Đề tài Thất nghiệp ở Việt Nam: Các hình thức thất nghiệp và xu hướng ở TP. Hồ Chí Minh
Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể: kinh tế có nhiều bước khởi sắc, thu nhập người dân được cải thiện, cho nên đời sống của người dân cũng được nâng cao,… Đồng thời công cuộc đổi mới kinh tế đất nước cũng đã tạo thêm nhiều cơ hội việc làm cho người lao động, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực. Tuy nhiên, một trong những vấn đề nổi cộm nhất hiện nhay là tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm còn chiếm tỉ trọng cao.
Mặc dù vậy, Đảng và Nhà nước đã có nhiều biện pháp nhằm giảm tỉ lệ thất nghiệp, thực tế đã chứng minh rằng trong những năm gần đây tỉ lệ thất nghiệp nước ta đang có xu hướng giảm dần. Tìm hiểu về thất nghiệp chúng ta sẽ thấy rõ hơn về nó, nguyên nhân nội tại vì sao dẫn đến thất nghiệp đặc biệt là những biện pháp hiệu quả của Nhà nước nhằm giảm tỉ lệ thất nghiệp,chính vì thế mà tôi quyết định nghiên cứu đề tài “Thất nghiệp ở việt nam: Các hình thức thất nghiệp và xu hướng ở TP. Hồ Chí Minh”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề tài Thất nghiệp ở Việt Nam: Các hình thức thất nghiệp và xu hướng ở TP. Hồ Chí Minh

Thị trường lao động GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn PHẦN MỞ ĐẦU 1/Lý do chọn đề tài. Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể: kinh tế có nhiều bước khởi sắc, thu nhập người dân được cải thiện, cho nên đời sống của người dân cũng được nâng cao, Đồng thời công cuộc đổi mới kinh tế đất nước cũng đã tạo thêm nhiều cơ hội việc làm cho người lao động, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực. Tuy nhiên, một trong những vấn đề nổi cộm nhất hiện nhay là tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm còn chiếm tỉ trọng cao. Mặc dù vậy, Đảng và Nhà nước đã có nhiều biện pháp nhằm giảm tỉ lệ thất nghiệp, thực tế đã chứng minh rằng trong những năm gần đây tỉ lệ thất nghiệp nước ta đang có xu hướng giảm dần. Tìm hiểu về thất nghiệp chúng ta sẽ thấy rõ hơn về nó, nguyên nhân nội tại vì sao dẫn đến thất nghiệp đặc biệt là những biện pháp hiệu quả của Nhà nước nhằm giảm tỉ lệ thất nghiệp,chính vì thế mà tôi quyết định nghiên cứu đề tài “Thất nghiệp ở việt nam: Các hình thức thất nghiệp và xu hướng ở TP. Hồ Chí Minh”. 2/ Mục tiêu nghiên cứu. Đề tài nghiên cứu nhằm mục đích tìm hiểu thực trạng các hình thức thất nghiệp và xu hướng ở thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó phân tích những tác động của thất nghiệp đối với sự phát triển của thị trường lao động cũng như nền kinh tế và các tệ nạn ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời, tìm ra những hạn chế khó khăn cần phải khắc phục. Qua đó nêu ra một số đóng góp làm giảm tỷ lệ thất nghiệp hiện nay và góp phần vào mục tiêu phát triển chung. 3/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. • Đối tượng nghiên cứu: Các hình thức thất nghiệp và xu hướng thất nghiệp . • Phạm vi nghiên cứu : Thành phố Hồ Chí Minh 4/ Phương pháp nghiên cứu. Nghiên cứu dựa vào tài liệu tìm được từ báo chí, internet, những báo cáo về tình hình thất nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh. Những hiểu biết của bản thân qua việc cập nhật thông tin hàng ngày. SVTH: Khúc Thị Nhuần - 1 - Thị trường lao động GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn Tham khảo ý kiến Giáo viên hướng dẫn. 5/ Nguồn số liệu. Số liệu được thu thập dựa trên báo cáo thường niên về tình hình thất nghiệp ở việt nam và xu hướng ở thành phố Hồ Chí Minh, trên các tạp chí, website PHẦN NỘI DUNG Chương 1: LÝ LUẬN VỀ THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM: CÁC HÌNH THỨC THẤT NGHIỆP VÀ XU HƯỚNG Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 1.1 Một số khái niệm 1.1.1 Thất nghiệp là gì? Để tìm hiểu khái niệm thất nghiệp thì trước tiên chúng ta cần tìm hiểu một số khái niệm liên quan: “Việc làm”: Theo Bộ luật lao động nước ta thì việc làm được xá định là “ mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật ngăn cấm” ( Điều 13 – Bộ luật lao động). Trong việc làm chúng ta cần tìm hiểu 2 khái niệm: “Việc làm đầy đủ”: là hiện tượng người lao dộng có việc làm và được làm việc liên tục. “Việc làm hợp lý”: là sự phù hợp về mặt số lượng và chất lượng của các yếu tố con người và vật chất của sản xuất, là bước phát triển cao hơn của việc làm đầy đủ. “ Người lao động”: là người nằm trong lực lượng lao động có đủ trí lực và thể lực để tham gia vào quá trình kinh tế. “Lực lượng lao động”: là toàn bộ số người lao động tham gia vào quá trình kinh tế của một quốc gia. “ Người thất nghiệp”: là người nằm trong lực lượng lao động, có khả năng lao động nhưng không có việc làm và muốn tìm kiếm việc làm. Vậy “Thất nghiệp” là gì? Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế - xã hội trong đó một bộ phận lao động muốn tìm kiếm việc làm nhưng không tìm được việc làm. 1.1.2 Các hình thức thất nghiệp SVTH: Khúc Thị Nhuần - 2 - Thị trường lao động GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn Thất nghiệp là một hiện tượng phức tạp chính vì vậy để biết rõ hơn về nó chúng ta cần phân loại nhằm dễ dàng hơn trong việc tiếp cận tìm hiểu. 1.1.2.1 Phân loại theo hiện tượng Khi phân loại theo hiện tượng gồm có 3 loại: Thất nghiệp cơ học: do sự dịch chuyển lao động giữa các vùng, các ngành với nhau. Thất nghiệp cơ cấu: là sự mất việc kéo dài trong các ngành hoặc vùng có sự giảm sút kéo dài về nhu cầu lao động do thay đổi cơ cấu nền kinh tế. Nguyên nhân chính của sự thay đổi đó là do: + do sự dư thừa lao động của một ngành nào đó. + do sự suy giảm sản xuất của một ngành nào đó. Thất nghiệp thời vụ: Đây là hiện tượng thường gặp ở các khu vực kinh tế nông nghiệp khi mà tỉ lệ thời gian sử dụng lao động chưa được sử dụng hết. 1.1.2.2 Phân loại theo thái độ người lao động bao gồm có 2 loại: Thất nghiệp tự nguyện: do người lao động tự nguyện thất nghiệp khi không muốn làm việc ở mức lương hiện hành.Có thể nói thất nghiệp tự nguyện là bao gồm số người thất nghiệp tạm thời và số người thất nghiệp cơ cấu. Vì đó là những người chưa sẵn sàng làm việc ở mức lương tương ứng đồng thời họ muốn tìm kiểm những việc làm và cơ hội tôt hơn. Thất nghiệp không tự nguyện: là khi người lao động muốn tìm kiếm việc làm ở mức lương hiện tại mà không tìm được. 1.1.3 Cơ sở lý luận nghiên cứu của thất nghiệp ở việt nam: Các hình thức thất nghiệp và xu hướng ở thành phố Hồ Chí Minh. Thất nghiệp, trong kinh tế học, là tình trạng người lao động muốn có việc làm mà không tìm được việc làm (từ Hán-Việt thất: mất mát, nghiệp: việc làm). Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm số người lao động không có việc làm trên tổng số lực lượng lao động xã hội. Số người không có việc làm Tỷ lệ thất nghiệp = 100% x Tổng số lao động xã hội SVTH: Khúc Thị Nhuần - 3 - Thị trường lao động GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn Không có việc làm đồng nghĩa với hạn chế giao tiếp với những người lao động khác, tiêu tốn thời gian vô nghĩa, không có khả năng chi trả, mua sắm vật dụng thiết yếu cũng như các hàng hóa tiêu dùng. Yếu tố sau là vô cùng trầm trọng cho người gánh vác nghĩa vụ gia đình, nợ nần, chi trả chữa bệnh. Những nghiên cứu cụ thể chỉ ra rằng, gia tăng thất nghiệp đi liền với gia tăng tỷ lệ tội phạm, tỷ lệ tự tử, và suy giảm chất lượng sức khỏe.. Theo một số quan điểm, rằng người lao động nhiều khi phải chọn công việc thu nhập thấp (trong khi tìm công việc phù hợp) bởi các lợi ích của bảo hiểm xã hội chỉ cung cấp cho những ai có quá trình làm việc trước đó. Về phía người sử dụng lao động thì sử dụng tình trạng thất nghiệp để gây sức ép với những người làm công cho mình (như không cải thiện môi trường làm việc, áp đặt năng suất cao, trả lương thấp, hạn chế cơ hội thăng tiến, v.v..). Những thiệt thòi khi mất việc dẫn đến trầm uất, suy yếu ảnh hưởng của công đoàn, công nhân lao động vất vả hơn, chấp nhận thù lao ít ỏi hơn và sau cùng là chủ nghĩa bảo hộ việc làm. Chủ nghĩa này đặt ra những rào cản với người muốn gia nhập công việc, hạn chế di dân, và hạn chế cạnh tranh quốc tế. Cuối cùng, tình trạng thất nghiệp sẽ khiến cán cân đàm phán điều kiện lao động nghiêng về giới chủ, tăng chi phí khi rời công việc và giảm các lợi ích của việc tìm cơ hội thu nhập khác. Cái giá khác của thất nghiệp còn là khi thiếu các nguồn tài chính và phúc lợi xã hội, cá nhân buộc phải làm những công việc không phù hợp với trình độ, năng lực. Như vậy thất nghiệp gây ra tình trạng làm việc dưới khả năng. Với ý nghĩa này, thì trợ cấp thất nghiệp là cần thiết. Nếu xét trên tổng thể nền kinh tế quốc dân, tỷ lệ thất nghiệp cao đồng nghĩa với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thấp – các nguồn lực con người không được sử dụng, bỏ phí cơ hội sản xuất thêm sản phẩm và dịch vụ. Thất nghiệp còn có nghĩa là sản xuất ít hơn. Giảm tính hiệu quả của sản xuất theo quy mô. Thất nghiệp dẫn đến nhu cầu xã hội giảm. Hàng hóa và dịch vụ không có người tiêu dùng, cơ hội kinh doanh ít ỏi, chất lượng sản phẩm và giá cả tụt giảm. Hơn nữa, tình trạng thất nghiệp cao đưa đến nhu cầu tiêu dùng ít đi so với khi nhiều việc làm, do đó SVTH: Khúc Thị Nhuần - 4 - Thị trường lao động GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn mà cơ hội đầu tư cũng ít hơn. Tình trạng thất nghiệp gia tăng tương quan với áp lực giảm lạm phát. Điều này được minh họa bằng đường cong Phillips trong kinh tế học. Một tỷ lệ thất nghiệp vừa phải sẽ giúp cả người lao động và chủ sử dụng lao động. Người lao động có thể tìm những cơ hội việc khác phù hợp với khả năng, mong muốn và điều kiện cư trú. Về phía giới chủ, tình trạng thất nghiệp giúp họ tìm được người lao động phù hợp, tăng sự trung thành của người lao động. Do đó, ở một chừng mực nào đó, thất nghiệp đưa đến tăng năng suất lao động và tăng lợi nhuận. Các học thuyết kinh tế học giải thích thất nghiệp theo các cách khác nhau. Kinh tế học Keynes nhấn mạnh rằng nhu cầu yếu sẽ dẫn đến cắt giảm sản xuất và sa thải công nhân (thất nghiệp chu kỳ). Một số khác chỉ rằng các vấn đề về cơ cấu ảnh hưởng thị trường lao động (thất nghiệp cơ cấu). Kinh tế học cổ điển và tân cổ điển có xu hướng lý giải áp lực thị trường đến từ bên ngoài, như mức lương tối thiểu, thuế, các quy định hạn chế thuê mướn người lao động (thất nghiệp thông thường). Có ý kiến lại cho rằng thất nghiệp chủ yếu là sự lựa chọn tự nguyện. Chủ nghĩa Mác giải thích theo hướng thất nghiệp là thực tế giúp duy trì lợi nhuận doanh nghiệp và chủ nghĩa tư bản. Các quan điểm khác nhau có thể đúng theo những cách khác nhau, góp phần đưa ra cái nhìn toàn diện về tình trạng thất nghiệp. Riêng ở Việt nam, thất nghiệp cũng làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội do “nhàn cư vi bất thiện”, trở thành vấn đề nhức nhối. Và trong hoàn cảnh nền kinh tế nước ta bị suy thoái do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới thì thất nghiệp lại càng cần được quan tâm hơn nữa. Tại TP. Hồ Chí Minh từ đầu năm 2011 có hơn 37.000 người thất nghiệp xin hương trợ cấp, bình quân mỗi tháng có hơn 9.000 người thất nghiệp, riêng tháng 4- 2011 đã có 13.923 người thất nghiệp. Thất nghiệp trở thành mối quan tâm nóng bỏng toàn cầu, vượt xa mọi vấn đề lo lắng thông thường khác, kể cả cái đói nghèo, nhất là khi khủng hoảng kinh tế, tài chính gõ cửa đến từng hộ gia đình. SVTH: Khúc Thị Nhuần - 5 - Thị trường lao động GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn Chương 2: THỰC TRẠNG 2.1 Phân tích và đánh giá chung thực trạng thất nghiệp Bỏ qua bất bình đẳng xã hội, tội phạm hay bạo lực, giờ đây, nỗi sợ hãi kinh hoàng nhất đang hoành hành trên toàn thế giới lại chính là vấn đề không thể kiếm được việc làm và hiện tượng thất nghiệp ngày càng tăng. Thất nghiệp trở thành mối quan tâm nóng bỏng toàn cầu, vượt xa mọi vấn đề lo lắng thông thường khác, kể cả cái đói nghèo, nhất là khi khủng hoảng kinh tế, tài chính gõ cửa đến từng hộ gia đình. v Năm 2008: Dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ giảm sút; tiêu thụ sản phẩm chậm, hàng hóa ứ đọng, kể cả các vật tư quan trọng, lương thực và nhiều nông sản xuất khẩu có khối lượng lớn; số người mất việc làm năm 2008 khoảng 667.000 người, 3.000 lao động từ nước ngoài phải về nước trước thời hạn. Theo Bộ Lao Động, tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam vào khoảng 4,65%. Tức là khoảng hơn 2 triệu lao động không có việc làm. Danh sách các doanh nghiệp giải thể, tạm ngưng hoạt động, thu hẹp sản xuất ngày càng dài thêm trong các báo cáo của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội TPHCM. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu và làn sóng thất nghiệp đã lan đến Việt Nam - khi hàng ngàn lao động ở các thành phố đã bị mất việc làm trong những tháng cuối năm này... Trong thông báo gửi Sở Lao động - Thương binh và Xã hội TPHCM, Công ty TNHH Sambu Vina Sport cho biết sẽ giảm 224 lao động kể từ ngày 11-1-2009. Trước đó, nhiều doanh nghiệp cũng đã thông báo về việc cắt giảm lao động như Công ty Sony Việt Nam, Công ty liên doanh RSC, Công ty TNHH Castrol BP Petco, Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Dai-Ichi Việt Nam, Công ty TNHH tư vấn thiết kế Liên hiệp Quốc tế... với tổng số lao động bị mất việc trên 1.000 người. Hàng ngàn lao động mất việc cuối năm 2008. Hàng vạn người bị nợ lương, không có tiền thưởng. Nhiều người có cũng như không, vì tiền thưởng cho một năm lao động cật lực không đủ ăn bát phở. SVTH: Khúc Thị Nhuần - 6 - Thị trường lao động GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn Thất nghiệp, bản thân người thất nghiệp không có thu nhập, ảnh hưởng đến đời sống bản thân, gia đình họ. Doanh nghiệp cũng khổ vì cho nhân viên nghỉ thì thương, vương thì tội. Mà cho nghỉ thì cũng phải trả các trợ cấp thôi việc, mất việc. Trong lúc khó khăn thì những khoản này cũng đâu có nhỏ. Ngân sách nhà nước cũng bị ảnh hưởng vì không thu được thuế thu nhập cá nhân, lại còn phải trả các trợ cấp thất nghiệp, phải đầu tư cho các giải pháp nhằm giảm thất nghiệp . Khi nạ̣n thất nghiệp tràn lan thì tệ nạn xã hội: trộm cắp, cướp giật, ma túy, mại dâm, rượu, cờ bạc, . cũng tăng theo. Một bộ phận rất lớn người lao động trong các khu công nghiệp là người từ các tỉnh nông nghiệp. Họ đi lên thành thị làm công nhân vì ở quê không có việc làm hoặc làm không đủ sống. Nhà máy ngừng sản xuất, phải đóng cửa hoặc giảm bớt lao động nên họ phải trở về. Nợ cũ chưa trả hết lại chồng thêm nợ mới. Họ đi kiện công ty đưa mình đi xuất khẩu lao động, nhưng xét cho cùng cũng chẳng phải lỗi của ai. Người thất nghiệp kéo từ thành phố về nhà, cái nghèo ở quê đã quá đủ, nay gánh nặng thêm vì số lao động thất nghiệp tăng lên. Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm của lực lượng lao động trong độ tuổi năm 2008 phân theo vùng (Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam: Tỷ lệ thiếu việc làm Tỷ lệ thất nghiệp (%) (%) Vùng Thành Nông Thành Nông Chung Chung thị thôn thị thôn CẢ NƯỚC 2,38 4,65 1,53 5,10 2,34 6,10 Đồng bằng sông Hồng 2,29 5,35 1,29 6,85 2,13 8,23 Trung du và miền núi phía Bắc 1,13 4,17 0,61 2,55 2,47 2,56 Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung 2,24 4,77 1,53 5,71 3,38 6,34 Tây Nguyên 1,42 2,51 1,00 5,12 3,72 5,65 Đông Nam Bộ 3,74 4,89 2,05 2,13 1,03 3,69 Đồng bằng sông Cửu Long 2,71 4,12 2,35 6,39 3,59 7,11 Số người không có việc làm tại nông thôn và thành thị hiện cao hơn con số này. SVTH: Khúc Thị Nhuần - 7 - Thị trường lao động GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn Theo Tổng cục Thống kê (TCTK), chỉ tiêu tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta những năm gần đây chỉ được tính cho khu vực thành thị, với những người trong độ tuổi 15-60 với nam và 15-55 với nữ. Tuy nhiên, để đánh giá về tình hình lao động, còn một chỉ tiêu khác là tỷ lệ lao động thiếu việc làm. Đây là chỉ tiêu quan trọng được tính cho cả lao động ở khu vực nông thôn và thành thị, nhưng từ trước đến nay chưa công bố. Ở Việt Nam, tỷ lệ lao động thiếu việc làm thường cao hơn tỷ lệ thất nghiệp; trong đó tỷ lệ thiếu việc làm nông thôn thường cao hơn thành thị. Với cách hiểu như vậy, tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam hiện là 4,65%, tăng 0,01% so với năm 2007. Trong khi đó, tỷ lệ lao động thiếu việc làm hiện là 5,1%, tăng 0,2% so với năm 2007. Đáng chú ý, tỷ lệ thiếu việc làm nông thôn tới 6,1%, trong khi tỷ lệ này ở khu vực thành thị là 2,3%. 5 năm lại đây, tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm có xu hướng giảm 0,1-0,2%/năm. Nhưng do ảnh hưởng của biến động kinh tế thế giới, từ năm 2007 đến nay, tỷ lệ này đang tăng dần. Việt Nam đang tích cực triển khai các giải pháp để giảm tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm về đúng quỹ đạo giảm như các năm trước. Theo dự báo của TCTK, tỷ lệ thiếu việc làm năm 2009 sẽ tăng lên 5,4% (2008: 5,1% ); trong đó, khu vực nông thôn khoảng 6,4%. Khảo sát cho thấy người lao động nhập cư đang đối mặt với tình trạng giảm thu nhập, nhiều người lao động nhập cư tại các làng nghề và khu công nghiệp được khảo sát đang quay lại quê nhà. Họ và làng quê họ, nơi đã từng hưởng lợi từ tiền gửi về do làm thuê, đang gánh chịu nhiều nhất những tác động trước mắt của khủng hoảng kinh tế. Xu thế và hướng đi của lao động di cư trong nước và mối liên kết nông thôn - thành thị là những chỉ số quan trọng cần được sử dụng để tiếp tục theo dõi tác động xã hội của khủng hoảng kinh tế trong thời gian tới. Người lao động được phỏng vấn cho biết, nếu trong năm 2007 họ có thể có việc làm 20 ngày/tháng thì đến cuối 2008, họ chỉ có việc làm khoảng 10 ngày/tháng, trong đó số ngày làm các công việc xây dựng giảm khoảng 70%, các công việc khác như khuân vác, chuyển đồ, thu dọn vệ sinh giảm khoảng 30%. Tiền tiết kiệm hàng tháng trung bình giảm mạnh và hầu như không có SVTH: Khúc Thị Nhuần - 8 - Thị trường lao động GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn Tăng trưởng GDP Việt Nam giảm từ 8,5% năm 2007 xuống còn 6,23% năm 2008. Theo các chuyên gia kinh tế, về lý thuyết, GDP giảm 2 điểm phần trăm thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng 1%. Theo thống kê của Bộ LĐ-TB-XH, hết năm 2008, cả nước mới có gần 30.000 lao động tại khối DN bị mất việc vì nguyên nhân kinh tế suy giảm. Bộ này đưa ra ước tính số lao động bị mất việc vì nguyên nhân trên trong năm 2009 sẽ vào khoảng 150.000 người. Còn theo cách tính của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), cứ 1% tăng trưởng GDP sẽ có thêm 0,33 - 0,34% lao động có việc làm. Như vậy, với VN, nếu GDP giảm khoảng 2% trong năm 2008 tương ứng sẽ có 0,65% việc làm bị mất. 0,65% tương đương với số lượng khoảng 300 nghìn người. Tiến sĩ Nguyễn Thị Lan Hương,thuộcViện khoa học lao động và xã hội khẳng định, năm 2008 tổng việc làm mới được tạo ra chỉ là 800.000 so với khoảng 1,3 triệu việc làm mới được tạo ra trong năm 2007. Nhiều ngành sử dụng nhiều lao động có tốc độ tăng việc làm cao bị ảnh hưởng rõ rệt từ cuộc khủng hoảng kinh tế. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa là nơi tạo ra khoảng 50% việc làm trong hệ thống doanh nghiệp nói chung, mỗi năm tăng thêm khoảng 500.000 lao động. Tuy nhiên, thời gian qua, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, phải cắt giảm nhân sự. Xuất khẩu lao động gặp khó khăn Theo Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, năm 2008, cả nước giải quyết việc làm cho 1,35 triệu lao động, trong đó thông qua các chương trình kinh tế xã hội là 1,1 triệu, xuất khẩu lao động 85.000. 4 thị trường xuất khẩu lao động trọng điểm của Việt Nam là: Đài Loan (33.000), Hàn Quốc (16.000), Malaysia (7.800) và Nhật Bản (5.800).Malaysia là thị trường tiếp nhận nhiều lao động Việt Nam nhất. Trong các năm 2005-2007, mỗi năm quốc gia này tiếp nhận khoảng 30.000 lao động Việt Nam. Năm 2008, do lo ngại nhiều rủi ro cũng như khan hiếm nguồn lao động, số người Việt sang Malaysia giảm hẳn, chưa tới 10.000. Người lao động ở nông thôn đi xuất khẩu lao động rất đông, nhiều người vay mượn tiền để làm thủ tục đi xuất khẩu lao động, không may gặp những SVTH: Khúc Thị Nhuần - 9 - Thị trường lao động GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn nước bị ảnh hưởng suy thoái kinh tế trầm trọng, cũng đành tay trắng về nước. Theo báo cáo tại Hội nghị việc làm và xuất khẩu lao động (XKLĐ) năm 2008, mục tiêu trong 2 năm 2009-2010 là giải quyết việc làm trong nước cho 3 đến 3,2 triệu lao động, duy trì tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị ở mức dưới 5%, giảm tỷ lệ lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp xuống dưới 50% năm 2010. Đến năm 2010, bình quân mỗi năm đưa được 100 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài, trong đó 60% lao động qua đào tạo nghề, có 5 đến 10% lao động ở các huyện có tỷ lệ nghèo cao. v Năm 2009: Viện Khoa học lao động và xã hội vừa công bố kết quả từ công trình nghiên cứu “Khủng hoảng kinh tế và thị trường lao động Việt Nam”. Ở đó, tiến sĩ Nguyễn Thị Lan Hương, viện trưởng đã công bố: nếu tăng trưởng kinh tế trong năm nay đạt từ 5 – 6%, thì số lao động bị mất việc do khủng hoảng kinh tế là 494.000 người. Thậm chí số người mất việc sẽ tăng lên khoảng 742.000 người vào năm 2010 nếu nền kinh tế vẫn chưa thể phục hồi. Điều cần lưu ý, đây là số việc làm bị giảm đi so với khả năng tạo việc làm mới của nền kinh tế do tác động của khủng hoảng tài chính, nghĩa là chừng đó người rơi vào thất nghiệp hoàn toàn. Các thể chế tài chính quốc tế, trong đó có Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, và Ngân hàng thế giới dự đoán tăng trưởng của Việt Nam trong năm nay dao động trong khoảng 4,5% cho đến 5,5 %. Có một thực tế là từ cuối năm 2008 đến nay, nhiều doanh nghiệp trong các khu công nghiệp đã cắt giảm lao động do suy giảm kinh tế. Tuy nhiên, không thể nói rằng tất cả những lao động này bị thất nghiệp vì phần lớn những người này đã trở về quê và tìm kiếm một công việc mới (có thể là công việc không phù hợp) nhưng vẫn cho thu nhập, dù có thể là thu nhập thấp. Chính vì vậy, cần hết sức thận trọng khi nói về tình trạng thất nghiệp hiện nay. Khi suy thoái kinh tế đã kết thúc, thì tiến trình hồi phục thường phải kéo dài trong rất nhiều năm. Do vậy, ngay trong khủng hoảng, thì việc đánh giá SVTH: Khúc Thị Nhuần - 10 -
File đính kèm:
de_tai_that_nghiep_o_viet_nam_cac_hinh_thuc_that_nghiep_va_x.doc