Đề tài Một số khó khăn (bất cập) khi áp bộ tiêu chuẩn tnxh về lao động SA8000 tại công ty TNHH dịch vụ kỹ thuật Bình Nguyên

Việc thực hiện trách nhiệm xã hội là một công việc không thể bỏ qua trên con đường hội nhập của các doanh nghiệp Việt Nam, bởi nó vừa mang lại lợi ích cho doanh nghiệp, vừa mang lại lợi ích cho xã hội, đặc biệt là khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, của quốc gia và hỗ trợ thực hiện tốt hơn pháp luật lao động tại Việt Nam

Các doanh nghiệp phát triển theo hướng bền vững luôn gắn sự phát triển của mình với việc quan tâm đến cộng đồng, đến con người, và bảo vệ môi trường. Việc quan tâm này của doanh nghiệp ngày càng được xã hội đánh giái cao và ngược lại giúp doanh nghiệp có lợi thế hơn trong thị trường cạnh tranh, được nhiều khách hàng lựa chọn.Chúng ta đang trên con đường đổi mới phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa đã mang lại những kết quả rất quan trọng, nó đã đưa nước ta sang một giai đoạn phát triển mới, giai đoạn của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Song nó cũng đặt ra cho chúng ta một thách thức lớn về những khó khăn khi thực hiện trách nhiệm xã hội tại công ty.

Nhận thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề thất này em đã lựa chọn đề tài “ Một số khó khăn ( bất cập ) khi áp bộ tiêu chuẩn TNXH về lao động SA8000 tại công ty TNHH dịch vụ kỹ thuật BÌNH NGUYÊN ” làm đề tài để nghiên cứu cho chuyên đề này.

Do làm bài trong thời gian ngắn, điều kiện nghiên cứu chưa sâu, khả năng phân tích còn hạn chế và chưa có nhiều kinh nghiệm thực tế vậy không thể tránh khỏi những thiếu sót.Em chân thành cảm ơn thầy giáo : Nguyễn Ngọc Tuấn đã hướng dẫn và chỉ bảo em trong quá trình hoàn thành chuyên đề này

doc 29 trang Minh Tâm 28/03/2025 280
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Một số khó khăn (bất cập) khi áp bộ tiêu chuẩn tnxh về lao động SA8000 tại công ty TNHH dịch vụ kỹ thuật Bình Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề tài Một số khó khăn (bất cập) khi áp bộ tiêu chuẩn tnxh về lao động SA8000 tại công ty TNHH dịch vụ kỹ thuật Bình Nguyên

Đề tài Một số khó khăn (bất cập) khi áp bộ tiêu chuẩn tnxh về lao động SA8000 tại công ty TNHH dịch vụ kỹ thuật Bình Nguyên
 Chuyên đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp về lao động
 PHẦN MỞ ĐẦU
 I. Lý do chọn đề tài
 Việc thực hiện trách nhiệm xã hội là một công việc không thể bỏ qua 
trên con đường hội nhập của các doanh nghiệp Việt Nam, bởi nó vừa mang 
lại lợi ích cho doanh nghiệp, vừa mang lại lợi ích cho xã hội, đặc biệt là khả 
năng cạnh tranh của doanh nghiệp, của quốc gia và hỗ trợ thực hiện tốt hơn 
pháp luật lao động tại Việt Nam
 Các doanh nghiệp phát triển theo hướng bền vững luôn gắn sự phát 
triển của mình với việc quan tâm đến cộng đồng, đến con người, và bảo vệ 
môi trường. Việc quan tâm này của doanh nghiệp ngày càng được xã hội 
đánh giái cao và ngược lại giúp doanh nghiệp có lợi thế hơn trong thị trường 
cạnh tranh, được nhiều khách hàng lựa chọn.Chúng ta đang trên con đường 
đổi mới phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, định hướng 
xã hội chủ nghĩa đã mang lại những kết quả rất quan trọng, nó đã đưa nước 
ta sang một giai đoạn phát triển mới, giai đoạn của công nghiệp hóa, hiện đại 
hóa. Song nó cũng đặt ra cho chúng ta một thách thức lớn về những khó 
khăn khi thực hiện trách nhiệm xã hội tại công ty.
 Nhận thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề thất này em đã lựa chọn đề 
tài “ Một số khó khăn ( bất cập ) khi áp bộ tiêu chuẩn TNXH về lao 
động SA8000 tại công ty TNHH dịch vụ kỹ thuật BÌNH NGUYÊN ” làm 
đề tài để nghiên cứu cho chuyên đề này.
 Do làm bài trong thời gian ngắn, điều kiện nghiên cứu chưa sâu, khả 
năng phân tích còn hạn chế và chưa có nhiều kinh nghiệm thực tế vậy không 
thể tránh khỏi những thiếu sót.Em chân thành cảm ơn thầy giáo : Nguyễn 
Ngọc Tuấn đã hướng dẫn và chỉ bảo em trong quá trình hoàn thành chuyên 
đề này
 II. Mục tiêu nghiên cứu 
 Ngày nay, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bao hàm nhiều khía 
cạnh hơn. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, một doanh nghiệp hiện đại chỉ 
được xem là có trách nhiệm xã hội khi: đảm bảo được hoạt động của mình 
không gây ra những tác hại đối với môi trường sinh thái, tức là phải thể hiện 
sự thân thiện với môi trường trong quá trình sản xuất của mình, đây là một 
tiêu chí rất quan trọng không chỉ về mặt vật chất mà còn về mặt tinh thần, 
buộc người lao động làm việc đến kiệt sức hoặc không có giải pháp giúp họ 
tái tạo sức lao động của mình là điều hoàn toàn xa lạ với trách nhiệm xã hội 
của doanh nghiệp, phải tôn trọng quyền bình đẳng nam nữ, không được phân 
biệt đối xử về mặt giới tính trong tuyển dụng lao động và trả lương mà phải 
dựa trên sự công bằng về năng lực của mỗi người, không được phân biệt đối 
xử từ chối hoặc trả lương thấp giữa người bình thường và người bị khiếm 
khuyết về mặt cơ thể hoăc quá khứ của họ, phải cung cấp những sản phẩm 
có chất lượng tốt, phải biết quan tâm đến người lao động, người làm công 
SVTT: Trần Thị Bích Huệ_C-Đ10NL1 1 Chuyên đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp về lao động
cho gây tổn hại đến sức khỏe người tiêu dùng, đây cũng là một tiêu chí rất 
quan trọng thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp đối với người tiêu dung, 
dành một phần lợi nhuận của mình đóng góp cho các hoạt động trợ giúp 
cộng đồng. 
 Hiện nay, ở Việt Nam dù BSCI còn tương đối mới, nhưng trong xu thế 
hội nhập, việc sớm áp dụng BSCI là rất cần thiết. Bà Đinh Kim Hoàng. Phó 
giám đốc Sở LĐ-TB-XH TPHCM, nhìm nhận: “Sự phát triển lành mạnh của 
quan hệ lao động sẽ góp phần quan trọng vào khả năng cạnh tranh và sự 
thành công của DN. Từ thực tế này, các cơ quan chức năng và DN phải có 
cách tiếp cận mới về quan hệ lao động và quản lý lao động sao cho phù hợp 
với tình hình mới”. Bà Vũ Thu Hằng, Phó Giam đốc VCCI TPHCM, cho 
rằng: “Áp dụng BSCI, các nhà cung ứng xuất khẩu Việt Nam sẽ cải thiện lâu 
dài các tiêu chuẩn xã hội, qua đó thay đổi tốt hơn điều kiện làm việc cho 
người lao động, quan hệ lao động, kết quả kinh doanh và chất lượng xã hội 
của sản phẩm”.
 Cũng tại hội thảo, đa số doanh nghiệp nhìn nhận, BSCI không chỉ là 
tấm hộ chiếu cho hang hóa xuất khẩu Việt Nam vào thị trường quốc tế, mà 
còn là một “chứng chỉ về cải cách” cho DN Việt Nam, là minh chứng của 
mối quan hệ lao động lành mạnh trong một số ngành, nghề thường xảy ra 
tranh chấp lao động như may, da giày, chế biến gỗ, thực phẩm Ông In 
Huat ,Giam đốc điều hành công ty ITS Vietnam, nói: “Tôi nghĩ bộ tiêu 
chuẩn BSCI rất hữu ích cho DN Việt Nam, nhất là các DN may mặc. Thực tế 
cho thấy các công ty SDI tại Việt Nam như Nike, Ađía, Honda đã vươn 
lên rất mạnh nhờ áp dụng các bộ tiêu chuẩn dánh giá chung” . 
 III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 1. Đối tượng nghiên cứu
 - Bộ tiêu chuẩn thực hiện trách nhiệm xã hội
 - Quy định pháp luật ở Việt Nam
 2. Phạm vi nghiên cứu 
- Không gian : công ty TNHH Bình Nguyên
- Thời gian : 23/9 đến 23/10/2011 
 IV. Phương pháp nghiên cứu
 - Sưu tầm, tìm kiếm tài liệu trên internet
 - Phỏng phấn bộ phận quản lý
 - Phỏng vấn người lao động
 - Phỏng vấn công ty dịch vụ cung ứng
 V. Nguồn số liệu
- Sưu tầm, tìm kiếm tài liệu trên internet
SVTT: Trần Thị Bích Huệ_C-Đ10NL1 2 Chuyên đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp về lao động
 PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN
 I. Một số khái niệm
 1. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là gì ?
 ✓ CSR: Corporate social responsibility
 ✓ CSR là khái niệm mới xâm nhập vào Việt Nam khoảng hơn 10 
năm 
 ✓ CSR là luật chơi mới trong bối cảnh toàn cầu hóa và tự do hóa 
thương mại (Cạnh tranh toàn cầu)
 ✓ Theo Matten và Moon (2004) lại cho rằng: “CSR là một khái 
niệm chùm bao gồm nhiều khái niệm khác nhau như đạo đức kinh doanh, 
doanh nghiệp làm từ thiện, công dân doanh nghiệp, tính bền vững và trách 
nhiệm môi trường. Đó là một khái niệm động và luôn được thử thách trong 
từng bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội đặc thù” 
 ✓ Phát triển kinh tế tư nhân của Ngân hàng Thế giới (WB): “CSR 
là sự cam kết của doanh nghiệp đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền 
vững, thông qua những việc làm nâng cao chất lượng đời sống của người lao 
động và các thành viên trong gia đình họ; cho cộng đồng và toàn xã hội, theo 
cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như phát triển chung của xã hội” 
 ✓ Theo ông Thomas Thomas, CEO – Singapore Compact 
(www.csrsingapore.org) : Mục tiêu kinh doanh của DN đang dần theo xu 
hướng :
 - Lợi nhuận or (hoặc) môi trường + con người 
 - Lợi nhuận and (và) môi trường + con người
 - Lợi nhuận is (là) môi trường + con người
 ✓ Khái niệm CSR còn mới với nhiều DN tại Việt Nam ( Qui mô 
vừa và nhỏ) và năng lực quản lý, kiến thức chuyên môn trong thực hiện CSR 
ở DN còn hạn chế. 
 ✓ Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp là điều kiện ràng buộc đối với 
các hợp đồng xuất khẩu sang các nền kinh tế phát triển, buộc phải tuân thủ 
khi ký kết hợp đồng.
 ✓ Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp thể hiện qua các yêu cầu về 
tuân thủ chế độ lao động tốt, an toàn vệ sinh thực phẩm, sản phẩm sạch và 
bảo vệ môi trường. 
 ✓ Diễn giải cụ thể tất cả nội dung trên về CSR trong thời hội nhập 
toàn cầu hoá kinh tế hiện nay có thể hiểu như sau về nội hàm yêu cầu của nó:
 • Trách nhiệm với thị trường và người tiêu dùng 
 • Trách nhiệm về bảo vệ môi trường
 • Trách nhiệm với người lao động 
 • Trách nhiệm chung với cộng đồng. 
SVTT: Trần Thị Bích Huệ_C-Đ10NL1 3 Chuyên đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp về lao động
 2. SA 8000 là gì?
 SA 8000 là tiêu chuẩn quốc tế ban hành năm 1997, đưa các yêu cầu về 
Quản lý Trách nhiệm Xã hội nhằm cải thiện điều kiện làm việc trên toàn cầu. 
SA 8000 được Hội đồng Công nhận Quyền ưu tiên Kinh tế thuộc Hội đồng 
Ưu tiên kinh tế (CEP) xây dựng dựa trên các Công ước của Tổ chức lao 
động Quốc tế, Công ước của Liên Hiệp Quốc về Quyền Trẻ em và Tuyên bố 
Toàn cầu về Nhân quyền. Hội đồng Công nhận Quyền ưu tiên Kinh tế là một 
tổ chức Phi chính phủ, chuyên hoạt động về các lĩnh vực hợp tác trách nhiệm 
xã hội, được thành lập năm 1969, có trụ sở đặt tại New York.
 Tiêu chuẩn này có thể áp dụng cho các Công ty ở mọi qui mô lớn, nhỏ 
ở cả các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển
Tiêu chuẩn SA 8000 là cơ sở cho các công ty cải thiện được điều kiện làm 
việc. Mục đích của SA 8000 không phải để khuyến khích hay chấm dứt hợp 
đồng với các nhà cung cấp, mà cung cấp hỗ trợ về kỹ thuật và nâng cao nhận 
thức nhằm nâng cao điều kiện sống và làm việc.
 SA 8000 giúp các doanh nghiệp đạt được mục tiêu đặt ra và đảm bảo 
lợi nhuận liên tục. Công việc chỉ có thể được thực hiện tốt khi có một môi 
trường thuận lợi, và sự ra đời của tiêu chuẩn quốc tế SA 8000 chính là để tạo 
ra môi trường đó. Thuật ngữ “Trách nhiệm xã hội” trong tiêu chuẩn SA 8000 
đề cập đến điều kiện làm việc và các vấn đề liên quan như: Lao động trẻ em; 
Lao động cưỡng bức; An toàn sức khoẻ; Tự do hội họp và thoả ước lao động 
tập thể; Kỷ luật; Thời gian làm việc; Sự đền bù và hệ thống quản lý. 
 Lợi ích của việc áp dụng SA 8000
 - Nâng cao khả năng cạnh tranh của DN .
 - Thu hút sự nhìn nhận, tin tưởng và trung thành của khách hàng;
 - Đưa ra được tiêu chuẩn chung trên quy mô toàn cầu về ứng xử của DN 
nhằm tạo ra khả năng cạnh tranh công bằng.
 - Tăng cường khả năng mở rộng mạng lưới kinh doanh toàn cầu và tiếp 
cận những khách hàng đòi hỏi cao về giá trị đạo đức của sản phẩm và giúp 
DN đỡ mất thời gian phiền hà vì không phải trải qua các đợt kiểm tra liên 
ngành, kiểm tra chéo và các cuộc thanh tra về lao động
 3. Khái niệm về BSCI
 BSCI (Business Social Compliance Initiative – Bộ tiêu chuẩn đánh 
giá tuân thủ trách nhiệm xã hội trong kinh doanh) ra đời năm 2003 từ đề 
xướng của Hiệp hội Ngoại thương (FTA) với mục đích thiết lập một diễn 
đàn chung cho các quy tắc ứng xử và hệ thống giám sát ở châu Âu về trách 
nhiệm xã hội của doanh nghiệp. BSCI có 9 nội dung quan trọng là: Tuân thủ 
luật liên quan; tự do hội đoàn và quyền thương lượng tập thể; cấm phân biệt 
đối xử; trả công lao động; thời giờ làm việc; an toàn nơi làm việc; cấm lao 
động trẻ em; cấm lao động cưỡng bức; các vấn đề an toàn và môi trường.
SVTT: Trần Thị Bích Huệ_C-Đ10NL1 4 Chuyên đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp về lao động
 Tại cuộc hội thảo do Ban Quản lý dự án “Nâng cao trách nhiệm xã 
hội của doanh nghiệp ở Việt Nam” diễn ra ngày 19-6, bà Đinh Kim Hoàng-
Phó Giám đốc Sở LĐ-TB-XH TP.HCM cho biết: “Dù BSCI còn tương đối 
mới ở Việt Nam, nhưng trong xu thế hội nhập, việc sớm áp dụng BSCI là rất 
cần thiết”. 
 Cũng tại hội thảo, đa số doanh nghiệp nhìn nhận, BSCI không chỉ là 
tấm hộ chiếu cho hàng xuất khẩu Việt Nam vào thị trường quốc tế, mà còn là 
một chứng chỉ về cải cách cho doanh nghiệp Việt Nam, là minh chứng của 
mối quan hệ lao động lành mạnh trong các ngành nghề thường xảy ra tranh 
chấp như may, da giày, chế biến gỗ, thực phẩm Ông Jouko Kuisma-
Trưởng Phòng Trách nhiệm doanh nghiệp tập đoàn Kesko (Phần Lan) nhận 
định, đến nay đã có hơn 50 thương hiệu tại 9 quốc gia trên thế giới áp dụng 
BSCI. Việt Nam đang chuẩn bị vào WTO nên các doanh nghiệp cần sớm áp 
dụng bộ tiêu chuẩn này, vì một trong những lợi ích của BSCI là giúp doanh 
nghiệp Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh tại thị trường châu Âu và có cơ 
hội làm ăn nhiều hơn với các đối tác khác.
 Phù hợp với các Công ước ILO, Công ước Quốc tế về Quyền Con 
người của Liên Hiệp Quốc, Công ước của LiênHiệp Quốc về quyền trẻ em 
và việc loại bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ, Bản khế 
ướcToàn cầu của Liên Hiệp Quốc và Hướng dẫn của OECD, Hướng dẫn cho 
các Doanh nghiệp Đa Quốc gia, Bộ luật Ứng xử của BSCI nhằm đảm bảo 
tuân thủ với các tiêu chuẩn xã hội và môi trường cụ thể. Các công ty cung 
ứng phải đảm bảo rằng Bộ luật Ứng xử này cũng được xem xét bởi các nhà 
thầu phụ có liên quan đến các quy trìnhsản xuất của giai đoạn sản xuất sau 
cùng được thực hiện thay mặt cho các thành viên của BSCI.
 4. WRAP là gì ?
 4.1 Chương trình chứng nhận WRAP là gì ?
 WRAP được viết tắt của các từ Wroldwide Responsible Apparel 
Production – trách nhiệm trong sản xuất hàng may mặc trên quy mô toàn 
cầu. Các xí nghiệp sản xuất hàng may mặc cam kết thực hiện những nguyên 
tắc cơ bản của WRAP về lao động, điều kiện làm việc, môi trường và tuân 
thủ về các luật hải quan.
 Chương trình chứng nhận WRAP là một chương trình tuân thủ toàn 
diện một cách tự nguyện, được một tổ chức đánh giá độc lập giám sát và do 
ủy ban chứng nhận WRAP thực hiện.
 4.2 Sự ra đời của chương trình chứng nhận WRAP
 Trong những năm 1990, ngành công nghiệp may mặc luôn đi đầu 
trong việc sản xuất những sản phẩm trong điều kiện hợp pháp và phù hợp 
với đạo đức. Các xí nghiệp sán xuất hàng may mặc luôn phải tuân thủ các 
nguyên tắc đạo đức khác nhau trong sản xuất do các khách hàng yêu cầu 
 Các nguyên tắc đạo đức này được xây dựng và áp dụng cũng do đòi 
hỏi của luật pháp quốc gia, nơi xí nghiệp đang sản xuất, ví dụ luật lao động. 
luật công đoàn, sự gia tăng thương mại đối với các nước phát triển, yêu cầu 
SVTT: Trần Thị Bích Huệ_C-Đ10NL1 5 Chuyên đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp về lao động
của công ty đa quốc gia, của các bên liên quan và đặc biệt sự tham gia của 
các phương tiện truyền thông.
 Vài năm gần đây, các xí nghiệp sản xuất hàng may mặc đang đứng 
trước áp lực ngày càng tăng từ phía công ty bán lẻ, chính phủ, người tiêu 
dùng, cổ đông, các phương tiện truyền thông,các tổ chức phi chính phủ, tổ 
chức công đoàn về việc họ phải có trách nhiệm đối với những hoạt động 
sản xuất mang tính chất toàn cầu của họ.
 Một số doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc hàng đầu đã tập hợp tại 
Hiệp hội các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc Mỹ (viết tắt là AAMA) 
Năm 1998, ban lãnh đạo của AAMA đã thừa nhận các nguyên tắc cơ bản 
WRAP.
 Tháng 6/2000, sau hai năm nghiên cứu và phát triển, một ủy ban 
chứng nhận độc lập và phi lợi nhuận ra đời để đăng ký và cấp giấy chứng 
nhận cho những xí nghiệp phù hợp với các nguyên tắc WRAP.
 4.3 Những lợi ích khi áp dụng chương trình chứng nhận WRAP.
 Cải thiện điều kiện lao động, phù hợp yêu cầu luật pháp quốc gia, 
quốc tế giảm việc giám sát của khách hàng khác nhau ( các công ty thương 
mại hoặc cung cấp nhãn hiệu ), các thị trường khó tính ( Mỹ ,châu Âu )
 Sau 6 tháng thành lập, ủy ban chứng nhận WRAP đã nhận được bản 
đăng ký của 225 xí nghiệp từ ba quốc gia tự nguyện thực hiện nguyên tắc 
WRAP 
 Số lượng quốc gia tham gia tăng dần lên tới khoảng 50 nước với hơn 
500 xí nghiệp đăng ký.
 Hiện nay, chương trình chứng nhận WRAP được áp dụng trên quy mô 
toàn cầu, đặc biệt là Mỹ và các nước bán hàng cho Mỹ.
 Do yêu cầu của khách hàng Mỹ, ngày càng nghiệp xí nghiệp đang bán 
sản phẩm dệt may cho Mỹ ở xung quanh ta như Trung Quốc, Thái Lan, 
Indonesia thực hiện chương trình chứng nhận này để thu hút các đơn hàng 
về mình.
 II. Tình hình thực hiện trách nhiệm xã hội (TNXH) ở Việt Nam
 1. Áp dụng ở Việt Nam
 Văn phòng Giới sử dụng lao động (VCCI) phối hợp với Liên đoàn 
giới chủ Na Uy tổ chức hội nghị "Trách nhiệm xã hội của DN" tại Hà Nội. 
Đây là vấn đề được rất nhiều doanh nghiệp quan tâm và đó cũng là xu thế tất 
yếu của quá trình hội nhập tháng 3/2005.
 Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp cũng là cam kết đạo đức của 
giới kinh doanh về sự đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội bằng cách 
nâng cao đời sống của lực lượng lao động và gia đình họ, đồng thời nó mang 
lại các phúc lợi cho cộng đồng và xã hội.
 Là thành viên của WTO - ảnh hưởng gì đến trách nhiệm xã hội 
của doanh nghiệp ( DN ) ?
SVTT: Trần Thị Bích Huệ_C-Đ10NL1 6 Chuyên đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp về lao động
 Một trong những vấn đề được nhiều doanh nghiệp quan tâm và bàn 
luận là việc sau khi Việt Nam gia nhập WTO thì vấn đề trách nhiệm xã hội 
của doanh nghiệp sẽ được thực hiện như thế nào? Bởi lẽ khi tham gia WTO, 
có nghĩa Việt Nam đã tham gia vào một sân chơi quốc tế, ở đó tất cảcác vấn 
đề phát triển thương mại đều phải gắn liền với những "luật chơi" mà nếu 
thành viên nào không thực hiện sẽ bị loại ra khỏi "cuộc chơi" đó. Chẳng hạn 
muốn thâm nhập thị trường, các doanh nghiệp Việt nam (DNVN) phải đáp 
ứng được những yêu cầu về quan hệ lao động, môi trường, sức khoẻ, an toàn 
và bảo vệ môi trường... Thậm chí các đối tác thương mại sẽ tẩy chay sản 
phẩm hàng hoá của nước thành viên nào mà doanh nghiệp sản xuất ra sản 
phẩm đó không thực hiện đúng chuẩn mực về các trách nhiệm xã hội. Người 
tiêu dùng, hay nước nhập khẩu sản phẩm rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn 
tới sự sống còn của DN.
 Khi đã gia nhập WTO, một trong những vấn đề mà người tiêu dùng ở 
các nước thành viên quan tâm là sản phẩm đó đã được sản xuất ra như thế 
nào? 
 Ông Jon Vera -Giám đốc quan hệ quốc tế thuộc liên đoàn giới chủ Na 
Uy, ví dụ cách đây gần 10 năm ở Na Uy có nhập khẩu một số lượng lớn quả 
bóng từ Pakistan, nhưng sau khi biết sản phẩm này được sản xuất bởi lao 
động trẻ em chưa đến 15 tuổi, và phải làm việc rất nặng nhọc, người dân 
NaUy đã tẩy chay không sử dụng sản phẩm này. Cuối cùng nhà nhập khẩu 
cũng phải thay đổi nhà cung ứng sản phẩmsang các Cty có sử dụng nguồn 
lao động được bảo đảm tốt môi trường sản xuất. Ông cũng cho rằng ngoài 
việc phải đảm bảo phát triển thương hiệu của mình trên thị trường quốc tế, 
các DNVN sau khi gia nhập WTO cũng cần phải đảm bảo thương hiệu của 
mình là một DN thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, điều này có ý nghĩa quan 
trọng không kém gì việc đảm bảo thương hiệu sản phẩm mà DN đó làm
 Trách nhiệm xã hội - DN cần phải coi trọng
 Tại những nước có nền kinh tế phát triển, khái niệm này không còn 
xa lạ. Còn ở VN, đây là vấn đề còn khá mới mẻ, thậm chí nhiều DN còn 
chưa ý thức được vấn đề trách nhiệm xã hội của mình có tác động như thế 
nào tới sự phát triển của DN hoặc nếu có thực hiện cũng chỉ là chống đỡ 
hoặc đối phó. Nếu để thực hiện đúng như tiêu chuẩn quốc tế thì rất nhiều DN 
không đủ khả năngthực hiện.
 Trước đây, yếu tố trụ cột gắn liền với mục tiêu của bất cứ DN nào, kể 
cả DN nhà nước hay DN tư nhân đó là yếu tố kinh tế, lợi nhuận. Nhưng ngày 
nay trong xu thế toàn cầu hoá, các yếu tố cấu thành lợi nhuận không chỉ là 
yếu tố kinh tế, mà còn phải kể đến những yếu tố bên ngoài như môi trường, 
xã hội... Ví dụ, vài năm trước đây các DN thường cho rằng việc ô nhiễm môi 
trường chưa nghiêm trọng mấy ở những nước đang phát triển, do vậy ít ai 
quan tâm tới vấn đề này. Tại các nước công nghiệp phát triển , ô nhiễm môi 
trường đã trở thành vấn đề nan giải, luật pháp xử nghiêm việc thải chất độc 
ra môi trường, thậm chí các DN sẽ phải trả tiền cho sự ô nhiễm môi trường 
SVTT: Trần Thị Bích Huệ_C-Đ10NL1 7 Chuyên đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp về lao động
do mình gây ra. Còn tại Việt Nam trong vài năm trở lại đây, hiện tượng gây 
ô nhiễm môi trường, làm thay đổi hệ sinh thái, huỷ hoại những cánh đồng, ao 
cá, nguồn nước... từ các nhà máy đã được các cơ quan thông tấn, báo chí 
nhắc nhiều song vấn đề này vẫn còn tiếp diễn và hầu như vẫn chưa có giải 
pháp xử lý thích hợp và triệt để.
 Trách nhiệm xã hội của DN gắn liền với 3 yếu tố: hoạt động kinh tế, 
hoạt động môi trường và hoạt động xã hội. Những đối tượng chính liên quan 
tới trách nhiệm xã hội là những người chủ DN, người lao động, chính phủ, 
các đối tác, người tiêu dùng...
 Nhiều chuyên gia đến từ Na Uy đã chia sẻ những kinh nghiệm của 
mình với các DN về vấn đề này. Ông Jon Veracho biết ở Na Uy cũng giống 
như ở VN hiện nay, có nhiều loại hình DN khác nhau và theo luật pháp, tất 
cả các DN này đều phải có trách nhiệm với sự phát triển chung của xã hôi, 
không chỉ quan tâm tới người lao động trong Cty của họ mà còn phải quan 
tâm tới cả gia đình, chăm sóc sức khoẻ, y tế cộng đồng... Tuy nhiên một câu 
hỏi được đặt ra là khi các DN này phải quan tâm tới các vấn đề xã hội liệu có 
ảnh hưởng tới vấn đề lợi nhuận, tới sự phát triển của DN? Người ta nói là 
quan tâm tới lợi ích kinh tế nó cũng tạo ra lợi ích cho xã hội, nhưng thực tế ở 
nhiều nước trên thế giới vấn đề trách nhiệm xã hội của DN cũng đang được 
đòi hỏi rất cao.
 Ông Phùng Quang Huy- Giám đốc Văn phòng giới sử dụng lao 
động VCCI cho rằng hiện nay, nhiều chủ DN rất bối rối vì họ cảm thấy có 
sự giằng xé về trách nhiệm về kinh tế DN và trách nhiệm đối với xã hội. Tuy 
nhiên, trong quá trình phát triển và hội nhập hiện nay của các DN, chắc chắn 
vấn đề trách nhiệm xã hội sẽ nảy sinh, đòi hỏi DN phải có cách xử lý thoả 
đáng và thực tế sẽ chứng minh việc giải quyết vấn đề xã hội cũng là một yếu 
tố làm nên lợi nhuận DN. Thực tế cho thấy, khi thực hiện tốt trách nhiệm xã 
hội, sẽ cải thiện tình hình tài chính, giảm chi phí hoạt động, nâng cao uy tín, 
quản lý rủi ro và giải quyết khủng hoảng tốt hơn, thúc đẩy cam kết với người 
lao động, quan hệ tốt với Chính phủ và cộng đồng, tăng năng suất... Bên 
cạnh đó nếu người lao động có các điều kiện môi trường làm việc thuận lợị 
sẽ thúc đẩy họ làm việc tốt hơn tạođiều kiện cho DN tiếp cận với thị trường 
thế giới, mở rộng thị trường cho sản phẩm của mình,
 Nói một cách hình ảnh, có chủ DN đã ví von theo cách nói của người 
Việt, DN làm trách nhiệm xã hội sẽ không đi đâu mà thiệt, như là làm cho 
“nước nổi thì bèo nổi”, xã hội lành mạnh, DN phát triển và lợi nhuận tăng 
lên.
 Ông Khúc Tiến Học - Ban Chính sách và Kinh tế xã hội, Tổng 
Liên đoàn Lao động VN: DN đã bắt đầu quan tâm tới TNXH. Tôi cho rằng 
hiện nay vấn đề trách nhiệm xã hội đã bắt đầu được các DN quan tâm và coi 
trọng, ví dụ như làm từ thiện, xây trường học... Tuy nhiên việc thực hiện còn 
ít và chưa mang tính xã hội hoá. Chỉ có một số DN thực hiện tốt vấn đề này, 
DN phần lớn vẫn chỉ quan tâm tới lợi nhuận chứ chưa quan tâm nhiều tới 
SVTT: Trần Thị Bích Huệ_C-Đ10NL1 8 Chuyên đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp về lao động
trách nhiệm xã hội. Chỉ có những DN lớn, hoặc đã phát triển tới trình độ cao 
rồi thì họ mới bắt đầu nghĩ tới việc thực hiện trách nhiệm xã hội.
 Ông Vũ Hữu Kiên- Phó giám đốc trung tâm dịch vụ việc làm Hà 
Nội: Cần tuyên truyền mạnh. Tôi đã có dịp tiếp xúc với nhiều DN, tôi thấy 
các DNNVV ở Việt Nam đã bắt đầu có ý thức được trách nhiệm của mình 
đối với xã hội, bởi vì họ muốn mở rộng sản xuất và hội nhập quốc tế thì đây 
là điều mà họ bắt buộc phải quan tâm, nhất là khi tham gia vào AFTA chứ 
chưa nói gì tới WTO. Tôi cho rằng, để thực hiện tốt việc này, các cơ quan 
chức năng cần phải tuyên truyền, và "chỉ đường" cho các DN thực hiện, nêu 
gương các DN làm tốt. Hiện nay, có nhiều DN vẫn chưa ý thức được trách 
nhiệm xã hội có liên quan như thế nào tới quá trình phát triển của DN mình, 
chẳng hạn vấn đề ô nhiễm môi trường, vấn đề nước thải... họ vẫn cho rằng 
đây là vấn đề công cộng.
 Bà Nguyễn Thị Xuân Thảo- Chánh Văn phòng Cty cổ phần may 
Thăng Long: Vấn đề sống còn của DN. Thực hiện trách nhiệm xã hội đối 
với một DN là điều rất quan trọng trong quá trình hội nhập hiện nay. Nó là 
sự sống còn của DN, nếu DN thực hiện không tốt điều này sẽ ảnh hưởng trực 
tiếp tới sự phát triển của DN, đặc biệt là các DN dệt may có sản phẩm xuất 
khẩu sang Mỹ hoặc Châu Âu. Đây là một trong những cam kết đầu tiên của 
các DN này, người mua rất quan tâm tới sản phẩm, sản phẩm đó phải được 
thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn và phải được sản xuất trong môi trường bình 
đẳng và không gây ô nhiễm môi trường. Việc thực hiện trách nhiệm xã hội 
không chỉ tạo môi truờng làm việc trong sạch mà nó còn nâng cao được uy 
tín, thương hiệu của DN. Bên cạnhđó, chất lượng sản phẩm, năng suất lao 
động cũng được nâng cao do điều kiện làm việc của người lao động được 
đảm bảo. Việc DN quan tâm tới sức khoẻ của người lao động chính là một 
cách tái tạo sức lao động để người lao động làm việc có năng suất và chất 
lượng hơn. Tuy nhiên chi phí ban đầu bỏ ra để thực hiện những vấn đề này 
khá lớn, không phải DN nào cũng có thể làm được ngay, nhiều DN ý thức 
được điều này nhưng do nhiều yếu tố mà họ không thể thực hiện được mong 
muốn của mình.
 Bà Leif Iversen - Giám đốc điều hành ETI Na Uy: Ảnh hưởng lớn 
tới quá trình hội nhập của Việt Nam. Trách nhiệm xã hội của DN là vấn đề 
hàng đầu ở các nước phát triển.Ở Na Uy, tất cả các DN đều thực hiện tốt vấn 
đề này. DN không thực hiện tốt thì chính họ sẽ bị đào thải ra khỏi guồng 
quay phát triển. Việc DN có trách nhiệm với xã hội không chỉ có nghĩa là 
DN hoàn thành các nghĩa vụ pháp lý mà còn phải tuân thủ và đầu tư nhiều 
hơn vào nguồn lực con người, môi trường và mối quan hệ với các bên liên 
quan. Tôi cho rằng VN là nước đang phát triển và đang trong quá trình hội 
nhập kinh tế thế giới, vấn đề trách nhiệmxã hội của DN cần phải đuợc thực 
hiện tốt và nghiêm chỉnh thì mới có thể thực sự hội nhập. Và điều này cũng 
ảnh hưởng lớn tới quá trình hội nhập của VN.
SVTT: Trần Thị Bích Huệ_C-Đ10NL1 9 Chuyên đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp về lao động
 Cũng tại hội thảo, đa số doanh nghiệp nhìn nhận, BSCI không chỉ là 
tấm hộ chiếu cho hàng xuất khẩu Việt Nam vào thị trường quốc tế, mà còn là 
một chứng chỉ về cải cách cho doanh nghiệp Việt Nam, là minh chứng của 
mối quan hệ lao động lành mạnh trong các ngành nghề thường xảy ra tranh 
chấp như may, da giày, chế biến gỗ, thực phẩm Ông Jouko Kuisma-
Trưởng Phòng Trách nhiệm doanh nghiệp tập đoàn Kesko (Phần Lan) nhận 
định, đến nay đã có hơn 50 thương hiệu tại 9 quốc gia trên thế giới áp dụng 
BSCI. Việt Nam vào WTO nên các doanh nghiệp cần sớm áp dụng bộ tiêu 
chuẩn này, vì một trong những lợi ích của BSCI là giúp doanh nghiệp Việt 
Nam nâng cao sức cạnh tranh tại thị trường châu Âu và có cơ hội làm ăn 
nhiều hơn với các đối tác khác.
 Tiêu chuẩn BSCI 2003 được áp dụng cho tất cả tổ chức, không phân 
biệt loại hình, địa điểm, quy mô,... 
 Đây là tiêu chuẩn mang tính chất tự nguyện, tập trung vào việc quản 
lý liên quan đến trách nhiệm xã hội. 
 Khi tổ chức xây dựng và đáp ứng theo tiêu chuẩn BSCI 2003, tổ chức 
có hệ thống quản lý trách nhiệm xã hội có thể tạo ra môi trường làm việc 
giảm thiểu rủi ro liên quan đến an toàn lao động, công nhân được đối xử 
công bằng, nhằm thỏa mãn nhu cầu của người lao động, khách hàng và yêu 
cầu luật pháp.
 2. Áp dụng ở Doanh nghiệp 
 Trong những năm qua, chính sách đổi mới và mở cửa, chủ động hội 
nhập kinh tế của Đảng và Nhà nước đã mang lại những thành tựu to lớn 
trong sự phát triển kinh tế – xã hội nước ta, làm thay đổi căn bản hình ảnh 
Việt Nam trên trường quốc tế. Toàn cầu hoá kinh tế là một xu hướng khách 
quan tạo nhiều cơ hội phát triển cho quốc gia, cho ngành công nghiệp, trong 
đó có ngành Da Giầy (phát triển với tốc độ tăng trưởng cao, sử dụng hiệu 
quả mọi nguồn lực, trước hết là nguồn nhân lực, tạo nhiều công ăn việc làm, 
giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống cho 
người lao động ).
 Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu 
tranh và cạnh tranh, có nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Một 
trong những thách thức lớn đối với các DN là thực hiện “Những yêu cầu về 
lao động”, đáp ứng yêu cầu của các nhà nhập khẩu và thoả mãn nhu cầu 
người tiêu dùng. 
 Những bộ quy tắc này không đồng nhất, có nhiều sự khác biệt tuỳ theo 
mức độ chấp nhận của từng thị trường, từng khu vực và khả năng của đối tác 
làm cho các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong đầu tư và thực hiện 
đáp ứng các yêu cầu. Đặc biệt đối với các DN vừa và nhỏ khả năng thực hiện 
rất hạn chế.
 Nhằm giúp các DN trong ngành vượt qua những khó khăn hạn chế nêu 
trên, vươn lên thực hiện tốt những yêu cầu về “ Trách nhiệm xã hội DN”, 
được sự hỗ trợ của tổ chức ActionAid Việt nam, 
SVTT: Trần Thị Bích Huệ_C-Đ10NL1 10

File đính kèm:

  • docde_tai_mot_so_kho_khan_bat_cap_khi_ap_bo_tieu_chuan_tnxh_ve.doc