Đề tài Thực trạng và giải pháp cho hoạt động Xuất khẩu Lao động ra nước ngoài ở Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2008 – 2010
Trong giai đoạn hiện nay, quá trình toàn cầu hoá và hội nhập Quốc tế ngày càng được mở rộng, Việt Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đã có thêm nhiều cơ hội tiếp cận với thị trường Quốc tế, có điều kiện phá bỏ những rào cản hữu hình và vô hình đối với các thị trường quốc tế, nâng cao khả năng cạnh tranh giữa các nước, do vậy các ngành Kinh tế trong nước có nhiều điều kiện tiếp cận với thị trường toàn cầu, hoạt động Xuất khẩu Lao động (XKLĐ) ra nước ngoài cũng không ngoại lệ. Đặc biệt là ở thành phố Hồ Chí Minh (HCM) , nơi được xem là có nền Kinh tế năng động nhất, là đầu tàu Kinh tế của cả quốc gia, hoạt động XKLĐ ở tp HCM trong nhiều năm qua đã đạt được nhiều thành quả đáng khích lệ, góp phần giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân lao động, tạo thêm nguồn thu ngoại tệ cho ngân sách Nhà Nước.
Tuy nhiên trong thời gian gần đây, hoạt động XKLĐ ở thành phố đang gặp phải một số khó khăn nhất định mà nguyên nhân chính là do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính diễn ra ở nhiều nước trên thế giới. Báo cáo thực tập chuyên môn cuối khoá “Thực trạng và giải pháp cho hoạt động Xuất khẩu Lao động ra nước ngoài ở thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2008 – 2010 ” được thực hiện nhằm nghiên cứu tình hình thực tiễn của hoạt động XKLĐ ra nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh, tìm hiểu những kết quả tích cực mà chính quyền Thành phố đã đạt được trong thời gian qua cũng như những mặt hạn chế, những điểm khó khăn cần giải quyết trong lĩnh vực XKLĐ ra nước ngoài và từ đó đề xuất một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề tài Thực trạng và giải pháp cho hoạt động Xuất khẩu Lao động ra nước ngoài ở Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2008 – 2010

1 MỞ ĐẦU 1.Lý do chọn đề tài Trong giai đoạn hiện nay, quá trình toàn cầu hoá và hội nhập Quốc tế ngày càng được mở rộng, Việt Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đã có thêm nhiều cơ hội tiếp cận với thị trường Quốc tế, có điều kiện phá bỏ những rào cản hữu hình và vô hình đối với các thị trường quốc tế, nâng cao khả năng cạnh tranh giữa các nước, do vậy các ngành Kinh tế trong nước có nhiều điều kiện tiếp cận với thị trường toàn cầu, hoạt động Xuất khẩu Lao động (XKLĐ) ra nước ngoài cũng không ngoại lệ. Đặc biệt là ở thành phố Hồ Chí Minh (HCM) , nơi được xem là có nền Kinh tế năng động nhất, là đầu tàu Kinh tế của cả quốc gia, hoạt động XKLĐ ở tp HCM trong nhiều năm qua đã đạt được nhiều thành quả đáng khích lệ, góp phần giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân lao động, tạo thêm nguồn thu ngoại tệ cho ngân sách Nhà Nước. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, hoạt động XKLĐ ở thành phố đang gặp phải một số khó khăn nhất định mà nguyên nhân chính là do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính diễn ra ở nhiều nước trên thế giới. Báo cáo thực tập chuyên môn cuối khoá “Thực trạng và giải pháp cho hoạt động Xuất khẩu Lao động ra nước ngoài ở thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2008 – 2010 ” được thực hiện nhằm nghiên cứu tình hình thực tiễn của hoạt động XKLĐ ra nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh, tìm hiểu những kết quả tích cực mà chính quyền Thành phố đã đạt được trong thời gian qua cũng như những mặt hạn chế, những điểm khó khăn cần giải quyết trong lĩnh vực XKLĐ ra nước ngoài và từ đó đề xuất một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này. 2. Mục tiêu nghiên cứu Đề tài nghiên cứu được thực hiện nhằm mục đích tìm hiểu thực trạng hoạt động Xuất khẩu lao động của các Doanh nghiệp trên địa bàn Tp HCM giai đoạn 2000 - 2008, bao gồm những kết quả thiết thực mà hoạt động này đạt được cũng như 2 những điểm hạn chế, khó khăn cần giải quyết, khắc phục. Từ đó có thể nêu ra một vài đóng góp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động Xuất khẩu lao động, cải thiện cuộc sống cho người dân lao động và góp phần vào mục tiêu phát triển chung của Thành phố . 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu • Đối tượng nghiên cứu : Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng của hoạt động xuất khẩu lao động ra nước ngoài. • Phạm vi nghiên cứu : Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2000-2008. 4. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu dựa trên phân tích số liệu của các báo cáo thực tiễn từ các Doanh nghiệp Xuất khẩu lao động trên địa bàn thành phố và báo cáo của Sở Lao động thương binh – xã hội thành phố về hoạt động Xuất khẩu lao động ra nước ngoài trong từng giai đoạn. 5. Nguồn số liệu Số liệu được thu thập dựa trên các báo cáo thường niên của Sở Lao động Thương binh – Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh về vấn đề Xuất khẩu lao động diễn ra trên địa bàn Thành phố ; trên các bài báo, tạp chí , website về lĩnh vực Xuất khẩu lao động ra nước ngoài, v.v.. 6. Kết cấu Chương 1 : Lý luận chung về Lao động và Xuất khẩu lao động ra nước ngoài. Chương 2 : Thực trạng hoạt động Xuất khẩu lao động ra nước ngoài ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2000 – 2008. Chương 3 : Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động Xuất khẩu lao động ra nước ngoài tại Thành phố Hồ Chí Minh. 3 Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ LAO ĐỘNG VÀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG RA NƯỚC NGOÀI 1.1 Một số khái niệm 1.1.1 Lao động Lao động là hoạt động hữu ích của con người nhằm sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cần thiết để thoả mãn những nhu cầu của cá nhân, của một nhóm người, của cả doanh nghiệp hoặc nói chung của toàn xã hội. Cùng với các nguồn lực thiết yếu khác như máy móc, nguyên liệu, đất đai,v.v ..lao động sống là nguồn lực của sản xuất còn lao động là sức mạnh năng động của quá trình sản xuất. Đại diện cho sức lao động là con người. Sức lao động chỉ tồn tại thực sự trong cá nhân người lao động và là nguồn lực lao động chủ yếu của xã hội. Trong điều kiện lao động tự do, lao động không thể tuỳ tiện di chuyển từ điểm dân cư này sang điểm dân cư khác. 1.1.2 Nguồn Lao động Đối với Xã hội ngày nay nguồn lao động hay còn gọi là nguồn nhân lực, là một nguồn lực không thể thiếu của bất cứ quốc gia nào. Khái niệm nguồn lao động trong Kinh tế học là dân số có khả năng lao động cả bằng thể lực và trí lực của mình. Nói cách khác, đó là những dân cư đang làm việc và không làm việc nhưng vẫn có khả năng lao động. Đặc điểm của nguồn lao động là không thể tích luỹ, tiết kiệm, không thể sử dụng như là những yếu tố nguyên liệu sản xuất. Nếu như nguồn lao động được tiết kiệm ,không được sử dụng thì đó sẽ là một sựtổn thất cho Xã hội. 1.1.3 Hoạt động xuất khẩu lao động Khái niệm Xuất khẩu lao động là một bộ phận của khái niệm di chuyển lao động, xuất phát từ khái niệm di chuyển lao động. 4 Về khái niệm di chuyển lao động, đó là quá trình phân bổ sức lao động đến những chỗ làm việc mới. Việc di chuyển đến những chỗ làm việc mới có thể đi cùng với sự thay đổi về dạng việc làm, vùng lãnh thổ và người sử dụng lao động. Các dạng di chuyển có thể được thể hiện dưới hai nguồn gốc cơ bản, đó là phân bổ theo vùng lãnh thổ và thay đổi loại hình công vệc. Như vậy Xuất khẩu lao động là một phân loại của di chuyển lao động, đó là quá trình di chuyển lao động đến nơi làm việc mới ở ngoài quốc gia. Hoạt động Xuất khẩu lao động được thực hiện bởi các doanh nghiệp Xuất khẩu lao động và chịu sự quản lý của Nhà Nước thông qua Bộ Lao động – Thương Binh Xã hội và Sở Lao động – thương binh Xã hội ở các địa phương. 1.1.4 Người lao động đi làm việc ở nước ngoài Theo “Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng” (Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ X thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2006.): “ người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sau đây gọi là người lao động đi làm việc ở nước ngoài) là công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam, có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận người lao động, đi làm việc ở nước ngoài theo quy định của Luật này”. 1.2 Các ngành nghề Xuất khẩu lao động Các ngành nghề Xuất khẩu lao động ở Việt Nam nói chung và thành phố HCM nói riêng chủ yếu vẫn là các nghành nghề lao động trực tiếp, hay nói cách khác là lao động chân tay (lao động giản đơn), các ngành nghề sử dụng nhiều lao động nhưng không yêu cầu trình độ lao động cao, ví dụ như may mặc, nữ giúp việc nhà, khai thác khoáng sản, xây dựng, chăm sóc người cao tuổi, v.v Bên cạnh đó cũng có các ngành nghề đòi hỏi trình độ của người lao động tham gia Xuất khẩu lao động, đó là các ngành nghề như công nhân kỹ thuật, cán bộ quản lý có trình độ Đại học hay trên Đại học, v..v. 5 1.3 Tác động của hoạt động Xuất khẩu lao động đến quốc gia Xuất khẩu lao động và quốc gia tiếp nhận lao động 1.3.1 Đối với quốc gia Xuất khẩu lao động Ở các nước có Lao động tham gia Xuất khẩu lao động mà chủ yếu là ở các nước kém phát triển, hoạt động này là một biện pháp tích cực nhằm giải quyết công ăn việc làm, nâng cao tay nghề cho người lao động. Bên cạnh đó, đưa Lao động đi Xuất khẩu lao động cũng là biện pháp tốt để mang nguồn thu ngoại tệ về cho đất nước nhằm du nhập công nghệ, tư bản.Ngoài ra, mặc dù việc đưa một phần lao động ra nước ngoài có thể kéo theo sự suy giảm của nền sản xuất trong nước (do giảm thị trường tiêu thụ và cũng là lực lượng sản xuất) nhưng đó cũng là con đường nhằm nâng cao thu nhập cho những người lao động, không chỉ những người đi Xuất khẩu lao động mà còn là những lao động trong nước, từ đó nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của người dân, từ đó phát triển Kinh tế đất nước đi lên. Bảng 1.1 Ảnh hưởng của XKLĐ đến thị trường lao động của quốc gia XKLĐ W Sản xuất giảm kijl W1 i Wo j m D O k l L Di chuyển lao động (Nguồn : Slide bài giảng Kinh tế Lao động – TSKH. Phạm Đức Chính,tr.19) 6 Biểu đồ trên cho thấy trước khi di chuyển lao động ra nước ngoài, mức lương của lao động nước này là Wo tương ứng với số lượng lao động trong nước là Ol, khối lượng sản xuất của nền Kinh tế được tính bằng diện tích hình chư nhật OWojl. Cung lao động lớn nên mức lương nhận được của lao động trong nước khá thấp(Wo) Sau khi có hoạt động XKLĐ ra nước ngoài, số lượng lao động còn lại là Ok, với nguồn cung lao động này , mức sản xuất của nền Kinh tế giảm xuống đúng bằng diện tích kijl, trong khi đó mức lương người lao động nhận được lại tăng từ Wo lên W1. Như vậy ta có thể thấy khi có hoạt động Xuất khẩu lao động ra nước ngoài , không những thu nhập của các hộ gia đình có lao động đi xuất khẩu tăng lên , mà mức thu nhập của những ngừoi lao động trong nước cũng được cải thiện đáng kể. Đối với Việt Nam, Xuất khẩu lao động (XKLĐ) là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, điều đó phù hợp với nguyện vọng của người lao động nhằm góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và tay nghề cho người lao động, mang lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Từ năm 2000 đến 2008 cả nước đã đưa được trên 300.000 lao động và chuyên gia đi làm việc tại nước ngoài, trong đó số Lao động từ tp HCM là 117.965 người. Chính nhờ hoạt động Xuất khẩu lao động mà áp lực giải quyết việc làm trong nước đã vơi đi một phần gánh nặng. Không những thế từ hiệu quả của hoạt động này, chất lượng và trình độ tay nghề của người lao động cũng được nâng cao đáng kể, đóng góp vào sự phát triển về chất trong đội ngũ người lao động cả nước , từ đó góp phần vào quá trình tăng trưởng và phát triển của cả quốc gia. Mặt khác, hoạt động Xuất khẩu lao động khi phát triển sẽ tạo ra hàng loạt việc làm trong các hoạt động phục vụ cho lĩnh vực này, ví dụ như các hoạt độgn giáo dục dạy nghề, dạy ngoại ngữ,v.v. Từ đó các Doanh nghiệp Xuất khẩu lao động sẽ đóng góp cho ngân sách Nhà nước hàng chục tỷ đồng từ lợi nhuận và phí quản lý từ những hoạt động này hàng năm. 1.3.2 Đối với quốc gia tiếp nhận Lao động Ta có thể chia các nước nhập khẩu lao động thành hai loại : Thứ nhất là những nước dân số ít mà giàu tài nguyên như ở Trung Đông, ở đây thiếu lao động 7 trong các ngành xây dựng, dịch vụ, nhất là dịch vụ tại tư gia; Thứ hai là những nước đã phát triển, kể cả những nước công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Malaysia. Trong nhóm thứ hai, cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh sang những ngành dùng nhiều tư bản, công nghệ và lao động trí thức, và chuyển ra nước ngoài ( dước các hình thức như đầu tư trực tiếp FDI ) những ngành có hàm lượng lao động giản đơn cao. Tuy nhiên, tại những nước công nghiệp mới, những ngành dùng nhiều lao động giản đơn có quy mô khá lớn nên không thể chuyển hết ra nước ngoài được. Thêm vào đó, trong những ngành đang phát triển mạnh tại những nước này có nhiều công đoạn còn dùng lao động giản đơn nên nhu cầu nhập khẩu lao động gia tăng. Tại những nước phát triển (như Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật), nhu cầu lao động tăng trong ngành xây dựng, ngành dịch vụ ẩm thực, dịch vụ săn sóc người cao tuổi, một số nước cần lao động trong nông nghiệp..v.v.. Ở đây cần lưu ý một điểm là tại các nước đã phát triển không phải là không còn tồn tại lao động giản đơn. Vẫn còn một bộ phận không nhỏ số người mới ở trình độ giáo dục cưỡng bách tại các quốc gia này. Tuy nhiên vì tiền lương nói chung đã tăng cao theo mức sống của xã hội, các xí nghiệp có khuynh hướng thuê mướn lao động nước ngoài để giảm chi phí. Mặt khác, lao động bản xứ có khuynh hướng tránh những loại công việc mà môi trường lao động không tốt, dễ gặp tai nạn. Ví dụ như tại Nhật có 3 loại công việc, mà tiếng Nhật gọi là 3K, phải nhập khẩu lao động nước ngoài vì không thuê mướn được lao động bản xứ : nguy hiểm (kiken), môi trường làm việc không sạch sẽ (kitanai) và điều kiện lao động khắc nghiệt (kitsui) như nóng nảy, ngột ngạt. v..v 8 Bảng 1.2 : Ảnh hưởng của XKLĐ đến các quốc gia tiếp nhận Lao động Xuất khẩu W Tiền công dân bản địa giảm từ OWobe xuống còn OW1be Wo b W1 g c D O e fL Di chuyển lao động (Nguồn : Slide bài giảng Kinh tế Lao động – TSKH. Phạm Đức Chính,tr.19) Trước khi tiếp nhận thêm lao động ở nước ngoài, mức lương của người dân bản địa các nước này là Wo tương ứng với số lượng lao động là Oe. Việc tiếp nhận thêm Lao động từ Xuất khẩu lao động ở các nước (ef), có nghĩa là nguồn cung lao động ở các nước này tăng lên đáng kể ( từ Oe lên Of ), điều này làm cho tiền công của dân bản địa giảm xuống từ Wo xuống W1. Song bù lại, thị trường tiêu thụ các nước này tăng lên, các ngành sản xuất trong nước cũng tăng, do đó mang lại nguồn thu rất lớn cho các nước này.( Theo biểu đồ, sản xuất của nền Kinh tế các nước tiếp nhận LĐXK tăng lên đúng bằng diện tích befc). 1.4 Những yêu cầu của XKLĐ ra nước ngoài Để tham gia vào đội ngũ lao động Xuất khẩu ra nước ngoài, người lao động bên cạnh những đòi hỏi về sức khoẻ, nguồn tài chính còn có những yêu cầu khác như lí lịch cá nhân, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ.. Tuỳ 9 theo thị trường tiếp nhận và yêu cầu công việc mà mức độ của các yêu cầu có khác nhau đối với người lao động. Ví dụ như đối với thị trường Đài Loan hay Malaysia, yêu cầu đối với người lao động nhìn chung khá thấp với số lượng nhiều, trong khi đó thị trường Nhật Bản chỉ tuyển thực tập sinh với số lượng hạn chế nên yêu cầu của họ khá cao. 1.5 Bộ luật Nhà Nước về Xuấ t khẩu lao động ra nước ngoài Văn bản Pháp luật về Lao động là người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài được NN và Chính phủ qui định tại Mục V – Chương XI - Bộ Luật Lao động nước Cộng hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam và văn bản về quản lí Nhà nước trong hoạt động XKLĐ ra nước ngoài cũng được NN và Chính Phủ qui định rõ tại Điều 184 – Chương XV về quản lí NN về Lao Động – Bộ Luật Lao động nước Cộng Hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngoài ra, Luật người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cũng đã được Quốc Hội khoá XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29/11/2006 cà có hiệu lực thi hành từ 1/7/2007. Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng : (Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10) :Luật này quy định về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và các tổ chức, cá nhân có liên quan. Ngoài ra, NN và Chính phủ cũng đã ban hành rất nhiều thông tư, nghị định về việc đưa người lao động ra nước ngòai làm việc và các văn bản, quyết định hướng dẫn thi hành các thông tư, nghị định đó. 1.6 Hoạt động Xuất khẩu Lao động tại thành phố Hồ Chí Minh Tính đến 21/10/2008, ở Thành phố Hồ Chí Minh có 57 Doanh Nghiệp được cấp phép theo Luật đưa người Lao động đi làm việc ở nước ngoài, trong đó có 10 đơn vị trực thuộc UBND thành phố ; trong năm 2008 các Doanh nghiệp đã đưa được 18.095 người lao động đi làm việc ở nước ngoài. 10 Thủ tục đưa người Lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài được thực hiện theo “Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng”, trong đó các Doanh nghiệp có quyền tuyển Lao động đi làm việc ở nước ngoài có thời hạn được quy định theo Pháp Luật. Việc tuyển dụng được thực hiện theo các quy trình và chịu sự quản lý của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về đưa người lao động ra nước ngoài làm việc, đó là Sở Lao động – Thương binh Xã hội thành phố Hồ Chí Minh và Cục quản lý lao động với nước ngoài.
File đính kèm:
de_tai_thuc_trang_va_giai_phap_cho_hoat_dong_xuat_khau_lao_d.doc