúp doanh nghiệp cắt giảm chi phí và tăng 
năng suất lao động đáng kể. Chế độ lương, thưởng hợp lý, môi trường lao động sạch sẽ 
và an toàn, các cơ hội đào tạo và chế độ bảo hiểm y tế và giáo dục đều góp phần giảm tỷ 
lệ nhân viên nghỉ, bỏ việc, do đó giảm chi phí tuyển dụng và đào tạo nhân viên mới. Tất 
cả cái đó góp phần giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất lao động. 
Thứ hai, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần tăng doanh thu. Mỗi doanh nghiệp đều 
đứng trên địa bàn nhất định. Do đó, việc đầu tư hỗ trợ phát triển kinh tế địa phương có 
thể tạo ra một nguồn lao động tốt hơn, nguồn cung ứng rẻ và đáng tin cậy hơn và nhờ đó 
tăng doanh thu. Chẳng hạn, Công ty Hindustan Lever, một chi nhánh của tập đoàn 
Unilever tại Ấn Độ, vào đầu những năm 70 chỉ hoạt động được với 50% công suất do 
thiếu nguồn cung ứng sữa bò từ địa phương và do vậy, đã bị lỗ trầm trọng. Để giải quyết 
vấn đề này, công ty đã thiết lập một chương trình tổng thể giúp nông dân tăng sản lượng 
sữa bò. Chương trình này bao gồm đào tạo nông dân cách chăn nuôi, cải thiện cơ sở hạ 
tầng cơ bản và thành lập một ủy ban điều phối những nhà cung cấp địa phương. Nhờ đó, 
số lượng làng cung cấp sữa bò đã tăng từ 6 tới hơn 400, giúp cho công ty hoạt động hết 
công suất và đã trở thành một trong những chi nhánh kinh doanh lãi nhất tập đoàn(6). 
SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 5 Chuyên đề chuyên sâu GVHD:Nguyễn Ngọc Tuấn
Thứ ba, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần nâng cao giá trị thương hiệu và uy tín của 
công ty. Trách nhiệm xã hội có thể giúp doanh nghiệp tăng giá trị thương hiệu và uy tín 
đáng kể. Đến lượt nó, uy tín giúp doanh nghiệp tăng doanh thu, hấp dẫn các đối tác, nhà 
đầu tư và người lao động. Trên thế giới, những công ty khổng lồ đang chi một khoản tiền 
rất lớn để trở thành hình mẫu kinh doanh lý tưởng. Chẳng hạn, hãng điện tử dân dụng 
Best Buy đã có chương trình tái chế sản phẩm; hãng cà phê nổi tiếng Starbucks đã và 
đang bắt tay vào các hoạt động cộng đồng; hãng nước khoáng nổi tiếng của Pháp Evian 
phân phối sản phẩm của mình trong những chai nước thân thiện với môi trường. Những 
tập đoàn đa quốc gia như The Body Shop (tập đoàn của Anh chuyên sản xuất các sản 
phẩm dưỡng da và tóc) và IKEA (tập đoàn kinh doanh đồ dùng nội thất của Thụy Điển) 
là những ví dụ điển hình. Cả hai công ty này đều nổi tiếng không chỉ vì các sản phẩm có 
chất lượng và giá cả hợp lý của mình, mà còn nổi tiếng là các doanh nghiệp có trách 
nhiệm đối với môi trường và xã hội(7). 
Thứ tư, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần thu hút nguồn lao động giỏi. Nguồn lao 
động giỏi, có năng lực là yếu tố quyết định năng suất và chất lượng sản phẩm của doanh 
nghiệp. Có một thực tế là, ở các nước đang phát triển, nguồn nhân lực được đào tạo có 
chất lượng cao không nhiều. Vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp là làm thế nào thu 
hút, giữ chân họ và phát huy hết khả năng của họ trong hoạt động quản lý, sản xuất kinh 
doanh của doanh nghiệp. Do vậy, việc thu hút và giữ được nhân viên có chuyên môn tốt 
là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp. Trong điều kiện của nền kinh tế thị 
trường, những doanh nghiệp trả lương thỏa đáng và công bằng, tạo cho nhân viên cơ hội 
đào tạo, có chế độ bảo hiểm y tế và môi trường làm việc sạch sẽ có khả năng thu hút và 
giữ được nguồn nhân lực có chất lượng cao. 
 Tất cả những điều nói trên là cơ sở để luận chứng cho sự cần thiết phải thực hiện trách 
nhiệm xã hội của doanh nghiệp nói chung, đồng thời là những kinh nghiệm bổ ích, có giá 
trị tham khảo cho các doanh nghiệp Việt Nam. 
 Trên thực tế, ở Việt Nam, vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp mặc dù là vấn 
đề mới mẻ, nhưng bước đầu đã được một số bộ, ngành quan tâm, chú ý. Bằng chứng là, 
từ năm 2005, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Bộ Lao động Thương binh 
và Xã hội, Bộ Công thương cùng với các hiệp hội Da giày, Dệt may trao giải thưởng 
“Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp hướng tới sự phát triển bền vững” nhằm tôn vinh 
các doanh nghệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối cảnh hội 
nhập. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp lớn ở Việt Nam đã nhận thấy rằng, trách nhiệm xã 
hội của doanh nghiệp đã trở thành một trong những yêu cầu không thể thiếu được đối với 
doanh nghiệp, bởi lẽ, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nếu doanh nghiệp 
không tuân thủ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp sẽ không thể tiếp cận được với thị 
trường thế giới. Nhiều doanh nghiệp khi thực hiện trách nhiệm xã hội đã mang lại những 
hiệu quả thiết thực trong sản xuất kinh doanh. Kết quả khảo sát gần đây do Viện Khoa 
học lao động và xã hội tiến hành trên 24 doanh nghiệp thuộc hai ngành Giầy da và Dệt 
may cho thấy, nhờ thực hiện các chương trình trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, 
doanh thu của các doanh nghiệp này đã tăng 25%, năng suất lao động cũng tăng từ 34,2 
triệu đồng lên 35,8 triệu đồng/1 lao động/năm; tỷ lệ hàng xuất khẩu tăng từ 94% lên 97%. 
Bên cạnh hiệu quả kinh tế, các doanh nghiệp còn củng cố được uy tín với khách hàng, tạo 
SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 6 Chuyên đề chuyên sâu GVHD:Nguyễn Ngọc Tuấn
được sự gắn bó và hài lòng của người lao động đối với doanh nghiệp, thu hút được lực 
lượng lao động có chuyên môn cao(8). 
 Do nhận thức được tầm quan trọng và ích lợi của việc thực hiện trách nhiệm xã hội 
trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, một số doanh nghiệp lớn của Việt Nam, 
ngoài trách nhiệm đóng thuế cho nhà nước, đã đăng ký thực hiện trách nhiệm xã hội dưới 
dạng các cam kết đối với xã hội trong việc bảo vệ môi trường, với cộng đồng địa phương 
nơi doanh nghiệp đóng và với người lao động. 
 Tuy nhiên, bên cạnh đó, phải thừa nhận rằng, trong thời gian qua ở Việt Nam, nhiều 
doanh nghiệp đã không thực hiện một cách nghiêm túc trách nhiệm xã hội của mình. 
Điều đó thể hiện ở các hành vi gian lận trong kinh doanh, báo cáo tài chính, không bảo 
đảm an toàn lao động, sản xuất, kinh doanh hàng kém chất lượng, cố ý gây ô nhiễm môi 
trường. Điển hình là các vụ xả nước thải không qua xử lý gây ô nhiễm môi trường 
nghiêm trọng cho các dòng sông và cộng đồng dân cư của các Công ty Miwon, Công ty 
thuộc da Hào Dương, Công ty Giấy Việt Trì, công ty Hyundai Vinashin (Khánh Hòa), 
các vụ sản xuất thực phẩm chứa chất có hại cho sức khỏe con người, như nước tương có 
chứa chất 3-MCPD gây ung thư, bánh phở chứa phormol, thực phẩm chứa hàn the, sữa có 
chứa melamine. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp vi phạm các quy định pháp luật về lương 
bổng, chế độ bảo hiểm, vấn đề an toàn lao động cho người lao động cũng không còn là 
hiện tượng hiếm thấy, đã và đang gây bức xúc cho xã hội. 
 Vấn đề đặt ra hiện nay là, cần tìm nguyên nhân của các hiện tượng và những giải pháp 
để khắc phục tình trạng đó. 
 Hiện đang có những ý kiến khác nhau về nguyên nhân dẫn đến việc không thực hiện 
trách nhiệm xã hội của nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam. Một số người cho rằng, trách 
nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam chưa được luật hóa ở tất cả các doanh 
nghiệp. Đối với các doanh nghiệp lớn có thị trường xuất khẩu, do yêu cầu của khách hàng 
nên buộc phải thực hiện trách nhiệm xã hội, còn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, do khó 
khăn về tài chính và thiếu ràng buộc về pháp lý nên nhiều doanh nghiệp chỉ hiểu trách 
nhiệm xã hội là “các khoản đóng góp từ thiện”. Một số người khác cho rằng, việc thực 
hiện trách nhiệm xã hội sẽ làm tăng chi phí cho doanh nghiệp, làm giảm khả năng cạnh 
tranh ban đầu mà chưa thấy ngay được lợi ích trước mắt, do đó các doanh nghiệp vừa và 
nhỏ không muốn thực hiện trách nhiệm xã hội. Nói tóm lại, việc thực hiện trách nhiệm xã 
hội của doanh nghiệp ở Việt Nam còn tương đối khó khăn. Sở dĩ như vậy trước hết là do 
sự hiểu biết chưa đầy đủ của doanh nghiệp về trách nhiệm xã hội; trách nhiệm xã hội 
doanh nghiệp chỉ đơn thuần được hiểu là các khoản đóng góp từ thiện. Thứ hai, việc thực 
hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp cũng gây ra những khó khăn không nhỏ cho 
các doanh nghiệp do thiếu nguồn vốn và kỹ thuật để thực hiện các chuẩn mực trách 
nhiệm xã hội. Điều này đặc biệt khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong khi đó 
hầu hết các doanh nghiệp ở Việt Nam là những doanh nghiệp vừa và nhỏ. 
 Nói một cách toàn diện hơn, theo nghiên cứu năm 2002 của Ngân hàng thế giới tại Việt 
Nam, những rào cản và thách thức lớn nhất cho việc thực hiện trách nhiệm xã hội của 
doanh nghiệp bao gồm: 
 1. Nhận thức về trách nhiệm xã hội trong và giữa các doanh nghiệp Việt Nam còn có sự 
khác nhau khá lớn. 
SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 7 Chuyên đề chuyên sâu GVHD:Nguyễn Ngọc Tuấn
2. Năng suất lao động bị ảnh hưởng khi phải thực hiện đồng bộ nhiều bộ quy tắc ứng xử 
(CoC). 
3. Thiếu nguồn tài chính và kỹ thuật để thực hiện các chuẩn mực trách nhiệm xã hội 
 doanh nghiệp (đặc biệt là đối với các doanh 
 nghiệp vừa và nhỏ). 
 4. Sự khác biệt giữa Bộ luật lao động và bộ quy 
 tắc ứng xử của khách đặt hàng gây nhầm lẫn cho 
 doanh nghiệp, chẳng hạn như vấn đề làm thêm 
 hay hoạt động của công đoàn. 
 5. Sự thiếu minh bạch trong việc áp dụng trách 
 nhiệm xã hội doanh nghiệp trên thực tế đang cản 
 trở lợi ích thị trường tiềm năng mang lại cho 
 doanh nghiệp. 
 6. Mâu thuẫn trong các quy định của nhà nước 
 khiến cho việc áp dụng bộ quy tắc ứng xử không 
đem lại hiệu quả mong muốn, ví dụ như mức lương, phúc lợi và các điều kiện tuyển 
dụng(9). 
Những nguyên nhân được liệt kê ra trên đây có thể quy lại thành ba nguyên nhân chính, 
đó là nguyên nhân về nhận thức,nguyên nhân kinh tế và nguyên nhân pháp lý. Do đó, để 
nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp, cần bám sát những nguyên nhân nói trên để đề 
ra những giải pháp phù hợp. Cụ thể là: 
Thứ nhất, cần tuyên truyền, giáo dục cho tất cả các doanh nghiệp, trước hết là các chủ 
doanh nghiệp về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, phải làm cho họ hiểu rằng trách 
nhiệm xã hội của doanh nghiệp không phải chỉ bó gọn trong công tác từ thiện. Công tác 
tuyên truyền, giáo dục rất quan trọng, bởi tất cả những hành vi của con người đều thông 
qua ý thức của con người, đều do ý thức của họ điều khiển. Do đó, vấn đề đặt ra là, phải 
làm sao cho việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trở thành động cơ bên 
trong của các chủ doanh nghiệp. Việc thực hiện trách nhiệm xã hội trước hết cần được 
xem là một hành vi đạo đức và được điều khiển bằng động cơ đạo đức. Đây chính là giải 
pháp bên trong đạo đức. 
Thứ hai, cần xây dựng một hành lang pháp lý bắt buộc các doanh nghiệp phải thực thi 
trách nhiệm xã hội một cách đầy đủ và nghiêm túc. Điều này liên quan đến trách nhiệm 
của nhà nước trong việc tạo môi trường và khung pháp lý cho doanh nghiệp hoạt động. 
Khung pháp lý chính là biện pháp có hiệu lực nhất đối với việc thực hiện trách nhiệm xã 
hội của doanh nghiệp; đồng thời, là giải pháp hỗ trợ đắc lực cho giải pháp về đạo đức, 
làm cho các động cơ đạo đức thường xuyên được củng cố và ngày càng có hiệu lực trên 
thực tế. Cái khó khăn cho Việt Nam và các nước đang phát triển nói chung là trong bối 
cảnh cần phải thu hút đầu tư nước ngoài, nếu đặt nặng các mục tiêu về môi trường và xã 
hội thì các doanh nghiệp khó có thể thu hút đầu tư nước ngoài. Nhưng, nếu không đặt 
mạnh vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp thì những hậu quả về môi trường và xã 
hội sẽ không thể bù đắp được bằng các kết quả của sự tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu phát 
triển bền vững, do vậy, cũng không thể thực hiện được. 
SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 8 Chuyên đề chuyên sâu GVHD:Nguyễn Ngọc Tuấn
 CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BỘ TIÊU CHUẨN SA 8000 TẠI 
 CÔNG TY CP DỆT MAY BÌNH ĐỊNH
 Ảnh: M.H
Công ty CP May Bình Định, đơn vị đầu tiên của tỉnh Bình Định, vừa được Hiệp hội các 
nhà May mặc và Giày da Hoa Kỳ (WRAP) cấp chứng nhận SA 8000 - tiêu chuẩn quốc tế 
về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (DN). Đây là tiêu chuẩn đưa ra các yêu cầu đối 
với các điều kiện làm việc mà DN phải cung cấp cho các nhân viên của mình. 
 1. Tiêu chuẩn nhân bản :
 - Hiện nay, ngoài yêu cầu về giá cả, chất lượng, người tiêu dùng còn quan tâm 
 hơn tới những yếu tố xã hội của sản phẩm, đặc biệt là những yêu cầu về giá trị 
 đạo đức của nhà sản xuất. Đó là những chính sách đối với người lao động, nhất 
 là lao động nữ, như sự bảo đảm về tiền lương, thu nhập, an toàn lao động... 
 Những sản phẩm chất lượng cao và ổn định thường không thể ra đời trong điều 
 kiện làm việc hạn chế như: thời gian làm việc trong ngày kéo dài, an toàn lao 
 động không được quan tâm, chế độ lương không công bằng, phân biệt đối xử. 
 Môi trường làm việc không thuận lợi sẽ ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. 
 - SA 8000 đã quy định các tiêu chuẩn cơ bản về: lao động trẻ em, lao động 
 cưỡng bức, sức khỏe và an toàn, quyền tự do thành lập các hiệp hội về đàm 
 phán tập thể, phân biệt đối xử, các hình thức kỷ luật, giờ làm việc và chế độ trả 
 công Ví dụ: người lao động có tự nguyện vào làm việc hay không? Lương 
 thưởng, chế độ phụ cấp, bảo hiểm xã hội được trả như thế nào? Những chi tiết 
 nhỏ như vòi nước uống, điều kiện vệ sinh cho công nhân, điều kiện nhà ăn tập 
 thể cũng phải sạch sẽ, nguồn cung cấp thực phẩm phải rõ ràng... Điều kiện lao 
 động phải đảm bảo đầy đủ ánh sáng, có bảo hộ lao động, có thiết bị phòng cháy 
 chữa cháy, cửa thoát hiểm 
 - Ông Bùi Văn Nhại, Trưởng phòng Tổ chức-Hành chính, Trưởng Ban phụ trách 
 việc thực hiện SA 8000 của Công ty CP May Bình Định, cho biết: “Khoảng vài 
 năm trở lại đây, trước khi đặt hàng, các khách hàng, đặc biệt là khách hàng lớn 
 từ châu Âu và châu Mỹ đã cử đại diện đến kiểm tra môi trường làm việc của 
 công ty và đã có yêu cầu cụ thể về các tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội. Họ sẽ 
 không ký kết hợp đồng sản xuất nếu đơn vị vi phạm Bộ luật Lao động, như sử 
 dụng lao động trẻ em, để công nhân lao động trong môi trường thiếu an toàn... 
 Sau vài lần như thế, chúng tôi nhận thấy việc áp dụng SA 8000 sẽ mang lại 
 nhiều lợi ích cho công ty. Vì vậy, từ đầu năm 2009, công ty đã tiến hành các 
 thủ tục và áp dụng các yêu cầu của SA 8000 vào hoạt động sản xuất của đơn 
 vị”.
SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 9 Chuyên đề chuyên sâu GVHD:Nguyễn Ngọc Tuấn
 - Nhờ có nền tảng sẵn, quy trình sản xuất, an toàn lao động đã gần tương thích 
 với các yêu cầu của tiêu chuẩn SA 8000, nên việc thực hiện tiêu chuẩn SA 
 8000 của Công ty CP May Bình Định gặp nhiều thuận lợi. Chi phí cho việc 
 thực hiện tiêu chuẩn này tại đây chỉ khoảng 100 triệu đồng, bao gồm chi phí 
 đánh giá và cải thiện điều kiện làm việc, sinh hoạt của người lao động cho phù 
 hợp tiêu chuẩn. Song song với việc trang bị, thay đổi các trang thiết bị kỹ thuật, 
 Công ty CP May Bình Định cũng đã áp dụng nhiều hình thức tuyên truyền để 
 nâng cao nhận thức về an toàn lao động cho cán bộ, công nhân trong toàn đơn 
 vị. 
 2. Nâng cao năng lực cạnh tranh:
 - Hiện nay, Công ty CP May Bình Định có 2 xí nghiệp: Quy Nhơn 1 và Quy 
 Nhơn 2, giải quyết việc làm cho hơn 900 lao động, trong đó 93% là lao động 
 nữ. Bà Phạm Thị Bạch Mai - Giám đốc Xí nghiệp Quy Nhơn 1, cho biết: “Từ 
 khi áp dụng SA 8000, công nhân được rèn luyện tác phong công nghiệp, tính 
 tập trung trong sản xuất, ý thức trách nhiệm về chất lượng sản phẩm nên 
 năng suất lao động và chất lượng sản phẩm được nâng cao. Nhờ đó, công ty 
 được nhiều khách hàng tin tưởng ”.
 - Nhờ cải thiện quy trình sản xuất, giảm tối đa thời gian “chết”, nên thời gian làm 
 việc trong một ngày của công nhân đã giảm đi 1 giờ so với trước khi áp dụng 
 SA 8000. Cụ thể, ngày trước công nhân phải làm việc đến 18 giờ, thậm chí có 
 ngày đến 19 giờ hoặc 20 giờ mới ra về thì nay làm việc đến 17 giờ là kết thúc. 
 Mặc dù giảm giờ làm, nhưng thu nhập bình quân của công nhân vẫn cao, từ 1,6 
 triệu đồng đến 1,7 triệu đồng/người/tháng, tăng khoảng 200 ngàn 
 đồng/người/tháng so với trước khi thực hiện SA 8000. 
 - Theo đánh giá của các chuyên gia, áp dụng tiêu chuẩn SA 8000 giúp DN tăng 
 cường khả năng mở rộng mạng lưới kinh doanh toàn cầu và tiếp cận những 
 khách hàng đòi hỏi cao về giá trị đạo đức của sản phẩm. Đối với các DN, đặc 
 biệt là các DN nhà nước, DN nhà nước đã cổ phần hóa, việc áp dụng SA 8000 
 gặp nhiều thuận lợi, vì hầu hết các yêu cầu của SA 8000 đã được thể chế hóa 
 trong Bộ luật Lao động, tất cả các DN đều có tổ chức công đoàn bảo vệ quyền 
 lợi của người lao động. Áp dụng SA 8000, các DN còn có thêm một phương 
 pháp khoa học để quản lý các vấn đề liên quan đến điều kiện lao động, quyền 
 lợi của người lao động, phương pháp hoạch định để cải thiện điều kiện làm 
 việc Qua đó, sẽ giúp DN đỡ mất thời gian vì không phải trải qua các đợt 
 kiểm tra liên ngành, các cuộc thanh tra về lao động. 
 - SA 8000 được xem như một giải pháp khẳng định giá trị đạo đức của sản 
 phẩm; và là giấy thông hành cho sản phẩm của DN đi vào các thị trường lớn 
 trên thế giới. Do vậy, việc áp dụng SA 8000 trở thành một yêu cầu cần thiết 
 nếu DN muốn đưa sản phẩm của mình vào thị trường các nước phát triển, đặc 
 biệt là thị trường Mỹ. Ngoài ra, việc áp dụng tiêu chuẩn SA 8000 còn là một 
 động lực để tăng năng suất lao động, người lao động sẽ được khuyến khích do 
SVTH:Trần Thị Vân Anh Page 10

File đính kèm:

  • docde_tai_van_de_trach_nhiem_xa_hoi_voi_sa8000_tai_viet_nam.doc