Đề tài Vấn đề thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp tại công ty TNHH dệt may Thái Tuấn

Trong những năm qua, chính sách Đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện và thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh. Cùng với việc ban hành Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài và một loạt các văn bản pháp luật hỗ trợ quá trình hội nhập, việc Việt Nam cam kết thực hiện AFTA trong khối ASEAN, gia nhập diễn đàn APEC, mở rộng quan hệ thương mại và đầu tư với EU, Nhật Bản, ký Hiệp định Thương mai Việt Nam – Hoa kỳ và đang trong quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO đã mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam nhiều cơ hội cũng như thách thức mới cùng với những “luật chơi” mới. Một trong những điều mới đó là “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp”. Do đây là một khái niệm mới mà cách hiểu có thể khác với cách hiểu truyền thống tại Việt Nam nên các doanh nghiệp cũng như các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức, hiệp hội có liên quan cần nghiên cứu để có cách hiểu đúng, cách làm đúng trong quá trình hội nhập quốc tế.

Trong thế giới toàn cầu ngày nay, mỗi doanh nghiệp, mỗi nền kinh tế đều cố gắng tăng khả năng cạnh tranh của mình, trong đó tăng khả năng cạnh tranh về nguồn nhân lực và môi trường đầu tư đóng vai trò quan trọng. Đặc biệt đối với Việt Nam, với tư cách là một nước có nguồn lao động dồi dào, khả năng cạnh tranh của những ngành kinh tế sử dụng nhiều lao động như dệt may chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài cũng như mở rộng xuất khẩu.

doc 18 trang Minh Tâm 28/03/2025 560
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Vấn đề thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp tại công ty TNHH dệt may Thái Tuấn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề tài Vấn đề thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp tại công ty TNHH dệt may Thái Tuấn

Đề tài Vấn đề thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp tại công ty TNHH dệt may Thái Tuấn
 I. PHẦN MỞ ĐẦU
 1. Lý do chọn đề tài
 Trong những năm qua, chính sách Đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của 
Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện và thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc 
tế của Việt Nam diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh. Cùng với việc ban hành 
Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài và một loạt các văn bản pháp luật hỗ trợ 
quá trình hội nhập, việc Việt Nam cam kết thực hiện AFTA trong khối ASEAN, 
gia nhập diễn đàn APEC, mở rộng quan hệ thương mại và đầu tư với EU, Nhật 
Bản, ký Hiệp định Thương mai Việt Nam – Hoa kỳ và đang trong quá trình đàm 
phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO đã mang lại cho các doanh 
nghiệp Việt Nam nhiều cơ hội cũng như thách thức mới cùng với những “luật 
chơi” mới. Một trong những điều mới đó là “Trách nhiệm xã hội của doanh 
nghiệp”. Do đây là một khái niệm mới mà cách hiểu có thể khác với cách hiểu 
truyền thống tại Việt Nam nên các doanh nghiệp cũng như các cơ quan quản lý 
nhà nước, các tổ chức, hiệp hội có liên quan cần nghiên cứu để có cách hiểu 
đúng, cách làm đúng trong quá trình hội nhập quốc tế.
 Trong thế giới toàn cầu ngày nay, mỗi doanh nghiệp, mỗi nền kinh tế đều cố 
gắng tăng khả năng cạnh tranh của mình, trong đó tăng khả năng cạnh tranh về 
nguồn nhân lực và môi trường đầu tư đóng vai trò quan trọng. Đặc biệt đối với 
Việt Nam, với tư cách là một nước có nguồn lao động dồi dào, khả năng cạnh 
tranh của những ngành kinh tế sử dụng nhiều lao động như dệt may chiếm một 
vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài cũng như mở rộng 
xuất khẩu.
 Qua tìm hiểu nhìn chung các doanh nghiệp đã nhận thức khá tốt về mối liên 
hệ giữa việc thực hiện các quy định của Bộ luật lao động, các yêu cầu cảu bạn 
hàng và các quy định trong các bộ quy tắc ứng xử khác nhau; các doanh nghiệp 
cũng đã nhận thấy rõ các lợi ích trước mắt và lâu dài của việc thực hiện tốt trách 
nhiệm xã hội trong việc cải thiện quan hệ lao động, nâng cao sức cạnh tranh của 
doanh nghiệp, nâng cao năng suất lao động, tôn tạo hình ảnh của doanh nghiệp, 
qua đó mở rộng thị trường, duy trì mối quan hệ với đối tác, khách hàng. Đây là 
những nhận thức đúng đắn và phù hợp với những yêu cầu chính của quá trình 
thúc đẩy thực hiện trách nhiệm xã hội mà chính phủ Việt Nam mong muốn và 
ủng hộ.
 Tuy nhiên trong quá trình phát triển và hội nhập, còn một số khó khăn vướng 
mắc cần tiếp tục được tìm hiểu và tháo gỡ. Các vấn đề bao gồm : Nhận thức 
đúng đắn về việc thực hiện tốt các nội dung của trách nhiệm xã hội cảu doanh 
nghiệp và lấy chứng chỉ các Bộ quy tắc ứng xử ( ví dụ như SA 8000, ISO 26000, 
WRAP...); các vướng mắc về thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi, công tác 
đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh luân chuyển lao động lớn, 
các chi phí có liên quan đến việc thực hiện tốt các yêu cầu về an toàn, vệ sinh lao 
động tại nơi làm việc, các quy định về tiền lương, tiền thưởng, hợp đồng lao 
động, bảo hiểm xã hội.... đối với người lao động.
 1 Nhận thức được tầm quan trọng của trách nhiệm xã hội đối với các doanh 
nghiệp , đặc biệt là các doanh nghiệp dệt may trong giai đoạn hiện nay nên tôi 
quyết định chọn đề tài : VẤN ĐỀ THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI 
DOANH NGHIỆP TẠI CÔNG TY TNHH DỆT MAY THÁI TUẤN.
 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 2.1. Đối tượng nghiên cứu
 Để hoàn thành đề tài này cần phải nghiên cứu Bộ tiêu chuẩn thực hiện Trách 
nhiệm xã hội doanh nghiệp : SA 8000, ISO 26000, Bộ luật lao động Việt Nam, 
các văn bản, nghị định, thông tư do Chính phủ Việt Nam ban hành
 2.2. Phạm vi nghiên cứu
 Các vấn đề về lao động và thực hiện Trách nhiệm xã hội tại Công ty TNHH 
Dệt May Thái Tuấn.
 Thời gian nghiên cứu từ 9/4/2010 đến 10/5/2010.
 3. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn 
 3.1 Cơ sở lý luận
 ❖ Khái niệm
 Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate Social Responsibility 
hay CSR), theo chuyên gia của Ngân hàng thế giới được hiểu là “Cam kết của 
doanh nghiệp đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua việc tuân 
thủ chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền 
lợi lao động, trả lương công bằng, đào tạo và phát triển nhân viên, phát triển 
cộng đồng, theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung 
của xã hội”.
 Các doanh nghiệp có thể thực hiện trách nhiệm xã hội của mình bằng cách 
đạt một chứng chỉ quốc tế hoặc áp dụng những bộ quy tắc ứng xử (Code of 
Conduct – COC). Trách nhiệm xã hội là nghĩa vụ mà một doanh nghiệp phải 
thực hiện đối với xã hội. Có trách nhiệm với xã hội là tăng đến mức tối đa các 
tác dụng tích cực và giảm tới tối thiểu các hậu quả tiêu cực đối với xã hội.
 ❖ Các khía cạnh của trách nhiệm xã hội
 Nhiều lãnh đạo của doanh nghiệp cho rằng, trách nhiệm xã hội của doanh 
nghiệp là tham gia vào các chương trình trợ giúp các đối tượng xã hội như hỗ trợ 
người tàn tật, trẻ em mồ côi, xây dựng nhà tình nghĩa, ủng hộ đồng bào lũ lụt và 
thiên tai... Điều đó là đúng nhưng hoàn toàn chưa đủ, mặc dù các hoạt động xã 
hội là một phần quan trọng trong trách nhiệm của một công ty. Quan trọng hơn, 
một doanh nghiệp phải dự đoán được và đo lường được những tác động về xã 
hội và môi trường hoạt động của doanh nghiệp và phát triển những chính sách 
làm giảm bớt những tác động tiêu cực. 
 Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp còn là cam kết của doanh nghiệp 
đóng góp vào sự phát triển kinh tế bền vững, hợp tác cùng người lao động, gia 
đình họ, cộng đồng và xã hội nói chung để cải thiện chất lượng cuộc sống cho họ 
sao cho vừa tốt cho doanh nghiệp vừa ích lợi cho phát triển. Nếu doanh nghiệp 
 2 sản xuất xe hơi, phải tính toán được ngay cả năng lượng mà cơ sở tiêu thụ và tìm 
cách cải thiện nó. Và là doanh nghiệp sản xuất giấy, phải xem chất thải ra bao 
nhiêu và tìm cách xử lý nó...
 Vì vậy ngày nay một doanh nghiệp có trách nhiệm xã hội liên quan đến 
mọi khía cạnh vận hành của một doanh nghiệp. Trách nhiệm xã hội bao gồm 4 
khía cạnh: kinh tế, pháp lý, đạo đức và lòng bác ái.
 ✓ Khía cạnh kinh tế 
 Khía cạnh kinh tế trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là phải 
sản xuất hàng hóa và dịch vụ mà xã hội cần và muốn với một mức giá có thể duy 
trì doanh nghiệp ấy và làm thỏa mãn nghĩa vụ của doanh nghiệp với các nhà đầu 
tư; là tìm kiếm nguồn cung ứng lao động, phát hiện những nguồn tài nguyên 
mới, thúc đẩy tiến bộ công nghệ, phát triển sản phẩm; là phân phối các nguồn 
sản xuất như hàng hoá và dịch vụ như thế nào trong hệ thống xã hội
Trong khi thực hiện các công việc này, các doanh nghiệp thực sự góp phần vào 
tăng thêm phúc lợi cho xã hội, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh 
nghiệp.
 Đối với người lao động, khía cạnh kinh tế của doanh nghiệp là tạo công ăn 
việc làm với mức thù lao xứng đáng cơ hội việc làm như nhau, cơ hội phát triển 
nghề và chuyên môn, hưởng thù lao tương xứng, hưởng môi trường lao động an 
toàn, vệ sinh và đảm bảo quyền riêng tư, cá nhân ở nơi làm việc. 
 Đối với người tiêu dùng, trách nhiệm kinh tế của doanh nghiệp là cung cấp 
hàng hoá và dịch vụ, trách nhiệm kinh tế của doanh nghiệp còn liên quan đến 
vấn đề về chất lượng, an toàn sản phẩm, định giá, thông tin về sản phẩm (quảng 
cáo), phân phối, bán hàng và cạnh tranh.
 Khía cạnh kinh tế trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là cơ sở 
cho các hoạt động của doanh nghiệp. Phần lớn các nghĩa vụ kinh tế trong kinh 
doanh đều được thể chế hoá thành các nghĩa vụ pháp lý
 ✓ Khía cạnh pháp lý
 Khía cạnh pháp lý trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là doanh 
nghiệp phải thực hiện đầy đủ những quy định về pháp lý chính thức đối với các 
bên hữu quan. Những điều luật như thế này sẽ điều tiết được cạnh tranh, bảo vệ 
khách hàng, bảo vệ môi trường, thúc đẩy sự công bằng và an toàn và cung cấp 
những sáng kiến chống lại những hành vi sai trái. Các nghĩa vụ pháp lý được thể 
hiện trong luật dân sự và hình sự. Về cơ bản, nghĩa vụ pháp lý bao gồm năm 
khía cạnh:
(1) Điều tiết cạnh tranh
(2) Bảo vệ người tiêu dùng
(3) Bảo vệ môi trường
(4) An toàn và bình đẳng
(5) Khuyến khích phát hiện và ngăn chặn hành vi sai trái.
 3 Thông qua trách nhiệm pháp lý, xã hội buộc các thành viên phải thực thi 
các hành vi được chấp nhận. Các tổ chức không thể tồn tại lâu dài nếu họ không 
thực hiện trách nhiệm pháp lý của mình
 ✓ Khía cạnh đạo đức
 Khía cạnh đạo đức trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp là những 
hành vi và hoạt động mà xã hội mong đợi ở doanh nghiệp nhưng không được 
quy định trong hệ thống luật pháp, không được thể chế hóa thành luật.
 Khía cạnh này liên quan tới những gì các công ty quyết định là đúng, công 
bằng vượt qua cả những yêu cầu pháp lý khắc nghiệt, nó chỉ những hành vi và 
hoạt động mà các thành viên của tổ chức, cộng đồng và xã hội mong đợi từ phía 
các doanh nghiệp dù cho chúng không được viết thành luật. 
 Khía cạnh đạo đức của một doanh nghiệp thường được thể hiện thông qua 
những nguyên tắc, giá trị đạo đức được tôn trọng trình bày trong bản sứ mệnh và 
chiến lược của công ty. Thông qua các công bố này, nguyên tắc và giá trị đạo 
đức trở thành kim chỉ nam cho sự phối hợp hành động của mỗi thành viên trong 
công ty và với các bên hữu quan.
 Thuật ngữ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp mới chính thức xuất hiện 
cách đây hơn 50 năm, khi H.R.Bowen công bố cuốn sách của mình với nhan đề 
“Trách nhiệm xã hội của doanh nhân” (Social Responsibilities of the 
Businessmen) (1953) nhằm mục đích tuyên truyền và kêu gọi người quản lý tài 
sản không làm tổn hại đến các quyền và lợi ích của người khác, kêu gọi lòng từ 
thiện nhằm bồi hoàn những thiệt hại do các doanh nghiệp làm tổn hại cho xã hội. 
Tuy nhiên, từ đó đến nay, thuật ngữ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đang 
được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Một số người xác định “trách nhiệm xã 
hội hàm ý nâng hành vi của doanh nghiệp lên một mức phù hợp với các quy 
phạm, giá trị và kỳ vọng xã hội đang phổ biến” (Prakash, Sethi, 1975: 58 – 64). 
Một số người khác hiểu “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bao gồm sự 
mong đợi của xã hội về kinh tế, luật pháp, đạo đức và lòng từ thiện đối với các tổ 
chức tại một thời điểm nhất định” (Archie. B Carroll, 1979), v.v..
 Hiện đang tồn tại hai quan điểm đối lập nhau về trách nhiệm xã hội của 
doanh nghiệp. Những người ủng hộ quan điểm thứ nhất cho rằng, doanh nghiệp 
không có trách nhiệm gì đối với xã hội mà chỉ có trách nhiệm với cổ đông và 
người lao động của doanh nghiệp, còn nhà nước phải có trách nhiệm với xã hội; 
doanh nghiệp đã có trách nhiệm thông qua việc nộp thuế cho nhà nước. Trái lại, 
những người khác lại có quan điểm cho rằng, với tư cách là một trong những chủ 
thể của nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp đã sử dụng các nguồn lực của 
xã hội, khai thác các nguồn lực tự nhiên và trong quá trình đó, họ gây ra những 
tổn hại không tốt đối với môi trường tự nhiên. Vì vậy, ngoài việc đóng thuế, 
doanh nghiệp còn có trách nhiệm xã hội đối với môi trường, cộng đồng, người 
lao động, v.v.. 
 Còn ở Việt Nam, trong những năm gần đây, người ta thường sử dụng định 
nghĩa của Nhóm phát triển kinh tế tư nhân của Ngân hàng thế giới về trách 
nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Theo đó, “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp 
(Corporate Social Responsibility – CSR) là sự cam kết của doanh nghiệp đóng 
 4 góp vào việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua những hoạt động nhằm nâng 
cao chất lượng đời sống của người lao động và các thành viên gia đình họ, cho 
cộng đồng và toàn xã hội, theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát 
triển chung của xã hội”.
 Nói cách khác, doanh nghiệp muốn phát triển bền vững luôn phải tuân theo 
những chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng về giới, an toàn lao động, 
quyền lợi lao động, trả lương công bằng, đào tạo và phát triển nhân viên và phát 
triển cộng đồng. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được thể hiện một cách 
cụ thể trên các yếu tố, các mặt, như: 1. Bảo vệ môi trường; 2. Đóng góp cho 
cộng đồng xã hội; 3. Thực hiện tốt trách nhiệm với nhà cung cấp; 4. Bảo đảm lợi 
ích và an toàn cho người tiêu dùng; 5. Quan hệ tốt với người lao động; và 6. 
Đảm bảo lợi ích cho cổ đông và người lao đông trong doanh nghiệp. Trong đó, 
bốn yếu tố đầu tiên thể hiện trách nhiệm bên ngoài của doanh nghiệp, còn hai 
yếu tố cuối thể hiện trách nhiệm bên trong, nội tại của doanh nghiệp. Tất nhiên, 
sự phân chia thành trách nhiệm bên ngoài và trách nhiệm bên trong chỉ có ý 
nghĩa tương đối và không thể nói trách nhiệm nào quan trọng hơn trách nhiệm 
nào.
 Với những nội dung cụ thể như vậy về trách nhiệm xã hội thì việc thực hiện 
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp không chỉ làm cho doanh nghiệp phát triển 
bền vững, mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của xã hội nói chung. 
Như chúng ta đều biết, ở Việt Nam, phát triển bền vững đã trở thành mục tiêu 
chiến lược và được đề ra từ những năm 80 của thế kỷ XX. Cùng với thời gian, 
khái niệm phát triển bền vững đã có sự thay đổi về nội hàm và ngày càng được 
bổ sung thêm những nội dung mới.
 Xét về nguồn gốc, thuật ngữ phát triển bền vững ra đời từ những năm 70 của 
thế kỷ XX và bắt đầu thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu về môi trường và 
phát triển quốc tế nhờ sự ra đời của công trình Chiến lược bảo tồn thế 
giới(1980)(2). Sau đó, tư tưởng về phát triển bền vững được trình bày trong một 
loạt công trình, như Tương lai chung của chúng ta (1987), Chăm lo cho trái đất 
(1991)(3) Khi nói về sự phát triển bền vững, người ta thường sử dụng hai định 
nghĩa đã được nêu ra trong các cuốn sách nói trên. Trong cuốn Tương lai chung 
của chúng ta, phát triển bền vững được hiểu là sự phát triển đáp ứng những nhu 
cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ 
tương lai; còn trong cuốn Chăm lo cho trái đất, phát triển bền vững được xác 
định là việc nâng cao chất lượng đời sống con người khi đang tồn tại trong 
khuôn khổ bảo đảm các hệ sinh thái. Nhìn chung, cả hai định nghĩa đó đều quy 
phát triển bền vững về việc sử dụng một cách hợp lý tài nguyên thiên nhiên và 
bảo vệ môi truờng sao cho thế hệ hôm nay vẫn phát triển được mà không làm 
ảnh hưởng đến tương lai của các thế hệ sau. 
 Như vậy, nếu xét theo nguồn gốc của thuật ngữ, phát triển bền vững là một 
sự phát triển bảo đảm tăng trưởng kinh tế trên cơ sở sử dụng một cách hợp lý tài 
nguyên thiên nhiên và bảo vệ được môi trường tự nhiên nhằm vừa có thể thỏa 
mãn được nhu cầu của thế hệ hôm nay, vừa không làm ảnh hưởng đến điều kiện 
thỏa mãn nhu cầu và môi trường sống của các thế hệ mai sau. Thực chất của sự 
phát triển bền vững là giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ 
 5 môi trường tự nhiên, bảo đảm sự công bằng giữa các thế hệ trong việc sử dụng 
tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. 
 Tuy nhiên, ở Việt Nam, ngoài nội dung trên đây, khái niệm phát triển bền 
vững còn được bổ sung thêm nhiều nội dung mới. Việt Nam đang chủ trương 
xây dựng chiến lược phát triển bền vững phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ 
thể của đất nước. Nội dung cơ bản của chiến lược phát triển bền vững của Việt 
Nam bao gồm:
 Một là, phát triển nhanh phải đi đôi với tính bền vững. Điều đó phải được kết 
hợp ở cả tầm vĩ mô lẫn vi mô, ở cả tầm ngắn hạn lẫn dài hạn. 
 Hai là, tăng trưởng về số lượng phải đi liền với nâng cao chất lượng, hiệu quả 
và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
 Ba là, trong khi khai thác các yếu tố phát triển theo chiều rộng, phải đặc biệt 
coi trọng các yếu tố phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức.
 Bốn là, phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển toàn 
diện con người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc 
làm, cải thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm 
nghèo
 Năm là, phải coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước 
phát triển.
 Sáu là, phát triển kinh tế phải đi đôi với việc bảo đảm ổn định chính trị – xã 
hội, coi đây là tiền đề, điều kiện để phát triển nhanh và bền vững. 
 Có thể nói, đây là những nội dung cơ bản trong chiến lược phát triển bền 
vững của Việt Nam. Chiến lược đó đã thể hiện khá rõ sự kết hợp giữa quan điểm 
truyền thống, kinh điển và quan điểm mới, riêng của Việt Nam. 
Trong chiến lược phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam, chúng ta có thể 
nhận thấy rằng:
 Thứ nhất, yếu tố ổn định chính trị – xã hội được xem là tiền đề, điều kiện để 
phát triển nhanh và bền vững
 Thứ hai, chiến lược phát triển nhanh, bền vững tập trung nâng cao chất 
lượng phát triển, kết hợp giữa phát triển kinh tế với việc phát triển toàn diện con 
người, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải 
thiện đời sống, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo, 
với việc coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường ngay trong từng bước phát 
triển.
 Thứ ba, chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam đã đề cập một cách 
khá toàn diện các khía cạnh khác nhau của sự phát triển, trong đó nổi lên việc 
giải quyết hài hòa các mối quan hệ, như hài hòa giữa phát triển nhanh và bền 
vững, giữa tăng trưởng về số lượng và nâng cao chất lượng, giữa phát triển theo 
chiều rộng và phát triển theo chiều sâu; hài hòa giữa ph át triển kinh tế với giải 
quyết các vấn đề xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ và cải thiện môi 
trường, v.v.. Hài hòa là một trong những nội dung quan trọng của chiến lược 
phát triển bền vững
 Thứ tư, vấn đề trọng tâm, mục tiêu cơ bản của chiến lược phát triển bền vững 
chính là vấn đề dân sinh. Điều đó được thể hiện trong nội dung của chiến lược 
mà chúng tôi vừa trình bày. Chiến lược phát triển nhanh và bền vững đã chú 
trọng đến chất lượng của sự tăng trưởng kinh tế, những mục tiêu của sự tăng 
 6 trưởng hướng tới sự phát triển toàn diện của con người, thực hiện dân chủ, tiến 
bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống, khuyến khích làm 
giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo, với việc coi trọng bảo vệ và cải 
thiện môi trường ngay trong từng bước phát triển. Rõ ràng, mục tiêu của sự tăng 
trưởng như vậy là nhằm giải quyết ngày càng tốt hơn vấn đề dân sinh, bảo đảm 
cho mọi người dân có cuộc sống ấm no và hạnh phúc. Trên thực tế, chiến lược 
phát triển nhanh, bền vững là phương thức hữu hiệu bảo đảm cho sự phát triển 
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, 
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
 Rõ ràng là, với mục tiêu của phát triển bền vững như vậy, việc thực hiện 
trách nhiệm của doanh nghiệp góp phần quan trọng vào chiến lược phát triển bền 
vững của Việt Nam.
 Mặt khác, khi tiếp cận trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, chúng ta cần 
tiếp cận cả trên phương diện đạo đứclẫn phương diện pháp lý. Chúng ta không 
nên chỉ hiểu trách nhiệm của doanh nghiệp ở khía cạnh đạo đức của chủ doanh 
nghiệp, ở công tác từ thiện của doanh nghiệp, mà cần hiểu cả ở khía cạnh pháp 
lý, tức thực thi trách nhiệm xã hội là một yêu cầu bắt buộc đối với các doanh 
nghiệp. Việc kết hợp cả hai phương diện đạo đức và pháp lý là cơ sở quan trọng 
để đề xuất các giải pháp nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
 3.2 Cơ sở thực tiễn 
 Trên thế giới, đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, trách 
nhiệm xã hội không còn là vấn đề xa lạ. Các doanh nghiệp nếu thực hiện tốt 
trách nhiệm xã hội của mình sẽ đạt được một chứng chỉ quốc tế hoặc áp dụng 
những bộ Qui tắc ứng xử (Code of Conduct hay gọi tắt là CoC). Trong bối cảnh 
toàn cầu hóa hiện nay, những người tiêu dùng, nhà đầu tư, nhà hoạch định chính 
sách và các tổ chức phi chính phủ trên toàn cầu ngày càng quan tâm hơn tới ảnh 
hưởng của việc toàn cầu hoá đối với quyền của người lao động, môi trường và 
phúc lợi cộng đồng. Những doanh nghiệp không thực hiện trách nhiệm xã hội có 
thể sẽ không còn cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế.
 Thực tế trên thế giới đã chỉ ra rằng, doanh nghiệp nào thực hiện tốt trách 
nhiệm xã hội thì lợi ích của họ không những không giảm đi mà còn tăng thêm. 
Những lợi ích mà doanh nghiệp thu được khi thực hiện trách nhiệm xã hội bao 
gồm giảm chi phí, tăng doanh thu, tăng giá trị thương hiệu, giảm tỷ lệ nhân viên 
thôi việc, tăng năng suất và thêm cơ hội tiếp cận những thị trường mới. Chúng ta 
có thể dẫn ra đây một số ví dụ về lợi ích của việc thực hiện trách nhiệm xã hội 
của doanh nghiệp.
 Thứ nhất, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần giảm chi phí và tăng năng 
suất. Một doanh nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí sản xuất nhờ đầu tư, lắp đặt 
các thiết bị mới. 
 Chi phí sản xuất và năng suất lao động phụ thuộc chặt chẽ vào hệ thống quản 
lý nhân sự. Một hệ thống quản lý nhân sự hiệu quả cũng giúp doanh nghiệp cắt 
giảm chi phí và tăng năng suất lao động đáng kể. Chế độ lương, thưởng hợp lý, 
môi trường lao động sạch sẽ và an toàn, các cơ hội đào tạo và chế độ bảo hiểm y 
tế và giáo dục đều góp phần giảm tỷ lệ nhân viên nghỉ, bỏ việc, do đó giảm chi 
 7 phí tuyển dụng và đào tạo nhân viên mới. Tất cả cái đó góp phần giảm chi phí 
sản xuất, tăng năng suất lao động. 
 Thứ hai, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần tăng doanh thu. Mỗi doanh 
nghiệp đều đứng trên địa bàn nhất định. Do đó, việc đầu tư hỗ trợ phát triển kinh 
tế địa phương có thể tạo ra một nguồn lao động tốt hơn, nguồn cung ứng rẻ và 
đáng tin cậy hơn và nhờ đó tăng doanh thu. 
 Thứ ba, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần nâng cao giá trị thương hiệu 
và uy tín của công ty. Trách nhiệm xã hội có thể giúp doanh nghiệp tăng giá trị 
thương hiệu và uy tín đáng kể. Đến lượt nó, uy tín giúp doanh nghiệp tăng doanh 
thu, hấp dẫn các đối tác, nhà đầu tư và người lao động. Trên thế giới, những 
công ty khổng lồ đang chi một khoản tiền rất lớn để trở thành hình mẫu kinh 
doanh lý tưởng. 
 Thứ tư, thực hiện trách nhiệm xã hội góp phần thu hút nguồn lao động giỏi. 
Nguồn lao động giỏi, có năng lực là yếu tố quyết định năng suất và chất lượng 
sản phẩm của doanh nghiệp. Có một thực tế là, ở các nước đang phát triển, 
nguồn nhân lực được đào tạo có chất lượng cao không nhiều. Vấn đề đặt ra đối 
với các doanh nghiệp là làm thế nào thu hút, giữ chân họ và phát huy hết khả 
năng của họ trong hoạt động quản lý, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
 Do vậy, việc thu hút và giữ được nhân viên có chuyên môn tốt là một thách 
thức lớn đối với các doanh nghiệp. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, 
những doanh nghiệp trả lương thỏa đáng và công bằng, tạo cho nhân viên cơ hội 
đào tạo, có chế độ bảo hiểm y tế và môi trường làm việc sạch sẽ có khả năng thu 
hút và giữ được nguồn nhân lực có chất lượng cao. 
 Tất cả những điều nói trên là cơ sở để luận chứng cho sự cần thiết phải thực 
hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp nói chung, đồng thời là những kinh 
nghiệm bổ ích, có giá trị tham khảo cho các doanh nghiệp Việt Nam. 
 Trên thực tế, ở Việt Nam, vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp mặc 
dù là vấn đề mới mẻ, nhưng bước đầu đã được một số bộ, ngành quan tâm, chú 
ý. Bằng chứng là, từ năm 2005, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, 
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Công thương cùng với các hiệp hội Da 
giày, Dệt may trao giải thưởng “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp hướng tới 
sự phát triển bền vững” nhằm tôn vinh các doanh nghệp thực hiện tốt trách 
nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập. Hiện nay, nhiều doanh 
nghiệp lớn ở Việt Nam đã nhận thấy rằng, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp 
đã trở thành một trong những yêu cầu không thể thiếu được đối với doanh 
nghiệp, bởi lẽ, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nếu doanh 
nghiệp không tuân thủ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp sẽ không thể tiếp 
cận được với thị trường thế giới. Nhiều doanh nghiệp khi thực hiện trách nhiệm 
xã hội đã mang lại những hiệu quả thiết thực trong sản xuất kinh doanh.
 Kết quả khảo sát gần đây do Viện Khoa học lao động và xã hội tiến hành 
trên 24 doanh nghiệp thuộc hai ngành Giầy da và Dệt may cho thấy, nhờ thực 
hiện các chương trình trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, doanh thu của các 
doanh nghiệp này đã tăng 25%, năng suất lao động cũng tăng từ 34,2 triệu đồng 
lên 35,8 triệu đồng/1 lao động/năm; tỷ lệ hàng xuất khẩu tăng từ 94% lên 97%.
 8 Bên cạnh hiệu quả kinh tế, các doanh nghiệp còn củng cố được uy tín với 
khách hàng, tạo được sự gắn bó và hài lòng của người lao động đối với doanh 
nghiệp, thu hút được lực lượng lao động có chuyên môn cao.
 Do nhận thức được tầm quan trọng và ích lợi của việc thực hiện trách nhiệm 
xã hội trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, một số doanh nghiệp 
lớn của Việt Nam, ngoài trách nhiệm đóng thuế cho nhà nước, đã đăng ký thực 
hiện trách nhiệm xã hội dưới dạng các cam kết đối với xã hội trong việc bảo vệ 
môi trường, với cộng đồng địa phương nơi doanh nghiệp đóng và với người lao 
động. 
 Tuy nhiên, bên cạnh đó, phải thừa nhận rằng, trong thời gian qua ở Việt 
Nam, nhiều doanh nghiệp đã không thực hiện một cách nghiêm túc trách nhiệm 
xã hội của mình. Điều đó thể hiện ở các hành vi gian lận trong kinh doanh, báo 
cáo tài chính, không bảo đảm an toàn lao động, sản xuất, kinh doanh hàng kém 
chất lượng, cố ý gây ô nhiễm môi trường. Điển hình là các vụ xả nước thải 
không qua xử lý gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng cho các dòng sông và 
cộng đồng dân cư của các Công ty Miwon, Công ty thuộc da Hào Dương, Công 
ty Giấy Việt Trì, công ty Hyundai Vinashin (Khánh Hòa), các vụ sản xuất thực 
phẩm chứa chất có hại cho sức khỏe con người, như nước tương có chứa chất 3-
MCPD gây ung thư, bánh phở chứa phormol, thực phẩm chứa hàn the, sữa có 
chứa melamine. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp vi phạm các quy định pháp luật về 
lương bổng, chế độ bảo hiểm, vấn đề an toàn lao động cho người lao động cũng 
không còn là hiện tượng hiếm thấy, đã và đang gây bức xúc cho xã hội. 
Vấn đề đặt ra hiện nay là, cần tìm nguyên nhân của các hiện tượng và những giải 
pháp để khắc phục tình trạng đó. 
 Hiện đang có những ý kiến khác nhau về nguyên nhân dẫn đến việc không 
thực hiện trách nhiệm xã hội của nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam. Một số người 
cho rằng, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam chưa được luật hóa ở 
tất cả các doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp lớn có thị trường xuất khẩu, 
do yêu cầu của khách hàng nên buộc phải thực hiện trách nhiệm xã hội, còn đối 
với doanh nghiệp vừa và nhỏ, do khó khăn về tài chính và thiếu ràng buộc về 
pháp lý nên nhiều doanh nghiệp chỉ hiểu trách nhiệm xã hội là “các khoản đóng 
góp từ thiện”. Một số người khác cho rằng, việc thực hiện trách nhiệm xã hội sẽ 
làm tăng chi phí cho doanh nghiệp, làm giảm khả năng cạnh tranh ban đầu mà 
chưa thấy ngay được lợi ích trước mắt, do đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ 
không muốn thực hiện trách nhiệm xã hội. Nói tóm lại, việc thực hiện trách 
nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam còn tương đối khó khăn. Sở dĩ như 
vậy trước hết là do sự hiểu biết chưa đầy đủ của doanh nghiệp về trách nhiệm xã 
hội; trách nhiệm xã hội doanh nghiệp chỉ đơn thuần được hiểu là các khoản đóng 
góp từ thiện. Thứ hai, việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp cũng 
gây ra những khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp do thiếu nguồn vốn và 
kỹ thuật để thực hiện các chuẩn mực trách nhiệm xã hội. Điều này đặc biệt khó 
khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong khi đó hầu hết các doanh nghiệp ở 
Việt Nam là những doanh nghiệp vừa và nhỏ.
 9 Xét về vai trò của Tổ chức Công Đoàn trong việc thực hiện trách nhiệm xã 
hội của Doanh nghiệp có một số thuận lợi cụ thể là nước ta chuyển đổi sang nền 
kinh tế thị trường đã hơn 15 năm, vì vậy hàng hóa Việt Nam đã vươn ra ngoài 
thị trường tham gia cạnh tranh và cạnh tranh được với nước ngoài, đặc biệt là 
ngành Giày da và Dệt may, sản phẩm nổi tiếng và có chất lượng cao như Giày 
Nike, Adidas, lụa Thái Tuấn... Hơn nữa nguồn nhân lực dồi dào, môi trường đầu 
tư tốt, nguồn tài nguyên phong phú. Tuy nhiên hiện nay vẫn còn một số khó 
khăn chưa khắc phục được, đó là số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh 
chiếm tỷ trọng lớn ( trên 80%) so với tổng số doanh nghiệp cả nước, quy mô 
doanh nghiệp vừa và nhỏ, trình độ lao động có chuyên môn kỹ thuật thấp hoặc 
chưa qua đào tạo, vấn đề nâng cao năng lực ạnh tranh của doanh nghiệp chịu sự 
tác động của nhiều yếu tố như môi trường kinh doanh, cơ sở hạ tầng, chính sách 
vĩ mô và trình độ kỹ thuật công nghệ... Tất cả các yếu tố trên tác động tích cực 
đến quá trình thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
 Tóm lại, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là vấn đề tương đối mới mẻ 
với Việt Nam. Song, trong những năm gần đây, trước thảm họa về môi trường và 
những hậu quả tiêu cực về xã hội do các doanh nghiệp gây ra, vấn đề trách 
nhiệm xã hội được đặt ra một cách cấp bách. Ở Việt Nam, việc thực hiện trách 
nhiệm xã hội của doanh nghiệp hoàn toàn phù hợp với mục tiêu của chiến lược 
phát triển bền vững. Để thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt 
Nam, thì việc tuyên truyền, giáo dục trách nhiệm xã hội và việc hoàn thiện hành 
lang pháp lý để thực hiện nó là việc làm cấp thiết
 II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
 Dựa trên cơ sở thực tiễn nêu trên, đề tài được phân tích và xây dựng dựa trên 
các phương pháp nghiên cứu sau :
 Phân tích các thực trạng về việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh 
nghiệp Việt Nam nói chung và của doanh nghiệp Dệt may và Giày da nói riêng 
dựa trên các tài liệu sưu tầm sách báo, Internet, tạp chí....
 Ngoài ra còn tham khảo ý kiến của một số cán bộ quản lý các Công ty cũng 
như giảng viên hướng dẫn hoàn thành chuyên đề này.
 III. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI 
CỦA CÔNG TY TNHH DỆT MAY THÁI TUẤN
 ❖ Sơ lược về Công ty TNHH Dệt may Thái Tuấn
 Công ty TNHH Dệt may Thái Tuấn – địa chỉ 1/148 Nguyễn Văn Quá, Quận 
12, TP HCM là một đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh, được thành lập vào ngày 
22/12/1993 tiền thân là Công ty thương mại về sản phẩm vải các loại, tính đến 
nay qua hơn 15 năm hoạt động – Công ty TNHH Dệt may Thái Tuấn đã ngày 
càng trưởng thành hơn với quy mô hơn 1.450 lao động và doanh thu đạt được 
tương đương 280 tỷ đồng/năm.
 Sản phẩm chủ yếu của Công ty là vải thời trang cao cấp dành cho phái nữ 
như : vải gấm, xoan, vải công sở, lụa, thun,... chủ yếu cung cấp cho thị trường 
nội địa. Thị trường xuất khẩu được xúc tiến mở rộng từ năm 2002, bước đầu thu 
 10

File đính kèm:

  • docde_tai_van_de_thuc_hien_trach_nhiem_xa_hoi_doanh_nghiep_tai.doc