Đề tài Thực trạng và giải pháp về thị trường lao động phi chính thức tại TP. Hồ Chí Minh

Trong nền kinh tế thị trường hiện nay,xu hướng phát triển. xã hội và toàn cầu hoá xã hội thì nhu cầu kinh doanh, nhu cầu của con người ngày càng tăng, kéo theo đó là nhu cầu việc làm cũng tăng nhanh, các đối tượng đang lao động thì nhiều, đa số đã và đang làm những công việc ổn định như kinh doanh,dịch vụ,….tuy nhiên theo đó 1 số vấn đề phát sinh về thời gian làm việc,nhu cầu việc làm, áp lực công việc … khiến cho 1 số lao động phải làm những công việc phi chính thức.

Vì vậy, xu hướng làm việc phi chính thức bắt đầu phát triển và đánh vào đối tượng sinh viên khá mạnh và phù hợp với thời gian của họ.thực tế, việc làm phi chính thức có 1 vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam và đóng góp 20% GDP cho thu nhập quốc dân, các công việc chủ yếu là kinh doanh nghiệp vụ chiếm khoảng 20%, sản xuất kinh doanh phục vụ tết có thể ổn định và không ổn định, giải quyết việc làm cho người lao động là giải pháp quan trọng để giải quyết vấn đề an sinh xã hội cho thành phố.

Đối với những người nghèo, bằng cấp hoặc không có bằng cấp, trình độ nghề nghiệp thấp thì những công việc phi chính thức là một sự bắt đầu phù hợp, là cơ hội thiết thực để nâng cao tay nghề, tạo thêm thu nhập….

Những công việc phi chính thức rất cần thiết vì nếu không có lực lượng lao động này thì hoạt động kinh tế chắc chắn sẽ kém phát triển,xã hội luôn phát triển thì số người lao động thất nghiệp cũng tăng cao sau những lần suy thoái kinh tế,công việc phi chính thức giúp cho những người thất nghiệp có việc làm, tự sinh sống trong 1 khoảng thời gian trước khi tìm 1 công việc mới.do đó lao động phi chính thức đã góp phần giải quyết số lao động thừa trong nền kinh tế,tốc độ tăng trưởng kinh tế càng nhanh thì nhu cầu về lao động phi chính thức là nhu cầu tất yếu và vô cùng cần thiết cho đất nước đang phát triển như nước ta,tuy nhiên người lao động làm việc phi chính thức lại không được sự bảo vệ của xã hội,pháp luật,luật lao động, không ký hợp đồng lao động…

doc 18 trang Minh Tâm 28/03/2025 360
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Thực trạng và giải pháp về thị trường lao động phi chính thức tại TP. Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề tài Thực trạng và giải pháp về thị trường lao động phi chính thức tại TP. Hồ Chí Minh

Đề tài Thực trạng và giải pháp về thị trường lao động phi chính thức tại TP. Hồ Chí Minh
 Thực trạng lao động phi chính thức ở tphcm
 PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
 Trong nền kinh tế thị trường hiện nay,xu hướng phát triển. xã hội và toàn cầu hoá 
xã hội thì nhu cầu kinh doanh, nhu cầu của con người ngày càng tăng, kéo theo đó là nhu 
cầu việc làm cũng tăng nhanh, các đối tượng đang lao động thì nhiều, đa số đã và đang 
làm những công việc ổn định như kinh doanh,dịch vụ, .tuy nhiên theo đó 1 số vấn đề 
phát sinh về thời gian làm việc,nhu cầu việc làm,áp lực công việc .khiến cho 1 số lao 
động phải làm những công việc phi chính thức.
Vì vậy,xu hướng làm việc phi chính thức bắt đầu phát triển và đánh vào đối tượng sinh 
viên khá mạnh và phù hợp với thời gian của họ.thực tế, việc làm phi chính thức có 1 vai 
trò rất quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam và đóng góp 20% GDP cho thu nhập quốc 
dân, các công việc chủ yếu là kinh doanh nghiệp vụ chiếm khoảng 20%,sản xuất kinh 
doanh phục vụ tết có thể ổn định và không ổn định, giải quyết việc làm cho người lao 
động là giải pháp quan trọng để giải quyết vấn đề an sinh xã hội cho thành phố.
Đối với những người nghèo, bằng cấp hoặc không có bằng cấp, trình độ nghề nghiệp thấp 
thì những công việc phi chính thức là một sự bắt đầu phù hợp, là cơ hội thiết thực để 
nâng cao tay nghề, tạo thêm thu nhập .
Những công việc phi chính thức rât cần thiết vì nếu không có lực lượng lao động này thì 
hoạt động kinh tế chắc chắn sẽ kém phát triển,xã hội luôn phát triển thì số người lao động 
thất nghiệp cũng tăng cao sau những lần suy thoái kinh tế,công việc phi chính thức giúp 
cho những người thất nghiệp có việc làm, tự sinh sống trong 1 khoảng thời gian trước khi 
tìm 1 công việc mới.do đó lao động phi chính thức đã góp phần giải quyết số lao động 
thừa trong nền kinh tế,tốc độ tăng trưởng kinh tế càng nhanh thì nhu cầu về lao động phi 
chính thức là nhu cầu tất yếu và vô cùng cần thiết cho đất nước đang phát triển như nước 
ta,tuy nhiên người lao động làm việc phi chính thức lại không được sự bảo vệ của xã 
hội,pháp luật,luật lao động, không ký hợp đồng lao động 
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
Do xu hướng phát triển mạnh của các công ty, doanh nghiệp tư nhân nên những công 
việc phi chính thức cũng phát triển mạnh mẽ, trong đó những công việc phi chính thức 
này cũng có những thuận lợi và khó khăn cho nền kinh tế và cho đối tượng thực hiện 
những công việc này.
Công việc phi chính thức là những công việc đòi hỏi không cần kinh nghiệm,không bằng 
cấp, thời gian ngắn, người lao động có thể lựa chọn thời gian phù hợp( từ 2-4h/ngày,1 
tuần hoặc 2 tuần hoặc vài ngày) những công việc này không bảo đảm về hợp đồng lao 
động,lương và quyền đuổi hoặc nhận người lao động đều do chủ công việc quyết định, 
lương theo ngày hoặc khi kết thúc công việc.
Những công việc này giúp cho sinh viên và đối tượng lao động trong lĩnh vực này có 
thêm thu nhập và không bỏ phí thời gian rảnh, thế nhưng điều quan trọng là những công 
việc này sẽ làm rối loạn thị trường lao động của xã hội 
Vì vậy việc tìm hiểu về thị trường lao động phi chính thức để phân tích những điểm có 
lợi và có hại đến xã hội, thị trường lao động của TPHCM nói riêng và của Việt Nam nói 
chung để tìm hướng giải quyết và đề ra những quy định nhằm ổn định xã hội và đem lại những quyền lợi cần thiết cho những đối tượng lao động trong lĩnh vực này, có như vậy 
thì thị trường mới ổn định và sẽ không làm ảnh hưởng đến lực lương lao động sau này.
3.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
 Đối tượng nghiên cứu: Những lao động làm việc trong các DN phi chính 
thức trong các DN chính thức nhưng công việc không được sự bảo vệ của xã 
hội, luật lao động; người làm việc trong hộ gia đình (giúp việc nhà) và LĐ ăn 
lương trong nhiều khu vực, kể cả khu vực Nhà nước, nhưng công việc không ổn 
định. Dễ nhận ra nhất là những người làm việc tự do (buôn bán, khuân vác, dịch 
vụ đơn giản) hay tự nguyện làm công cho người khác mà không hề được ký hợp 
đồng lao động.
 Phạm vi nghiên cứu:khu vực Thành Phố Hồ Chí Minh
4.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:Phương pháp thống kê phân tích.
5.NGUỒN SỐ LIỆU:Dựa trên kết quả khảo sát của các chuyên gia phân tích và thống 
kê thị trường lao động TP.HCM.
6.KẾT CẤU:
 Chương I:Lý luận về thị trường lao động phi chính thức tại TP.Hồ Chí Minh
 Chương II:Thực trạng về thị trường lao động phi chính thức tại TP. Hồ Chí Minh.
 Chương III:Giải pháp cho thị trường lao động TP.Hồ Chí Minh.
 PHẦN NỘI DUNG
1.1.Một số khái niệm:
 Các loại hình việc làm phi chính thức thực tế đã tồn tại từ ngay lúc đô thị 
được hình thành. Việc hình thành các đô thị thời cận đại, bắt đầu vào cuối thế kỷ 
XIX ở Sài Gòn - Bến Nghé, đã đồng thời làm hình thành và tách biệt hai khu vực 
kinh tế chính thức và phi chính thức. Sự thành lập những nhà máy, công sở, cơ 
sở dịch vụ công như bệnh viện, trường học... ở Sài Gòn thời Pháp thuộc tuy số 
lượng không nhiều nhưng cũng đủ để hình thành một tầng lớp xã hội “làm công 
ăn lương” theo những quy định “hành chính” về giờ giấc và nhiều yếu tố khác. 
Có thể coi đây là tầng lớp “thị dân” - cư dân sống ở đô thị và làm những nghề 
nghiệp của đô thị, và do đó, có lối sống đô thị, có phần khác với những loại hình 
lao động khác ở thành phố. Khu vực “kinh tế chính thức” này tập trung ở khu 
trung tâm - Q.1, Q.3 hiện nay. Còn lại các khu vực khác của Sài Gòn, khu vực 
Chợ Lớn là khu buôn bán dịch vụ, xóm lao động, vùng Gia Định chủ yếu là vùng 
nông nghiệp, là khu vực kinh tế “phi chính thức”. Đặc điểm này xuyên suốt sự 
phát triển của đô thị Sài Gòn.
1.1.1.Lao đông:
 Họ gồm những lao động làm việc trong các doanh nghiệp phi chính thức 
(quy mô sản xuất nhỏ hoặc không phù hợp với quy định pháp luật); trong các 
doanh nghiệp chính thức nhưng công việc không được sự bảo vệ của xã hội, 
luật lao động; người làm việc trong hộ gia đình và lao động ăn lương trong nhiều 
khu vực, kể cả khu vực Nhà nước, nhưng công việc không ổn định. Dễ nhận ra 
nhất là những người làm việc tự do (buôn bán, khuân vác, dịch vụ đơn giản) hay tự nguyện làm công cho người khác mà không được ký hợp đồng lao động. Tình 
trạng này là một đặc trưng của đời sống đô thị.
1.1.2.Nguồn lao động:
 Sài Gòn còn trải qua một thời gian dài thời kỳ chiến tranh. Khác với Hà 
Nội (trong chiến tranh những người làm trong thành phần kinh tế chính thức - 
làm nhà nước - đều tản cư, sơ tán về nông thôn, hòa bình mới trở về thành phố, 
trong khi đó người làm kinh tế phi chính thức hầu như không bị bắt buộc đi khỏi 
thành phố), Sài Gòn lại là nơi người dân nhiều vùng nông thôn từ miền Trung 
đến Nam bộ đổ về. Hầu như không có nghề nghiệp, không có hoặc ít vốn, họ 
làm những công việc như buôn bán nhỏ, hàng rong, dịch vụ, lao động thủ công, 
chuyên chở bằng xe thô sơ... Địa bàn làm việc của họ là “ngoài trời” gồm lòng lề 
đường, các công trường, chợ búa... Sau giải phóng một bộ phận người dân trở 
về quê quán, một bộ phận khác đi vùng kinh tế mới, khu vực việc làm phi chính 
thức thu hẹp. Cấu trúc kinh tế của thành phố chỉ còn “một thành phần” nên nhiều 
thành phần kinh tế, nhiều loại hình việc làm “ngoài quốc doanh” trở thành “phi 
chính thức”. Khi kinh tế lâm vào thời kỳ khó khăn “trước đổi mới” thì thành phố 
lại như một “chỗ trũng” có thể dung nạp những dòng người “chảy” về đây kiếm 
sống. Khu vực kinh tế phi chính thức lại mở rộng thêm. 
. TP.HCM đã thu hút hàng triệu người từ các tỉnh thành khác đến lập 
nghiệp và mưu sinh, đáng chú ý nhất là hình thức “kinh tế vỉa hè” và lao động 
trong các KCN, KCX. Tỷ lệ đóng góp đáng kể vào thu nhập quốc gia cho thấy 
nền kinh tế này đã thực hiện được chức năng thiết yếu là tạo ra việc làm và tăng 
phúc lợi cho cả nhà sản xuất lẫn người tiêu dung.
1.1.3.Hoạt động của người lao động phi chính thức:
 . TP.HCM đã thu hút hàng triệu người từ các tỉnh thành khác đến lập 
nghiệp và mưu sinh, đáng chú ý nhất là hình thức “kinh tế vỉa hè” và lao động 
trong các KCN, KCX. Tỷ lệ đóng góp đáng kể vào thu nhập quốc gia cho thấy 
nền kinh tế này đã thực hiện được chức năng thiết yếu là tạo ra việc làm và tăng 
phúc lợi cho cả nhà sản xuất lẫn người tiêu dung
“Văn hóa mặt tiền” đã trở thành “đặc trưng” mới của đô thị Việt Nam, từ thành 
phố lớn đến thị trấn hẻo lánh. Có lẽ không có nước nào mà dân cư lại có thói 
quen, nhu cầu và “đua nhau” ra sống cạnh mặt đường lớn, nhỏ như ở nước ta! 
Trong khi đó ở các nước thì mặt tiền vỉa hè là không gian công cộng, cần tuân 
thủ những quy định chung của thành phố, không được tùy tiện sử dụng theo ý 
muốn cá nhân. Thói quen này dẫn đến nhiều hệ lụy: Thứ nhất, quy hoạch kiến 
trúc mặt tiền các con đường trở nên khó khăn, thậm chí kiến trúc xấu, không 
đồng bộ dù tốn kém rất nhiều kinh phí để xây dựng hay cải tạo đường xá; Thứ 
hai, trên những đường cao tốc lại không thể có tốc độ cao vì rất nguy hiểm khi 
dân cư trú ngay hai bên đường, làm giảm hiệu quả xây dựng; Thứ ba, buôn bán 
vỉa hè, lòng đường, mặt tiền đường phố người sử dụng phương tiện giao thông 
cá nhân có mối quan hệ mật thiết của “cung và cầu”, xe cá nhân phát triển thì 
còn nhu cầu mua bán vỉa hè lòng đường. Tình trạng tắc đường kẹt xe lại có 
thêm một nguyên nhân
. Trong khi chờ đợi có được những yếu tố giao thông mang tính chất “giao thông 
đô thị”, bằng cách nào hạn chế mặt tiêu cực của “kinh tế vỉa hè” đến nếp sống 
văn minh đô thị? Nên chăng cần tổ chức những con đường, khu vực theo ô phố - đặc thù quy hoạch đô thị, để duy trì và phát triển kinh tế vỉa hè, vừa giải quyết 
nhu cầu sinh sống của người bán, người mua, vừa đảm bảo mỹ quan và trật tự 
đô thị, vừa bảo tồn được nét độc đáo, cần thiết giữ gìn và có thể khai thác nó 
như một di sản văn hóa phi vật thể. “Văn minh đô thị” sẽ có bộ mặt mới. Trong 
một chừng mực nào đó, việc hạn chế và loại bỏ các phương tiện mưu sinh thô 
sơ của hàng ngàn hộ gia đình, cũng cần có tính toán thấu đáo để không đẩy 
người dân vào chỗ khó khăn. 
 Một khu vực việc làm phi chính thức nữa ở TP.HCM có đông người lao 
động là tại các khu CN, KCX. Tại đây người lao động hầu hết là thanh niên từ 
các vùng nông thôn, trình độ học vấn không cao nên tham gia làm việc với tính 
chất lao động giản đơn. Do đó thu nhập thấp, bấp bênh, dễ mất việc, cũng dễ 
thay đổi công việc, cuộc sống không ổn định... Nếu các KCN, KCX không tổ 
chức đào tạo nghề cho công nhân thì tình trạng này sẽ diễn ra lâu dài, khu vực 
“việc làm không chính thức” này sẽ không thu hẹp mà có nguy cơ ngày càng 
phát triển.
1.1.4.Thị trường lao động lệch pha,vì sao?:
 Cơn sốt khan hiếm lao động, thiếu hụt nguồn tuyển, nhất là lao động phổ 
thông đang lan tỏa ở khắp các địa phương. Trong khi đó nghịch lý đang tồn tại là 
tỷ lệ lao động thất nghiệp từ thành thị đến nông thôn vẫn còn cao và người cần 
việc còn rất lớn. Đâu là nguyên nhân khiến cho thị trường lao động nước ta lệch 
pha,diễn biến phức tạp.
 Để có nguồn lao động, nhiều nhà tuyển dụng, các trung tâm dịch vụ giới 
thiệu việc làm phải đích thân đến tận các địa phương, vùng sâu, vùng xa để 
chiêu mộ lao động. Thế nhưng, dù mời chào và chiêu dụ lao động với mức 
lương tạm gọi là cao (trên 2 triệu đồng/tháng, kể cả bao ăn ở ), người lao động 
vẫn làm ngơ. 
Giải thích điều này, bà Ngọc Liên, Phó Giám đốc Trung tâm Giới thiệu việc làm 
HEPZA TPHCM cho biết: “Lý do khiến lao động thất nghiệp ở các tỉnh ĐBSCL từ 
chối cơ hội việc làm ở TP là do ở nơi họ cư trú, nhiều nhà máy, khu KCN mới đã 
mở ra đang cần tuyển người với mức lương cũng tương đương ở TPHCM”. 
Bà Nguyễn Thị Hải Vân, Giám đốc Trung tâm Dự báo quốc gia và thông tin thị 
trường lao động nhận định rằng dòng chảy lao động nhập cư đang đổi chiều và 
lực hút - đẩy lao động đang có xu hướng xích lại gần nhau. Trước đây do thiếu 
việc làm, thu nhập ở các đô thị cao hơn nên dòng chảy lao động nhập cư chỉ có 
một hướng duy nhất đổ dồn về các TP lớn. Còn bây giờ ở phía Bắc, miền Trung, 
người lao động có thể tìm được việc làm tại chỗ hoặc các khu vực lân cận mà 
không cần xa nhà do nhiều KCN mới mọc ra, nhiều nhà máy, xí nghiệp đã khởi 
động đi vào hoạt động.
Mặt khác, nhiều chuyên gia về lao động còn lý giải rằng giá nhân lực - mặt bằng 
thu nhập bình quân trên thị trường lao động ngày càng sát với giá trị lao động 
nên lao động trẻ không còn mặn mà làm công nhân ở nhà máy. Họ quay về với 
các ngành nghề truyền thống, làm dịch vụ hoặc tham gia khu vực kinh tế phi chính thức như buôn bán nhỏ, giúp việc nhà, làm hàng gia công với thu nhập 
khoảng 80.000 - 120.000 đồng/ngày và không bị ràng buộc bởi các yêu cầu về 
trình độ, kỷ luật, tác phong công nghiệp, thời gian tăng ca. 
Đó là chưa kể lực hút và cơ hội việc làm đang mở rộng từ các khu vực dịch vụ, 
thương mại đa dạng, trong đó DN nhà nước cũng là kênh thu hút lao động do 
thu nhập đã được cải thiện - cao hơn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). 
Rõ ràng khi lực hút và lực đẩy của thị trường lao động đã tương tác theo hướng 
sát với thực tế thì cơ hội việc làm sẽ nhiều hơn và người tìm việc cũng dễ từ bỏ 
chỗ làm việc cũ không hấp dẫn để tìm đến nơi có điều kiện, thu nhập tốt hơn. Đó 
chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến biến động thiếu hụt lao động phổ thông 
đang diễn ra ở TPHCM nói riêng và các vùng kinh tế trọng điểm khác. 
Mặt khác, khảo sát nhiều lao động đã từng làm việc trong các nhà máy, xí 
nghiệp và KCX-KCN ở TPHCM, nay chuyển nghề hoặc hồi hương về quê ở các 
tỉnh miền Trung, phía Bắc, chúng tôi nhận được câu trả lời khá giống nhau: Vật 
giá leo thang liên tục, nếu trụ lại với cuộc sống ở các TP lớn thì không nổi. Với 
mức lương bình quân, dao động khoảng 2 - 2,5 triệu đồng/người/tháng, phần lớn 
công nhân lao động nhập cư không thể trang trải nổi tiền thuê nhà, điện nước 
lẫn các khoản chi phí sinh hoạt, tiêu dùng hàng ngày. 
Nhiều người làm bài toán so sánh: 5 năm về trước, nhận mức lương khoảng 1,5 
- 2 triệu đồng/tháng, công nhân có thể sống đủ hoặc có chút tích lũy. Còn bây 
giờ, giá cả nhiều mặt hàng tiêu dùng, nhất là thực phẩm tăng gấp 2 - 3 lần nên 
dù thu nhập có tăng hơn những năm trước khoảng 1 triệu đồng/tháng cũng 
không thể trụ lại ở TP. Do phải đối mặt với áp lực giá cả tăng nhanh, trong khi 
tiền lương, thu nhập tăng chậm, cộng thêm áp lực tăng ca - sức khỏe suy giảm, 
nhiều lao động nữ đã chọn đường quay về quê. Tuy nhiên, khi dòng lao động 
nhập cư có xu hướng quay ngược về nông thôn thì áp lực giải quyết vấn đề việc 
làm ở các địa phương nghèo cũng nặng thêm.
1.1.5.Vấn đề sử dụng lao động:
 Phải thừa nhận chính yếu tố Việt Nam (VN) có nguồn vốn nhân lực trẻ dồi 
dào, giá rẻ đã hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài. Nhiều năm qua, VN là một trong 
những quốc gia ở khu vực thu hút nguồn vốn FDI cao nhất. Thế nhưng, đằng 
sau những con số tăng trưởng nhanh và thu hút dự án FDI này, chúng ta chưa 
có đợt khảo sát, đánh giá khoa học về bức tranh đời sống, việc làm của hàng 
trăm ngàn lao động ở các KCX-KCN trong cả nước. Sau những năm tháng làm 
việc trong môi trường công nghiệp - cường độ làm việc cao, tăng ca liên tục, 
người lao động được cái gì và mất cái gì? Vì sao ở các KCX-KCN số lao động 
không nghề chiếm phần lớn? 
Nhìn vào thực tế TPHCM - nơi thu hút vốn FDI cao nhất, hiệu quả nhất, chúng ta 
rút ra điều gì? Mổ xẻ những vấn đề liên quan đến lao động giá rẻ - lợi thế thu hút 
dòng vốn FDI vào VN, nhiều chuyên gia lao động cảnh báo rằng: Cái giá mà 
chúng ta phải trả cho việc sử dụng lao động rẻ rất đáng báo động. Vì chạy theo lợi nhuận, tận dụng lao động giá rẻ ở VN nên nhiều chủ sử dụng lao động trong 
nước và ở khu vực FDI chỉ biết vắt kiệt sức nhân công mà thiếu chăm lo, giữ 
chân họ lâu dài bằng chế độ đãi ngộ hợp lý. Không chỉ có lỗi của nhà đầu tư. 
Xung quanh chuyện thu hút đầu tư bằng mọi giá, TPHCM cũng như các địa 
phương lân cận chỉ chú trọng đến khâu duyệt dự án, ưu ái với những dự án có 
số vốn đầu tư lớn mà xem nhẹ việc chuẩn bị nguồn nhân lực, quỹ đất xây nhà ở, 
nhà lưu trú cho công nhân 
Lật lại vấn đề - cách đây khoảng 6 năm, khi dòng vốn FDI chảy vào chưa cao và 
để thu hút các dự án với số vốn lớn, lãnh đạo một số địa phương đã hứa quan 
tâm giải quyết các vấn đề bức xúc của nhà đầu tư như thiếu nhân công lao 
động, tạo quỹ đất để xây nhà lưu trú, nhà trẻ Thế nhưng, đến nay, sau thâm 
niên 5 - 10 năm lao động cật lực, bán rẻ sức lao động ở các KCX-KCN, đội ngũ 
công nhân lao động được gì? Thực tế nhức nhối là chỗ ăn, chỗ ở nhếch nhác và 
hành trang tích lũy về tay nghề cũng chẳng có gì đáng giá! Do các nhà đầu tư 
chỉ cần lao động phổ thông - không cần nghề để làm việc trên dây chuyền sản 
xuất đòi hỏi thao tác đơn giản nên hầu hết người lao động ở các KCX-KCN 
không có điều kiện nâng cao tay nghề. 
Vì thế, sau khi rời khỏi dây chuyền sản xuất, người lao động vẫn hoàn không 
nghề, tay trắng. Kết quả khảo sát của Ban quản lý các KCX-KCN TPHCM –
HEPZA về thực trạng công nghệ của hơn 400 DN đang hoạt động trên địa bàn 
TP cho thấy chỉ có 1% DN đạt yêu cầu công nghệ tiên tiến; 51% lạc hậu, số còn 
lại đạt trung bình khá. Nhìn vào thực trạng này, chúng ta có thể thấy mục tiêu 
chuyển hóa lao động từ không nghề ở các KCX-KCN thành lực lượng có nghề, 
kỹ năng, đáp ứng mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa xem ra khó hiện thực.
 CHƯƠNG II:
 THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG PHI CHÍNH THỨC TẠI TP. HCM
 XU HƯỚNG VÀ NHỮNG ĐỀ XUẤT QUẢN LÝ
2.1.Thống kê tổng quát về các khu vực và Việt Nam nói chung:
Khu vực phi chính thức, hay còn gọi là “khu vực phi tập trung”, “khu vực phi
hình thức” có một vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, đóng góp 
20% cho GDP của Việt Nam (số liệu thống kê năm 2004). Tại thành phố Hồ Chí 
Minh (TP.HCM),
khu vực này chiếm một tỷ lệ việc làm là 41%, nơi mà tưởng chừng như khó có 
thể cạnh tranh được với các hoạt động kinh tế chính thức của Nhà nước và hoạt 
động kinh tế hợp tác với nước ngoài). Lực lượng lao động phi chính thức ở 
TP.HCM chiếm 32,9%, đây là tỷ lệ cao so với các nơi khác (ví dụ như: ở Hà Nội, 
lao động phi chính thức chiếm 29,9%), 1/3 số hộ gia đình TP.HCM có thu nhập 
từ khu vực phi chính thức. Quy mô sản xuất của các doanh nghiệp hoạt động 
trong lĩnh vực phi chính thức ở TP.HCM rất nhỏ, chủ yếu là kinh doanh - dịch vụ, chiếm khoảng 20%. Theo Cục thống kê TP.HCM, mỗi năm do nhu cầu tăng 
cường sản xuất kinh doanh phục vụ Tết, TP.HCM có trên 40% số chỗ việc làm 
mới mang tính chất không ổn định, nơi đây có thể giải quyết việc làm cho
lao động khu vực phi chính thức. Thành phố cũng có khoảng 1.150 trẻ đường 
phố, trẻ lao động kiếm sống1 . Như vậy, khu vực phi chính thức có ý nghĩa rất 
lớn đối với người lao động và là giải pháp quan trọng giúp giảm bớt gánh nặng 
an sinh - xã hội cho thành phố khi số lao động bị buộc phải thôi việc tăng lên do 
tác động của khủng hoảng kinh tế trong thời gian vừa qua.
Khái niệm khu vực phi chính thức (informal sector) đã được thế giới đề cập nhiều
đến từ những năm 90 của thế kỷ XX. Khu vực phi chính thức là “một đơn vị bao 
gồm các đơn vị sản xuất không có tư cách pháp nhân, không chịu điều chỉnh của 
Luật doanh nghiệp và không có giấy phép kinh doanh”2, như hộ kinh doanh cá 
thể, doanh nghiệp nhỏ và vừa không đăng ký, các cá nhân buôn bán nhỏ lẻ.... 
Khu vực phi chính thức bao gồm: các dịch vụ, sản xuất không có tư cách pháp 
nhân (không có đăng ký, hoặc quy mô hoạt động không đủ đáp ứng với một mức 
độ nhất định). Người lao động trong khu vực phi chính thức không được đăng 
ký, không có hợp đồng, không được bảo hiểm xã hội .
2.2. Vai trò của khu vực kinh tế phi chính thức
Đóng góp cho thu nhập quốc gia, tạo ra việc làm và tăng phúc lợi cho xã hội
Theo các chuyên gia xã hội học, tại các nước châu Á, trong đó có Việt Nam, thu
nhập từ khu vực việc làm phi chính thức chiếm 30 - 60%3 tổng thu nhập quốc gia 
chứng tỏ khu vực kinh tế này đã thực hiện được chức năng thiết yếu là tạo ra 
việc làm và tăng phúc lợi cho nhà sản xuất và người tiêu dùng. Khu vực phi 
chính thức sử dụng nguồn lực vốn cố định một cách hiệu quả thông qua việc kết 
hợp nguồn vốn thấp với số lượng người lao động khá đông. Đồng thời, kinh tế 
phi chính thức tiết kiệm nhu cầu vốn lưu động bằng cách chia khâu sản xuất và 
tiêu thụ hàng hóa thành những quy mô nhỏ, dễ quản lý. Mặt khác, đối với những 
người nghèo, dân nhập cư, không bằng cấp, không hộ khẩu, trình độ nghề 
nghiệp thấp thì việc được chấp nhận vào làm trong các doanh nghiệp phi 
chính thức là sự bắt đầu phù hợp, là cơ hội thiết thực để người lao động có thể
tạo thu nhập, học tập, nâng cao tay nghề.
Khu vực phi chính thức góp phần giải quyết việc làm cho số lao động bị mất việc
do tác động của khủng hoảng kinh tế, giúp ổn định an sinh - xã hội. Điều này có 
ý nghĩa rất lớn cho người lao động, là giải pháp quan trọng giúp giảm bớt gánh 
nặng cho xã hội khi số lao động buộc phải thôi việc tăng lên. Ở thành thị, những 
người lao động bị mất việc, bị dạt ra từ khu vực kinh tế chính thức, kể cả khu 
vực có vốn đầu tư nước ngoài, sẽ được giải quyết công ăn việc làm tạm thời ở 
khu vực phi chính thức. Trong 5 tháng đầu năm 2009, trên địa bàn TP.HCM có 
tổng số lao động mất việc làm là 21.844 người và 16.929 lao động thiếu việc 
làm.
Bảng 1. Tổng số lao động bị mất việc làm, thiếu việc làm ở TP.HCM (5 tháng đầu năm 
2009)
Tổng số lao động mất việc làm Thiếu việc làm
 Trong KCX - KCN 6.705 11.341 Ngoài KCX - KCN 15.139 5.588
 Tổng cộng 21.844 16.929
- Mạng lưới phân phối luân chuyển hàng hóa nhanh chóng, linh hoạt, hiệu quả
Nguồn cung ứng rau quả, thực phẩm, hàng hóa nhanh - rẻ - tiện lợi từ các gánh
hàng rong, trong các chợ cóc và trên các vỉa hè luôn thu hút những người nội trợ 
gia đình,
phụ nữ và trẻ em. Trong lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, phân phối hàng hóa, khu vực 
kinh tế
“phi chính thức” rất quan trọng và cần thiết vì nếu không có lực lượng lao động 
này, hoạt
động kinh tế chắc chắn sẽ bị tê liệt.
Ở Việt Nam hệ thống giao thông công cộng chưa thật sự phát triển, nhiều người
dân, đặc biệt là những người nội trợ, sẽ gặp nhiều khó khăn nếu hằng ngày cần 
phải đến
các trung tâm mua sắm. Đối với người mua, hàng rong là nguồn hàng hoá, thực 
phẩm giá
rẻ. Nguồn hàng hoá, thực phẩm này có chất lượng tuy kém hơn các nguồn ở các 
cửa hàng
và siêu thị nhưng lại phù hợp với túi tiền của những người nghèo. Thiếu hàng 
rong, ngân
quỹ của nhiều gia đình nghèo sẽ bị thiếu hụt nghiêm trọng, ảnh hưởng tới cuộc 
sống.
Điều này cho thấy chợ cóc, hàng rong, buôn bán vỉa hè sẽ vẫn còn tồn tại, vì hầu 
hết các
hộ gia đình ở thành phố, người nội trợ, số đông phụ nữ vẫn có nhu cầu mua bán 
tại đây.
- Chuyển đổi việc làm từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp
Khu vực phi chính thức có vai trò to lớn không chỉ ở thành thị, mà cả vùng nông
thôn Việt Nam. Sự hình thành khu vực kinh tế phi chính thức gắn liền với quá 
trình đô thị
hóa nhanh chóng ở các thành phố lớn của Việt Nam. Hiện tượng này cùng với 
sự phát
triển ồ ạt thiếu quy hoạch các khu công nghiệp, nhà máy, khu đô thị và sân golf 
tại nhiều
địa phương đã lấy đi một diện tích khá lớn đất đai nông nghiệp, cộng hưởng với 
chính
sách chuyển đổi cơ cấu lao động nông thôn chưa tốt, đã và đang trực tiếp tác 
động đến
cuộc sống hàng chục triệu nông dân khắp cả nước. Khu vực phi chính thức đóng 
vai trò
quan trọng để chuyển đổi việc làm từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp và 
góp phần
giải quyết số lao động dư thừa trong kinh tế nông thôn khi tốc độ công nghiệp 
hóa diễn ra nhanh và lan rộng tới các vùng quê. Nó tạo ra rất nhiều công ăn việc làm (hơn 
một nửa số
công ăn việc làm phi nông nghiệp, gần một phần ba của tổng số công ăn việc 
làm trong
cả nước). Kết quả của cuộc điều tra cho thấy, những địa phương có nền kinh tế 
kém thì
khu vực phi chính thức cũng kém phát triển.
Với những đóng góp của lực lượng lao động phi chính thức đối với xã hội và nền
kinh tế hiện nay, việc thừa nhận vị trí, vai trò xã hội và tạo điều kiện cho họ thụ 
hưởng
các dịch vụ công ích là điều không thể phủ nhận
￿ Thực trạng lao động phi chính thức tại TP.HCM
Lực lượng lao động TP.HCM tham gia vào nền kinh tế phi chính thức chiếm một
số lượng khá đông. Thực tế thị trường lao động TP.HCM cho thấy phần lớn 
những việc làm mới được tạo ra từ khu vực kinh tế phi chính thức (ví dụ như: 
loại dịch vụ đóng vai cô dâu chú rể, họ hàng nhà trai, nhà gái...). Họ gồm những 
lao động làm việc trong các doanh nghiệp phi chính thức (quy mô sản xuất nhỏ 
hoặc không phù hợp với quy định pháp luật); trong các doanh nghiệp chính thức 
nhưng công việc không được sự bảo vệ của xã hội, luật lao động; người làm 
việc trong hộ gia đình (giúp việc nhà) và lao động ăn lương trong nhiều khu vực, 
kể cả khu vực Nhà nước, nhưng công việc không ổn định.
Dễ nhận ra nhất là những người làm việc tự do (buôn bán, khuân vác, dịch vụ 
đơn giản) hay tự nguyện làm công cho người khác mà không hề được ký hợp 
đồng lao động.
Những nơi có nền kinh tế phát triển càng cao, thì hoạt động của các doanh 
nghiệp cũng như lao động phi chính thức càng đông. Ở TP.HCM, lao động phi 
chính thức chiếm 32,9%, đây là tỷ lệ cao so với các nơi khác (ví dụ như: ở Hà 
Nội, lao động phi chính thức chiếm 29,9%) và 1/3 số hộ gia đình có thu nhập từ 
khu vực phi chính thức. Quy mô sản xuất của các doanh nghiệp hoạt động trong 
lĩnh vực phi chính thức thường rất nhỏ, chủ yếu là kinh doanh, dịch vụ (chiếm 
20%).
Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu về lao động nhập cư TP.HCM, lao động 
ở khu vực phi chính thức có cuộc sống khá bấp bênh do không có hợp đồng 
(chủ yếu là hợp đồng bằng miệng), điều kiện lao động không đảm bảo, lương 
thấp, trình độ văn hóa thấp . Đây là khu vực gồm những cá nhân, các hộ gia 
đình có hoạt động kinh doanh
nhưng chưa hoặc không đăng ký kinh doanh với chính quyền. Họ gồm những 
người hành nghề tự do, các hộ kinh doanh - sản xuất - dịch vụ cá thể, những 
người làm phụ hồ, khuân vác, hoặc có thể là trẻ đánh giày, người bán báo, 
người bán hàng rong, lái xe ôm, người môi giới, lao động phổ thông nước ngoài 
vào Việt Nam..... Phần lớn người lao động phi chính thức tự kinh doanh, một số 
có thuê người làm.
Lao động khu vực phi chính thức TP.HCM chủ yếu là người nhập cư, phần lớn
trong số họ đến từ các tỉnh miền Trung, kiếm tiền gửi về quê phụ giúp gia đình. 
Đối với những người đã có gia đình, mục đích của họ là tích lũy tiền để đầu tư 
cho con cái học hành, chấp nhận cuộc sống cơ cực tại TP.HCM để đổi đời cho con cái. Họ tận dụng mọi thời gian để kiếm sống, làm bất cứ công việc gì miễn là 
không vi phạm pháp luật để có thêm thu nhập. Để tiết kiệm chi phí điều kiện 
sống của họ là những căn nhà trọ chật hẹp, thiếu tiện nghi....
Số lượng người lao động TP.HCM tham gia khu vực phi chính thức tăng lên khá
nhanh từ cuối năm 2008 đến đầu năm 2009. Các cuộc phỏng vấn nhóm trong 
một nghiên cứu của Viện Nghiên cứu phát triển về lao động phi chính thức, số 
lượng người tham gia hành nghề xe ôm và bán hàng rong TP.HCM đã tăng lên 
do một số người bị mất việc tại các công ty và không kiếm được việc làm nên 
chọn nghề chạy xe ôm hoặc bán hàng rong để kiếm sống. Mặt khác, vốn đầu tư 
cho nghề xe ôm hoặc bán hàng rong khá thấp nên người lao động có thể dễ 
dàng hành nghề. Ví dụ: nghề xe ôm đầu tư khoảng 3 – 4 triệu đồng; hàng rong 
đầu tư khoảng 300.000 – 800.000 đồng. Mặt khác, điều kiện tham gia các nghề 
này cũng khá thoáng, bất kỳ ai cũng có thể đặt một gánh hàng rong cạnh cổng 
trường, trước công ty hoặc chỗ trống nào đó trên vỉa hè; đối với nghề xe ôm, chỉ 
cần kiếm một nơi đỗ xe là có thể hành nghề được.
Do lượng lao động phi chính thức tăng lên nhưng nhu cầu về những dịch vụ này 
lại không tăng, nên lao động phi chính thức cũng gặp phải sự cạnh tranh gay 
gắt, việc kiếm sống khó khăn hơn. Thu nhập của lao động phi chính thức bị sụt 
giảm vì tình hình
kinh tế khó khăn. Mặt khác, do thu nhập của người tiêu dùng giảm nên họ tiết 
kiệm, ít sử dụng dịch vụ xe ôm hoặc ăn uống hàng rong hơn.
Bảng 2. Thu nhập bình quân của lao động phi chính thức một số nghề
 Loại việc Thu nhập bình quân
 Năm 2008-2009 Năm 2006-2008
 Xe ôm 50.000 đồng/ngày 80.000 đồng/ngày
 Thợ xây dựng 3.000.000 – 4.000.000 đ/tháng 5.000.000 – 6.000.000 
 đ/tháng
Bán hàng rong 70.000 đồng/ngày 90.000 đồng/ngày
Do thu nhập giảm, người lao động phải tiết kiệm và dành tiền gửi về cho gia 
đình.
Theo thông tin của những nhóm lao động phi chính thức cung cấp, một phòng 
trọ ở quận 3 trước năm 2008 có giá là 800.000 đồng/1 phòng/3 người, nhưng 
hiện nay là 1.500.000 đồng/1 phòng/3 người; chi phí ăn uống cũng tăng, trước 
đây 1 phần ăn chỉ có 5.000 đồng nhưng hiện nay là 7.000 đồng; chi phí điện 
nước cũng tăng, hiện nay họ phải trả tiền điện 3.000 đồng/Kwh.
Nguyên nhân chính buộc người lao động phải tham gia khu vực kinh tế “phi 
chính thức” là những hạn chế về năng lực, kiến thức và vật chất của người lao 
động. Nông dân bị mất đất canh tác phải ra thành phố kiếm sống. Do nghèo đói, 
thất học, con người đành phải gia nhập vào thị trường lao động bị cho là hiếm có 
cơ hội học hỏi, hòa nhập với sự phát triển xã hội. Ở trong khu vực kinh tế này, 
mức thu nhập của người lao động rất thấp, rủi ro tai nạn lao động và sẽ không 
được đền bù nếu bị thiệt hại . Vì nghèo nên nhiều người phải tham gia khu vực 

File đính kèm:

  • docde_tai_thuc_trang_va_giai_phap_ve_thi_truong_lao_dong_phi_ch.doc