Đề tài Nghiên cứu đánh giá bộ tiêu chuẩn ISO 9000 và 1 phần nhỏ bộ tiêu chuẩn ISO 14000 được áp dụng ở Việt Nam có những mặc tích cực cũng như những thiếu xót cần phải khắc phục
Với việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đặc biệt là sân chơi WTO, sự phát triển mạnh mẽ của các nền kinh tế trong khu vực và trên trên thế giới. Đất nước ta dần dần đổi mới sau chiến tranh và hiện nay đang có những bước tiến quan trọng trong các lĩnh vực về văn hóa kinh tế, xã hội đặc biệt là trong sản xuất kinh doanh. Việc cạnh tranh và phát triển là nhu cầu tất yếu của các doanh nghiệp nhà nước lẫn tư nhân. Vì thế việc các doanh nghiệp cần có những chính sách hợp lý cũng như xây dựng được những đội ngũ nhân viên lành nghề trình độ kỹ thuật và áp dụng các công nghệ vào sản xuất là điều thiết yếu. Giúp được doanh nghiệp có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh khốc liệt không những trong nước mà còn vươn ra tầm thế giới.
Chính vì thế việc tìm kiếm lợi nhuận và thu hút được vốn – nhân tài chính là mục tiêu hàng đầu và cũng là mối quan tâm tất yếu của các doanh nghiệp trong thời buổi kinh tế ngày càng cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Do việc chạy theo lợi nhuận được đặt lên hàng đầu mà một số doanh nghiệp đã bất chấp chất lượng sản phẩm, làm ra những sản phẩm kém chất lượng, lỗi và gây ảnh hưởng lớn cho người tiêu dùng. Đồng thời rất nhiều doanh nghiệp cũng không hề quan tâm đến việc sử lý chất thải độc hại mà thải trực tiếp ra môi trường gây ảnh hưởng đến đời sống dân cư ở các con sông, cũng như các ao hồ. Các vụ việc tiêu biểu như công ty Vedan xả nước thải trực tiếp xuống sông thuộc tỉnh Đồng Nai, hoặc việc công ty AC Food bị lực lượng chức năng phát hiện hơn 3600 hộp sữa kém chất lượng tại địa bàn thành phố Cần Thơ…. Qua những vụ việc trên làm dấy lên hồi chuông báo động về chất lượng sản phẩm cũng như trách nhiệm của các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. Và câu hỏi được đặt ra ở đây là các doanh nghiệp ngoài việc đặt lợi ích cá nhân vì mục tiêu làm giàu còn phải quan tâm đến trách nhiệm của doanh nghiệp đối với xã hội và con người. Vậy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở đây là gì?
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề tài Nghiên cứu đánh giá bộ tiêu chuẩn ISO 9000 và 1 phần nhỏ bộ tiêu chuẩn ISO 14000 được áp dụng ở Việt Nam có những mặc tích cực cũng như những thiếu xót cần phải khắc phục

LỜI MỞ ĐẦU 1/ Lý do chọn đề tài: Với việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đặc biệt là sân chơi WTO, sự phát triển mạnh mẽ của các nền kinh tế trong khu vực và trên trên thế giới. Đất nước ta dần dần đổi mới sau chiến tranh và hiện nay đang có những bước tiến quan trọng trong các lĩnh vực về văn hóa kinh tế, xã hội đặc biệt là trong sản xuất kinh doanh. Việc cạnh tranh và phát triển là nhu cầu tất yếu của các doanh nghiệp nhà nước lẫn tư nhân. Vì thế việc các doanh nghiệp cần có những chính sách hợp lý cũng như xây dựng được những đội ngũ nhân viên lành nghề trình độ kỹ thuật và áp dụng các công nghệ vào sản xuất là điều thiết yếu. Giúp được doanh nghiệp có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh khốc liệt không những trong nước mà còn vươn ra tầm thế giới. Chính vì thế việc tìm kiếm lợi nhuận và thu hút được vốn – nhân tài chính là mục tiêu hàng đầu và cũng là mối quan tâm tất yếu của các doanh nghiệp trong thời buổi kinh tế ngày càng cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Do việc chạy theo lợi nhuận được đặt lên hàng đầu mà một số doanh nghiệp đã bất chấp chất lượng sản phẩm, làm ra những sản phẩm kém chất lượng, lỗi và gây ảnh hưởng lớn cho người tiêu dùng. Đồng thời rất nhiều doanh nghiệp cũng không hề quan tâm đến việc sử lý chất thải độc hại mà thải trực tiếp ra môi trường gây ảnh hưởng đến đời sống dân cư ở các con sông, cũng như các ao hồ. Các vụ việc tiêu biểu như công ty Vedan xả nước thải trực tiếp xuống sông thuộc tỉnh Đồng Nai, hoặc việc công ty AC Food bị lực lượng chức năng phát hiện hơn 3600 hộp sữa kém chất lượng tại địa bàn thành phố Cần Thơ . Qua những vụ việc trên làm dấy lên hồi chuông báo động về chất lượng sản phẩm cũng như trách nhiệm của các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. Và câu hỏi được đặt ra ở đây là các doanh nghiệp ngoài việc đặt lợi ích cá nhân vì mục tiêu làm giàu còn phải quan tâm đến trách nhiệm của doanh nghiệp đối với xã hội và con người. Vậy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở đây là gì ? Trong một bài báo viết cho tờ New York Times tháng 9/1970, Milton Friedman nêu rõ: “Doanh nghiệp chỉ có một trách nhiệm duy nhất là tối đa hóa lợi nhuận, gia tăng giá trị cổ đông, trong khuôn khổ luật chơi của thị truờng là cạnh tranh trung thực và công bằng.” Theo ông, nguời quản lý doanh nghiệp (thành viên hội dồng quản trị và ban giám đốc) là những nguời dại diện cho chủ sở hữu/ cổ dông đứng ra quản lý công ty. Họ được bầu hoặc đuợc thuê để dẫn dắt công ty theo cách mà các cổ đông muốn, đa phần là làm ra lợi nhuận càng nhiều càng tốt, dồng thời tuân thủ các quy tắc xã hội cơ bản vốn đã được thể hiện trong luật và các nguyên tắc đạo đức phổ biến. Ðó chính là bản chất vì- lợi nhuận (for-profit) của doanh nghiệp và nguời quản lý doanh nghiệp chỉ có trách nhiệm đối với cổ đông là người chủ sở hữu công ty đã lựa chọn họ để làm đại diện. Do đó, nếu nguời quản lý công ty muốn, anh ta có toàn quyền để thực hiện các trách nhiệm xã hội dựa trên nhận thức và tình cảm của riêng mình và bằng thời gian và tiền bạc của cá nhân, nhưng không được sử dụng nguồn lực của công ty và nhân danh công ty, nếu không được cổ đông ủy thác để làm việc đó. Thứ hai, công ty vốn là một chủ thể “vô tri vô giác” do con người tạo ra; do đó công ty không thể tự nhận thức và gánh vác nghĩa vụ đạo đức vốn chỉ có con nguời mới có. Bởi vì chỉ có từng cá nhân con nguời mới có lương tâm để nhận thức sự việc đúng- sai. Hơn nữa, các trách nhiệm xã hội thuộc lĩnh vực của nhà nuớc, là chủ thể cung cấp các dịch vụ công, vì lợi ích công cộng và phi lợi nhuận. Chỉ có nhà nuớc mới có đủ thông tin để quyết định đúng đắn trong việc phân bổ các nguồn lực một cách hiệu quả. Và cấu trúc tam quyền phân lập đã đảm bảo sự phân bổ đó được công bằng và có kiểm soát. Trách nhiệm của doanh nghiệp là tạo ra giá trị gia tăng, phát triển công nghệ (bởi vì doanh nghiệp là chủ thể vì- lợi nhuận duy nhất trong xã hội), đem lại lợi nhuận, tạo ra việc làm và thu nhập cho nguời lao động. Trách nhiệm chính của doanh nghiệp đối với nhà nước là đóng góp thuế. Và trách nhiệm của nhà nuớc là làm sao sử dụng tiền thuế đó hiệu quả nhất vì lợi ích công cộng. Như vậy, nếu doanh nghiệp cùng thực hiện các trách nhiệm xã hội thì sẽ có sự trùng lặp và doanh nghiệp sẽ trở thành người vừa đóng thuế, vừa quyết dịnh việc chi tiêu khoản thuế đó ra sao. Người quản lý doanh nghiệp khi ấy sẽ trở thành một nhân viên công vụ hơn là một người đại diện cho lợi ích của cổ đông. Mặt khác, kể cả khi một nguời quản lý doanh nghiệp đuợc sử dụng nguồn lực của công ty để thực hiện trách nhiệm xã hội dựa trên phán đoán chủ quan của mình, thì không có gì đảm bảo rằng quyết dịnh của anh ta là sáng suốt và đúng đắn cho mục tiêu xã hội cuối cùng, vì anh ta không phải là một chuyên gia về xã hội, mà là một chuyên gia về quản lý và kinh doanh và đó là lý do anh ta được cổ đông cử làm đại diện và gửi gắm niềm tin trong việc quản lý doanh nghiệp. Do đó, nếu muốn thực hiện trách nhiệm xã hội, các cổ dông có thể làm với tư cách cá nhân, tự nguyện và tách biệt với công ty (vốn có sở hữu của cả các cổ đông khác) mà không nên thông qua công ty và những người quản lý công ty. Từ quan điểm này, truờng phái phản đối CSR cho rằng các chuong trình của doanh nghiệp lấy tên “trách nhiệm xã hội” chỉ là những chuong trình PR đạo đức giả, mà thực chất mục tiêu cuối cùng vẫn là vì- lợi nhuận của doanh nghiệp mà thôi. Những nguời ủng hộ CSR không bác bỏ toàn bộ những lập luận trên. Nhưng họ đưa ra một lập luận khác cũng hết sức thuyết phục là bản thân công ty khi đi vào hoạt động đã là một chủ thể của xã hội, sử dụng nguồn lực của xã hội và môi truờng, do dó có thể tác động tiêu cực tới xã hội và môi truờng. Vì vậy, doanh nghiệp phải có ý thức về những tác động từ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và có trách nhiệm với chính hành vi của mình trước xã hội. Henry Mintzberg đã lấy ví dụ công ty Dow Chemicals quyết định bán chất Napalm cho quân đội Mỹ dể sử dụng trong chiến tranh Việt Nam, để lại hậu quả nặng nề cho hàng triệu nạn nhân chất dộc da cam [5]. Có thể nói bản chất của doanh nghiệp không thể chỉ vì- lợi nhuận mà doanh nghiệp ngay từ đầu đã đóng vai trò của một “công dân” trong xã hội với tất cả nghĩa vụ và quyền lợi thích hợp của mình trong đó. Chính khái niệm “công dân doanh nghiệp” (corporate citizenship) đã ra đời trong trào lưu CSR này. Thực vậy, nếu chỉ nhìn nhận đơn giản khi cho rằng doanh nghiệp hoạt động duy nhất vì- lợi nhuận và bù dắp lại chi phí xã hội, cung nhu “trả tiền” cho các dịch vụ công mà doanh nghiệp huởng lợi thông qua việc đóng thuế, chúng ta sẽ thấy những ô nhiễm môi truờng và chi phí xã hội mà doanh nghiệp gây ra có thể lớn hơn rất nhiều lần lợi ích mà công ty này mang lại từ tiền thuế hay tạo việc làm (như truờng hợp công ty Vedan). Doanh nghiệp không thể kêu gọi sự “trung tính” của mình. Tất cả sự kiện của doanh nghiệp như khai trương dòng sản phẩm mới, đặt một nhà máy, đóng cửa một chi nhánh . đều kéo theo những hệ quả xã hội nhất dịnh. Do đó, không thể tách rời hoàn toàn giữa tính chất kinh tế và xã hội khi nhìn nhận bản chất và hoạt động của doanh nghiệp. Và nguời quản lý với tư cách là người thác quản doanh nghiệp cần thực hiện các trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp vì nghĩa vụ và lợi ích của chính doanh nghiệp mình. Trách nhiệm của họ không phải là việc quyết định điều gì tốt hay xấu cho xã hội, mà là đáp ứng những điều mà xã hội mong muốn và trông đợi ở doanh nghiệp như một thành viên đầy đủ trong đó. CSR chính là lực cản cuối cùng giúp giữ doanh nghiệp không đi quá đà vì lợi ích kinh tế mà vi phạm các chuẩn mực đạo đức (vốn không phải lúc nào cũng được thể hiện đầy đủ bằng các quy định pháp luật), bỏ quên những tác động tiêu cực của mình đến các thành phần khác trong xã hội. Doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội còn vì lợi ích tăng trưởng và phát triển bền vững của chính mình. Ðiều tra của Bowman & Haire từ năm 1973 đã cho thấy nhóm các công ty cam kết với CSR có tỷ lệ lợi nhuận trên vốn (ROE) cao hơn các công ty khác (14.7% so với 10.2%). Khác với mô hình công ty gia đình trước kia, doanh nghiệp hiện đại thường là các công ty cổ phần đại chúng, hoạt động đa ngành nghề, đa quốc gia. Do đó, ngày nay doanh nghiệp không chỉ hoạt động trong môi trường đơn nhất được giám sát bởi các cơ chế thị trường thuần túy kinh tế (giá cả, cạnh tranh, thị truờng chứng khoán), mà còn chịu tác dộng của các cơ chế xã hội- chính trị- môi trường. Ðáng chú ý, hai hệ thống này có sự tác động qua lại với nhau. Thực tế cho thấy nguời tiêu dùng và nhà đầu tư ngày càng tính đến các tiêu chí thành tích của công ty về đạo đức, lao động, môi trường, xã hội trong các quyết định tiêu dùng hay đầu tư của mình. Hơn thế nữa, không chỉ liên quan đến tính cạnh tranh, CSR còn liên quan trực tiếp đến tính bền vững của công ty. Những vụ đổ vỡ của tập đoàn Enron, công ty kiểm toán Arthur Anderson, hoặc ngay vụ các cây xăng gian lận bị rút giấy phép là những minh chứng rõ nét nhất cho thấy rằng thiếu CSR, doanh nghiệp sẽ tự loại mình ra khỏi thị trường và cộng đồng doanh nghiệp. CSR đã trở thành một phong trào thực thụ và trưởng thành, phát triển rộng khắp thế giới. Nếu chúng ta tra cứu các cụm từ có gốc “trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp” bằng tiếng Anh trên Google, chúng ta sẽ thấy có hơn 70 triệu lượt tìm kiếm (chưa kể các cụm từ về CSR ở từng nước cụ thể). Hàng vạn bài báo, nghiên cứu, sách, tạp chí, diễn đàn, trang web của các tổ chức NGOs, giới khoa học, doanh nghiệp, tư vấn, báo chí và chính phủ bàn về chủ đề CSR. Nguời tiêu dùng tại các nước Âu-Mỹ hiện nay không chỉ quan tâm đến chất lượng sản phẩm mà còn coi trọng cách thức các công ty làm ra sản phẩm đó, có thân thiện với môi trường sinh thái, cộng đồng, nhân đạo, và lành mạnh. Nhiều phong trào bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và môi trường phát triển rất mạnh, chẳng hạn như phong trào tẩy chay thực phẩm gây béo phì (fringe foods) nhằm vào các công ty sản xuất đồ ăn nhanh, nước giải khát có ga; phong trào thương mại công bằng FairTrade (bảo đảm điều kiện lao động và giá mua nguyên liệu của nguời sản xuất ở các nước thế giới thứ 3), phong trào tẩy chay sản phẩm sử dụng lông thú, tẩy chay sản phẩm bóc lột lao động trẻ em (nhằm vào công ty Nike, Gap), phong trào tiêu dùng theo lương tâm (shopping with a conscience) Truớc áp lực từ xã hội, hầu hết các công ty lớn đã chủ động đưa CSR vào chương trình hoạt động của mình một cách nghiêm túc. Hàng nghìn chương trình đã được thực hiện như tiết kiệm năng lượng, giảm khí thải carbon, sử dụng vật liệu tái sinh, năng luợng mặt trời, cải thiện nguồn nước sinh hoạt, xóa mù chữ, xây dựng trường học, cứu trợ, ủng hộ nạn nhân thiên tai, thành lập quỹ và trung tâm nghiên cứu vắc-xin phòng chống Aids và các bệnh dịch khác ở các nước nhiệt đới, đang phát triển. Có thể kể đến một số tên tuổi đi đầu trong các hoạt động này nhu TNT, Google, Intel, Unilever, CocaCola, GE, Nokia, HSBC, Levi Strauss, GlaxoSmithKline, Bayer, DuPont, Toyota, Sony, UTC, Samsung, Gap, BP, ExxonMobil . . Theo tổ chức Giving USA Foundation, số tiền các doanh nghiệp đóng góp cho các hoạt động xã hội trên toàn thế giới lên đến 13,77 tỷ USD (năm 2005) và gần 1.000 công ty được đánh giá là “công dân doanh nghiệp tốt”. Nổi bật là trường hợp ngân hàng Grameen do TS. Muhammad Yunus đã cung cấp tín dụng vi mô cho 6,6 triệu người, trong đó 97% là phụ nữ nghèo ở Bangladesh vay tiền để cải thiện cuộc sống (ông đã được trao giải Nobel hòa bình năm 2006). Hiện nay, hầu hết các công ty đa quốc gia đều xây dựng các bộ quy tắc ứng xử (code of conduct) có tính chất chuẩn mực áp dụng đối với nhân viên của mình trên toàn thế giới. Lợi ích đạt được qua những cam kết CSR đã được ghi nhận. Không những hình ảnh công ty được cải thiện trong mắt công chúng và người dân địa phương giúp công ty tăng doanh số bán hàng hay thực hiện các thủ tục đầu tư được thuận lợi hơn, mà ngay trong nội bộ công ty, sự hài lòng và gắn bó của nhân viên với công ty cũng tăng lên, cũng như các chương trình tiết kiệm năng lượng giúp giảm chi phí hoạt động cho công ty không nhỏ. Có thể nói CSR đã có chỗ đứng khá vững chắc trong nhận thức của giới doanh nghiệp. Một số trung tâm, viện nghiên cứu về trách nhiệm doanh nghiệp đã được các trường đại học ở Mỹ thành lập. 78% sinh viên ngành quản trị doanh nghiệp cho rằng chủ đề CSR nên được đưa vào các chương trình giảng dạy. Trong cuộc khảo sát của công ty McKinsey năm 2007, 4 84% số quản trị viên cao cấp được hỏi cho rằng việc đóng góp vào các mục tiêu xã hội của cộng đồng cần được tiến hành song song với việc gia tăng giá trị cổ đông, trong khi chỉ có 16% cho rằng lợi nhuận là mục tiêu duy nhất. 51% và 48% ý kiến lần lượt cho rằng môi truờng (trong số 15 vấn đề chính trị- xã hội khác nhau) là vấn dề hàng dầu tập trung sự chú ý của công luận, và có ảnh huởng tiêu cực hoặc tích cực nhất đối với giá trị cổ đông trong năm năm tới. Khi được hỏi về ảnh huởng xấu mà các công ty lớn có thể gây ra cho cộng đồng, 65% trả lời- ô nhiễm môi truờng, 40%- đặt lợi nhuận lên trên sức khỏe con nguời, 30%- gây áp lực chính trị. Về các ảnh huởng tích cực mà doanh nghiệp đem lại thì tạo việc làm được xếp cao nhất (65%), tiến bộ khoa học công nghệ (43%), cung cấp sản phẩm- dịch vụ cho nhu cầu con nguời (41%), nộp thuế (35%). Cũng từ đó các bộ tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm cũng như môi trường đã ra đời nhằm bảo vệ người tiêu dùng cũng như góp phần đảm bảo môi trường sống cho con người.Do đó các bộ tiêu chuẩn về ISO 9000,9001-ISO 14000 đã được rất nhiều doanh nghiệp hiện đã và đang áp dụng cho công ty của mình. Vậy nội dung chính cũng như những yêu cầu chủ yếu của những bộ tiêu chuẩn như ISO 9000 – 14000 là gì? Cách thực hiện nó và áp dụng ở Việt Nam hiện nay có gì khó khăn cũng như thuận lợi phù hợp với luật pháp cũng như những yêu cầu của xã hội Việt Nam hay không. Vì thế em muốn tìm hiểu và đánh giá khách quan về 2 bộ tiêu chuẩn trên như là điển hình được các doanh nghiệp hiện đang áp dụng có hiệu quả ra sao ở Việt Nam. Và cũng là lý do để em chọn đề tài: “ Nghiên cứu đánh giá bộ tiêu chuẩn ISO 9000 và 1 phần nhỏ bộ tiêu chuẩn ISO 14000 được áp dụng ở Việt Nam có những mặc tích cực cũng như những thiếu xót cần phải khắc phục”. Nội dung của chuyên đề này chủ yếu xoáy quanh các vấn đề sau: _ Giới thiệu bộ tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO 14000. _ Phân tích đánh giá việc áp dụng tại Việt Nam _ Những ưu khuyết điểm cần. _ Kết luận – kiến nghị đánh giá thực trạng cũng như các biện pháp khắc phục. 2/ Đối tượng phạm vi tìm hiểu – nghiên cứu: 2.1/ Đối tượng nghiên cứu: Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 – ISO 14000. Các văn bản luật do nhà nước Việt Nam ban hành có liên quan. 2.2/ Phạm vi: Tại Việt Nam trong khoảng thời gian từ đầu tháng 4 đến 12/5/2010. 2.3/ Giới thiệu bộ tiêu chuẩn ISO 9000 và ISO 14000. a/ Bộ tiêu chuẩn ISO 9000. Bộ Tiêu chuẩn ISO 9000 qui tụ kinh nghiệm của Quốc tế trong lĩnh vực quản lý và đảm bảo chất lượng trên cơ sở phân tích các quan hệ giữa người mua và người cung cấp (nhà sản xuất). I. Ý nghĩa của Bộ Tiêu chuẩn Quốc tế ISO 9000 Bộ Tiêu chuẩn ISO 9000 qui tụ kinh nghiệm của Quốc tế trong lĩnh vực quản lý và đảm bảo chất lượng trên cơ sở phân tích các quan hệ giữa người mua và người cung cấp (nhà sản xuất). Đây chính là phương tiện hiệu quả giúp các nhà sản xuất tự xây dựng và áp dụng hệ thống bảo đảm chất lượng ở cơ sở mình, đồng thời cũng là cũng là phương tiện để bên mua có thể căn cứ vào đó tiến hành kiểm tra người sản xuất, kiểm tra sự ổn định của sản xuất và chất lượng trước khi ký hợp đồng. ISO 9000 đa ra các chuẩn mực cho một hệ thống chất lượng và có thể áp dụng rộng rãi trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. ISO 9000 Hướng dẫn các tổ chức cũng như các doanh nghiệp xây dựng một mô hình quản lý thích hợp và văn bản hoá các yếu tố của hệ thống chất lượng theo mô hình đã chọn. II. cấu trúc của Bộ Tiêu chuẩn ISO 9000 Bộ tiêu chuẩn ISO 9000:2000 bao gồm nhiều tiêu chuẩn. Trong đó tiêu chuẩn chính ISO 9001: Hệ thống quản lý chất lượng, các yêu cầu, nêu ra các yêu cầu đối với hệ thống quản lý chất lượng mà doanh nghiệp cần phải đáp ứng. Ngoài ra còn các tiêu chuẩn hỗ trợ và Hướng dẫn thực hiện, bao gồm: ·ISO 9000: thuật ngữ và định nghĩa ·ISO 9004: Hướng dẫn cải tiến hiệu quả ·ISO 19011: Hướng dẫn đánh giá hệ thống quản lý ISO 9001 là tiêu chuẩn chính nêu ra các yêu cầu đối với hệ thống chất lượng và bao quát đầy đủ các yếu tố của hệ thống quản lý chất lượng. Doanh nghiệp khi xây dựng hệ thống theo tiêu chuẩn này cần xác định phạm vi áp dụng tuỳ theo hoạt động thực tế của doanh nghiệp. ISO 9001: 2000 quy định các yêu cầu đối với một hệ thống quản lý chất lượng cho các tổ chức cần chứng tỏ khả năng cung cấp một cách ổn định sản phẩm thoả mãn các yêu cầu của khách hàng. Tiêu chuẩn ISO 9001:2000 đã được sắp xếp lại dới dạng tiện dụng cho người sử dụng với các từ vựng dễ hiểu đối với doanh nghiệp trong tất cả các lĩnh vực. Tiêu chuẩn này dùng cho việc chứng nhận và cho các mục đích cá biệt khác khi tổ chức muốn hệ thống quản lý chất lượng của mình được thừa nhận. Tiêu chuẩn bao gồm 5 phần, quy định các hoạt động cần thiết phải xem xét trong khi triển khai hệ thống chất lượng. 5 phần trong ISO 9001: 2000 quy định những gì một tổ chức phải làm một cách nhất quán để cung cấp các sản phẩm đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và yêu cầu pháp định, chế định được áp dụng. Thêm vào đó, tổ chức phải tìm cách nâng cao sự thoả mãn của khách hàng bằng cách cải tiến hệ thống quản lý của mình. ISO 9004: 2000 được sử dụng nhằm mở rộng hơn những lợi ích đạt được từ ISO 9001: 2000 không những đối với bản thân tổ chức mà còn đối với tất cả các bên liên quan đến hoạt động của tổ chức. Các bên liên quan bao gồm nhân viên, chủ sở hữu, các người cung ứng của tổ chức, và rộng hơn là cả xã hội. ISO 9001: 2000 và ISO 9004 : 2000 đã được xây dựng nh là một cặp thống nhất của bộ tiêu chuẩn để làm thuận tiện hơn trong việc sử dụng. Sử dụng tiêu chuẩn theo cách này sẽ làm chúng ta có thể liên kết nó với các hệ thống quản lý khác (ví dụ như Hệ thống quản lý môi trường), hoặc những yêu cầu cụ thể trong một số lĩnh vực (ví dụ nh: ISO/TS/6949 trong ngành công nghiệp ô tô) và giúp cho việc đạt được sự công nhận thông qua các chương trình chứng nhận quốc gia. Cả ISO 9004: 2000 và ISO 9001: 2000 thống nhất về bố cục và từ vựng nhằm giúp tổ chức chuyển một cách thuận tiện từ ISO 9001: 2000 sang ISO 9004: 2000 và ngợc lại. Cả hai tiêu chuẩn đều sử dụng phương pháp tiếp cận quá trình. Các quá trình được xem như bao gồm một hay nhiều hoạt động có liên kết, có yêu cầu nguồn lực và phải được quản lý để đạt được đầu ra quy định trước. Đầu ra của một quá trình có thể trực tiếp tạo thành đầu vào của một quá trình tiếp theo và sản phẩm cuối cùng thờng là kết quả của một mạng lới hoặc một hệ thống các quá trình. Để cho bộ ISO 9000 duy trì được tính hiệu lực, những tiêu chuẩn này được xem xét định kỳ (khoảng 5 năm một lần) nhằm cập nhật những phát triển mới nhất trong lĩnh vực quản lý chất lượng và thông tin phản hồi từ người sử dụng. Ban kỹ thuật của Tổ chức tiêu chuẩn hoá Quốc tế ISO/TC 176 bao gồm các chuyên gia từ các doanh nghiệp và tổ chức trên toàn thế giới theo dõi việc áp dụng các tiêu chuẩn để xác định những cải tiến cần thiết nhằm thoả mãn những đòi hỏi và mong muốn của người sử dụng và đa vào phiên bản mới. ISO/TC176 sẽ tiếp tục kết hợp các yếu tố đảm bảo chất lượng, quản lý chất lượng, những sáng kiến trong các ngành cụ thể và các chương trình chứng nhận chất lượng khác nhau trong bộ tiêu chuẩn ISO 9000. Cam kết của ISO với việc duy trì động lực ISO 9000 thông qua các xem xét, cải tiến và hợp lý hoá các tiêu chuẩn đảm bảo sự đầu tư của tổ chức vào ISO 9000 hôm nay sẽ tiếp tục mang lại những hiệu quả trong tương lai. III. Các bước áp dụng ISO 9000 Việc áp dụng ISO 9000 đối với một doanh nghiệp sẽ được tiến hành theo 9 bước: Bước 1: Tìm hiểu tiêu chuẩn và xác định phạm vi áp dụng. Bước đầu tiên khi bắt tay vào việc xây dựng và áp dụng hệ thống chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000 là phải thấy được ý nghĩa của nó trong việc duy trì và phát triển tổ chức. Lãnh đạo doanh nghiệp cần định Hướng cho các hoạt động của hệ thống chất lượng, xác định mục tiêu và phạm vi áp dụng để hỗ trợ cho các hoạt động quản lý của mình đem lại lợi ích thiết thực cho tổ chức. Bước 2: Đào tạo cho cán bộ lãnh đạo các thành viên, cần phải phổ biến để nhân viên nhận thức đúng, đủ về ISO 9000 vì sự tham gia tích cực và hiểu biết của mọi thành viên trong công ty đối với ISO 9000 giữ vai trò quyết định. Bước 3: Lập ban chỉ đạo thực hiện dự án ISO 9000:2000. Việc áp dụng ISO 9000 có thể xem như là một dự án lớn, vì vậy các Doanh nghiệp cần tổ chức điều hành dự án sao cho có hiệu quả. Nên có một ban chỉ đạo ISO 9000 tại doanh nghiệp, bao gồm đại diện lãnh đạo và đại diện của các bộ phận nằm trong phạm vi áp dụng ISO 9000. Cần bổ nhiệm đại diện của lãnh đạo về chất lượng để thay lãnh đạo trong việc chỉ đạo áp dụng hệ thống quản lý ISO 9000 và chịu trách nhiệm trước lãnh đạo về các hoạt động chất lượng. Bước 4: Đánh giá thực trạng của doanh nghiệp và so sánh với tiêu chuẩn. Đây là bước thực hiện xem xét kỹ lưỡng thực trạng của doanh nghiệp để đối chiếu với các yêu cầu trong tiêu chuẩn ISO 9000, xác định xem yêu cầu nào không áp dụng, những hoạt động nào tổ chức đã có, mức độ đáp ứng đến đâu và các hoạt động nào chưa có để từ đó xây dựng nên kế hoạch chi tiết để thực hiện. Sau khi đánh giá thực trạng, công ty có thể xác định được những gì cần thay đổi và bổ sung để hệ thống chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn. Bước 5: Thiết kế và lập văn bản hệ thống chất lượng theo ISO 9000. Thực hiện những thay đổi hoặc bổ sung đã xác định trong đánh giá thực trạng để hệ thống chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn ISO 9000. Cần xây dựng và hoàn chỉnh tài liệu theo yêu cầu của tiêu chuẩn, ví dụ: ·Xây dựng sổ tay chất lượng ·Lập thành văn bản tất cả các quá trình và thủ tục liên quan ·Xây dựng các Hướng dẫn công việc, quy chế, quy định cần thiết. Bước 6: áp dụng hệ thống chất lượng theo ISO 9000 Công ty cần áp dụng hệ thống chất lượng đã thiết lập để chứng minh hiệu lực và hiệu quả của hệ thống. Trong bước này cần thực hiện các hoạt động sau: ·Phổ biến cho tất cả mọi cán bộ công nhân viên trong công ty nhận thức về ISO 9000. ·Hướng dẫn cho cán bộ công nhân viên thực hiện theo các quy trình, thủ tục đã được viết ra. ·Phân rõ trách nhiệm ai sử dụng tài liệu nào và thực hiện theo đúng chức năng nhiệm vụ mà thủ tục đã mô tả. ·Tổ chức các cuộc đánh giá nội bộ về sự phù hợp của hệ thống và đề ra các hoạt động khắc phục đối với sự không phù hợp. Bước 7: Đánh giá nội bộ và chuẩn bị cho đánh giá chứng nhận. Việc chuẩn bị cho đánh giá chứng nhận bao gồm các bước sau: ·Đánh giá trước chứng nhận: Đánh giá trước chứng nhận nhằm xác định xem hệ thống chất lượng của công ty đã phù hợp với tiêu chuẩn chưa và có được thực hiện một cách có hiệu quả không, xác định các vấn đề còn tồn tại để khắc phục. Việc đánh giá trước chứng nhận có thể do chính công ty thực hiện hoặc do tổ chức bên ngoài thực hiện. ·Lựa chọn tổ chức chứng nhận: Tổ chức chứng nhận hay đánh giá của bên thứ ba là tổ chức đã được công nhận cho việc thực hiện đánh giá và cấp chứng nhận phù hợp với tiêu chuẩn phù hợp ISO 9000. Về nguyên tắc, mọi chứng chỉ ISO 9000 đều có giá trị nh nhau không phân biệt tổ chức nào tiến hành cấp. Công ty có quyền lựa chọn bất kỳ tổ chức nào để đánh giá và cấp chứng chỉ. Bước 8: Tiến hành đánh giá chứng nhận. Tổ chức chứng nhận đã được công ty lựa chọn tiến hành đánh giá chứng nhận chính thức hệ thống chất lượng của công ty. Bước 9: Duy trì hệ thống chất lượng sau khi chứng nhận. ở giai đoạn này cần tiến hành khắc phục các vấn đề còn tồn tại phát hiện quan đánh giá chứng nhận và tiếp tục thực hiện các hoạt động theo yêu cầu của tiêu chuẩn để duy trì và cải tiến không ngừng hệ thống chất lượng của công ty. b/ Bộ tiêu chuẩn ISO 14000 Giới Thiệu - BỘ TIÊU CHUẨN VỀ HỆ THỐNG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG ISO 14000 ISO 14001 là tiêu chuẩn quốc tế được ban hành bởi Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế, là một trong bộ gồm nhiều tiêu chuẩn có chuỗi số 140XX. ISO 14001 - “Hệ thống quản lý môi trường- Các yêu cầu và hướng dẫn sử dụng” là tiêu chuẩn được công nhận rộng rãi nhất và là tiêu chuẩn duy nhất được sử dụng cho mục đích chứng nhận. Ngoài ISO 14001, bộ tiêu chuẩn ISO 14000 còn bao gồm hơn 20 tiêu chuẩn, hướng dẫn, báo cáo kỹ thuật dùng để đánh giá tổ chức và đánh giá sản phẩm, chúng cũng có thể chia thành các nhóm đối tượng nhỏ hơn như sau: Để được chứng nhận, tổ chức không nhất thiết phải đáp ứng đầy đủ các chỉ tiêu môi trường cụ thể được nêu ra trong tiêu chuẩn ngay tại thời điểm chứng nhận, tuy nhiên họ cần chứng minh rằng đã nhận biết được các khía cạnh môi trường có ý nghĩa và có kế hoạch nhằm đáp ứng được các mục tiêu cải tiến liên tục mà họ đã thiết lập, phải chứng minh đang có các hoạt động cụ thể để đạt được các mục tiêu này. Bởi vì đây là một tiêu chuẩn quản lý nên tổ chức không phải vượt qua một mức độ nào đó về môi trường trước khi được chứng nhận theo ISO 14001. Việc thiết lập HTQLMT có thể giúp cho tổ chức tạo được lòng tin với các bên hữu quan: • Có sự cam kết của lãnh đạo để đáp ứng các điều khoản của chính sách, mục đích và mục tiêu của tổ chức; • Có thể đưa ra chứng cứ về sự quan tâm hợp lý và sự phù hợp với các yêu cầu, luật định; • Thiết kế của hệ thống kết hợp chặt chẽ với quá trình cải tiến liên tục, chú trọng vào phòng ngừa hơn là khắc phục; Những lợi ích tiềm tàng gắn liền với HTQLMT có hiệu quả bao gồm: • Đảm bảo cho khách hàng những cam kết về quản lý môi trường; • Duy trì tốt được những quan hệ với công chúng/cộng đồng; • Thoả mãn chuẩn cứ của người đầu tư và cải tiến sự tiếp cận với vốn; • Có được hợp đồng bảo hiểm với chi phí hợp lý;
File đính kèm:
de_tai_nghien_cuu_danh_gia_bo_tieu_chuan_iso_9000_va_1_phan.doc